TIN LIÊN QUAN
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 20
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 20
MỤC LỤC
Trang
|
|
Lời nói đầu
|
|
I. NỘI DUNG
TÌNH HUỐNG
|
|
1.1. Hoàn cảnh
ra đời và xuất hiện của tình huống
|
|
1.2. Mô tả
tình huống
|
|
II. PHÂN TÍCH
TÌNH HUỐNG
|
|
2.1. Mục tiêu
phân tích tình huống
|
|
2.2. Cơ sở lý
luận
|
|
2.3. Phân tích
diễn biến tình huống
|
|
2.4. Nguyên
nhân dẫn đến tình huống
|
|
2.5. Hậu quả
của tình huống
|
|
III. XỬ LÝ
TÌNH HUỐNG
|
|
3.1. Mục tiêu
xử lý tình huống
|
|
3.2. Đề xuất
xử lý tình huống
|
|
3.3. Lựa chọn
giải pháp
|
|
IV. KIẾN NGHỊ
|
|
4.1. Kiến nghị
với Đảng
|
|
4.2. Kiến nghị
với cơ quan chức năng
|
|
V. KẾT LUẬN
|
|
TÀI LIỆU THAM
KHẢO
|
LỜI NÓI ĐẦU
Nâng
cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, thúc đẩy công cuộc cải cách hành
chính để phục vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới đã và đang đặt ra yêu
cầu phải bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức. Vì vậy, trong thời
gian qua, tại các Học viện, Trường Đại học thường xuyên mở các lớp, các khoá
bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ, công chức đang công tác tại các cơ quan nhà
nước, trong đó có lớp …(khoá…bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước). Lớp học
được tổ chức tại…trong thời gian…từ ngày…tháng…đến ngày….tháng…năm 2010.
Nội dung của khoá học bao gồm các kiến
thức và kỹ năng quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực, như…, trong đó chú trọng
bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về đất đai và giải quyết các tranh chấp
đất đai nhằm giúp cán bộ, công chức công tác tại các địa phương xử lý tốt các
vấn đề liên quan đến đất đai trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Quản
lý nhà nước về đất đai là một lĩnh vực hiện đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp
do hệ thống pháp luật về đất đai chưa hoàn thiện, quá trình đô thị hoá nông
thôn, hiện đại hoá các đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng, các cơ sở kinh tế diễn
ra với tốc độ chóng mặt trong khi cơ chế quản lý nhà nước về đất đai, ý thức
pháp luật của người dân, của cán bộ, công chức trong giải quyết các quan hệ
liên quan đến đất đai còn nhiều hạn chế…Đây chính là những nguyên nhân cơ bản
dẫn đến các tranh chấp đất đai trong nhân dân diễn ra phổ biến tại nhiều địa
phương. Trong khi đó, quá trình giải quyết của các cơ quan nhà nước còn chưa
thống nhất, thậm chí chưa đúng với các quy định pháp luật hiện hành, gây nên
nhiều bức xúc cho các đối tượng tham gia quan hệ pháp luật, làm nảy sinh các dư
luận xã hội và các hành vi tiêu cực trong nhân dân, cá biệt có nhiều vụ việc từ
các tranh chấp đất đai dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức.
Vì vậy, giải quyết hợp lý, hợp tình các tranh chấp đất đai trong giai đoạn hiện
nay có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn an ninh trật tự tại các địa phương
và xây dựng niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước.
Từ
những lý do đó, việc lựa chọn vấn đề “Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp
đất đai của chính quyền địa phương hiện nay” có ý nghĩa quan trọng cả về lý
luận và thực tiễn.
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1.1. Hoàn cảnh ra đời và xuất hiện của tình
huống
KG là tỉnh có tiềm năng kinh tế đa dạng về
nông nghiệp, khai thác hải sản, công nghiệp vật liệu xây dựng và du lịch nhưng
cũng là một trong số các tỉnh phát sinh nhiều tranh chấp, khiếu nại, tố cáo
liên quan đến đất đai.
Trong
5 năm qua, toàn tỉnh giải quyết 3.970 đơn khiếu nại, tố cáo, 55 vụ khiếu kiện
tập thể đông người. Riêng Thanh tra tỉnh tham mưu giải quyết 807 đơn khiếu nại,
tố cáo và 12 vụ khiếu kiện tập thể. Cùng với việc trực tiếp tham mưu giải quyết
khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, Thanh tra tỉnh thường xuyên tổ chức các
cuộc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của chủ tịch UBND các huyện, thị, sở,
ngành trong việc thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo, qua đó chấn chỉnh những tồn
tại, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ, giúp cơ sở thực hiện tốt công tác tiếp
công dân, giải quyết khiếu kiện hành chính lần đầu và hòa giải tranh chấp đất
đai ở cơ sở, hạn chế đến mức thấp nhất đơn khiếu kiện vượt cấp, giữ được mối
quan hệ tình làng nghĩa xóm trong cộng đồng dân cư.
HT là thị xã nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh KG,
phía Bắc giáp Campuchia, nơi có đường biên giới dài 13,7 km, phía Đông và Nam giáp huyện KL, phía Tây giáp vịnh Thái Lan với đường bờ biển dài 22 km. Về hành chính, thị xã HT bao gồm
5 phường và 2 xã, trong
đó có xã TY.
Từ
khi nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân xã TY được nâng cao, nhiều nông
dân giàu lên từ kinh tế nông, lâm nghiệp. Hàng loạt các dự án phát triển kinh
tế, du lịch được thực hiện trên địa bàn làm cho bộ mặt của xã mỗi ngày một đổi
mới, đồng thời, mở ra nhiều cơ hội cho các cá nhân, các hộ gia đình làm ăn phát
triển kinh tế. Tuy nhiên, cũng từ đây phát sinh nhiều hiện tượng xã hội tiêu
cực như cờ bạc, cá độ, nghiện hút, mại dâm…và các tranh giành liên quan đến đất
đai làm nảy sinh nhiều khiếu kiện phức tạp. Một trong số các vụ việc đó là trường
hợp tranh chấp đất đai giữa bà Võ Thị B với ông Đoàn Quốc P.
1.2. Mô tả tình huống
Ông
Đoàn Quốc P là con của ông Đoàn Hữu Y và bà Nguyễn Thị C. Ông Y và bà C đã cư
ngụ tại xã TY từ năm 1969. Năm 1976, gia đình bà C tiến hành trồng dừa trên
diện tích đất vốn là bãi bồi ven biển phía trước nhà. Năm 1977, gia đình bà B
di tản chiến tranh biên giới Tây Nam từ chợ Giang Thành, Tân Khánh Hoà đến và
tiến hành cải tạo để ở và canh tác trên diện tích đất này (trước vốn chỉ toàn
là bùn lầy và cây cối, không có chỗ trống) mà không có ai ngăn cản. Toàn bộ thổ
đất gia đình bà B sử dụng rộng 489,98 m2, trong đó có 360,73 m2 để ở, còn
lại là 129,25 m2 bà B dùng để trồng một số cây hoa màu, trên đó còn
có 3 cây dừa của bà C trồng trước đây. Trên diện tích 129,25 m2, gia
đình bà B sử dụng mặt đất, riêng 3 cây dừa do gia đình bà C hái trái, thu hoạch
thường xuyên, hai bên sinh sống thuận hoà, “tắt lửa tối đèn” có nhau, không
tranh chấp gì. Diện tích trước đây trồng dừa bà C tiếp tục thu hái nhưng đến
năm 1981 bị hỏng gần hết do thiên tai (chỉ còn 3 cây dừa trên diện tích đất
129,25 m2), bà C cũng không tiến hành trồng lại từ đó, nhưng thỉnh
thoảng vẫn hái quả của 3 cây dừa cho con cháu trong nhà dùng.
Năm
2005, bà C làm đơn xin cấp 3.200 m2 đất bãi bồi ven biển (bao gồm cả
phần đất hộ gia đình bà B đang sử dụng), được Uỷ ban nhân dân thị xã HT duyệt
cho mượn sản xuất, nhưng trên thực tế gia đình bà C không sử dụng phần đất
này. Sự việc bà C được mượn diện tích
đất trên bà B không hề biết.
Năm
2008 vợ chồng bà C chết. Các con của ông bà có 5 người, đều đã có gia đình và
sinh sống trên địa bàn xã TY nhưng đều không làm nông nghiệp mà buôn bán và
kinh doanh dịch vụ Internet. Riêng phần đất của gia đình nay do ông Đoàn Quốc P
cùng vợ là bà Nguyễn Thị M và 3 người con sinh sống. Phía gia đình bà B, vợ
chồng bà có 2 người con, 1 trai, 1 gái. Người con trai đã mất trong thời kỳ
chiến tranh, người con gái đã lấy chồng ở cùng trên diện tích đất này nhưng
tháng 12 năm 2008 chồng chị bị tai nạn ô tô qua đời nên chỉ còn bà B, con gái
và 2 đứa cháu sống trên mảnh đất này. Trong suốt thời gian sinh sống tại đây,
gia đình bà B đều thực hiện tốt các nghĩa vụ với chính quyền địa phương.
Năm
2009, thị xã có quy hoạch xây dựng khu vui chơi giải trí và mở đường lớn đi qua
phần đất từ hộ gia đình ông P sinh sống kéo qua phần đất của gia đình bà C ra
phía biển. Vì vậy, khu đất bỗng trở nên có giá, nhiều người nhòm ngó đến hỏi
mua. Biết khu đất do gia đình bà B đang ở thuộc phần đất mà mẹ mình mượn của thị
xã để sản xuất, ông P đã yêu cầu bà B giao trả phần diện tích còn trống cập bên
hông nhà đo thực tế là 129 m2 (chưa trừ lộ giới) với lý do rằng đất
góc của cha mẹ ông. Bà B không đồng ý nhưng ông P và vợ nhiều lần có hành vi đe
doạ, tiến hành xây tường để khoanh khu đất nhập vào đất nhà mình. Sau nhiều lần
thương lượng và nhờ hàng xóm, trưởng ấp can thiệp nhưng không được, ngày
10/7/2009 bà B đã làm đơn gửi đến Uỷ ban nhân dân xã TY yêu cầu giải quyết. Uỷ
ban nhân dân xã TY đã tiến hành gặp gỡ hai bên để hoà giải nhưng không thành
nên đã lập biên bản hoà giải không thành (ngày 22/10/2009) và hướng dẫn bà B
gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân thị xã HT yêu cầu giải quyết.
Ngày
27/10/2009, bà B gửi đơn yêu cầu Uỷ ban nhân dân thị xã HT giải quyết tranh
chấp giữa bà và ông P về quyền sử dụng diện tích đất 129,25 m2. Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT trên cơ sở kết quả xác minh của cơ quan thanh
tra đã bác đơn của bà B, đồng thời, ra Quyết định số 56/QĐ-UBND ngày 02 tháng
12 năm 2009 giải quyết sự việc theo hướng công nhận diện tích 94,90 m2
(đo thực tế là 129,25 m2) thuộc quyền sử dụng của bà C vì đã được Uỷ
ban nhân dân thị xã HT chấp thuận cho phép sử dụng từ năm 2005. Nay bà C và ông
Y đã chết thì ông P và các anh em phải cắt cử đại diện đăng ký cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Buộc bà B phải trả lại diện tích đất trên
cho ông P để ông P và em làm các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện
tích đất này.
Bà
B không đồng ý với quyết định đó của Uỷ ban nhân dân thị xã HT nên đã làm đơn
khiếu nại gửi đến UBND tỉnh KG (ngày 30 tháng 1 năm 2010). Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh KG đã yêu cầu Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Thanh tra tỉnh
thành lập tổ tư vấn giải quyết khiếu nại của bà B để tiến hành thẩm tra, xác
minh khiếu nại. Trên cơ sở hồ sơ thẩm tra, xác minh, Uỷ ban nhân dân tỉnh KG
cho rằng khiếu nại của bà B là có cơ sở để xem xét, giải quyết và việc giải
quyết của Uỷ ban nhân dân thị xã HT là chưa phù hợp vì gia đình bà B đã sử dụng
ổn định mảnh đất trên từ năm 1977 đến nay.
Sự
thiếu thống nhất trong cách giải quyết của Uỷ ban nhân dân thị xã HT và quan
điểm giải quyết của Uỷ ban nhân dân tỉnh KG đã khiến cho bà B quyết tâm theo
đuổi nội dung khiếu nại của mình.
Vậy,
bà B có được quyền sử dụng diện tích 129,25 m2 không ? Cách xử lý
của Uỷ ban nhân dân thị xã HT và quan điểm xử lý Uỷ ban nhân dân tỉnh KG là
đúng hay sai ? Đây là những vấn đề cần được xem xét và giải quyết một cách hợp
lý, hợp tình trên cơ sở các quy định của pháp luật về đất đai.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống
Mục
tiêu của việc phân tích tình huống trên là nhằm làm sáng tỏ việc giải quyết
khiếu nại của Uỷ ban nhân dân thị xã HT và quan điểm của Uỷ ban nhân dân tỉnh
KG đối với khiếu nại của bà B là đúng hay sai, xác định nguyên nhân, hậu quả
của tình huống để làm cơ sở cho việc tìm ra phương án tối ưu để giải quyết tình
huống.
2.2. Cơ sở lý luận
Tranh
chấp đất đai là một hiện tượng bình thường trong đời sống xã hội. Đối với Việt
Nam, trong suốt thời gian từ khi chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai được
thiết lập từ năm 1980 cho đến nay, tranh chấp đất đai
luôn là vấn đề thời sự, có những diễn biến rất phức tạp, ảnh hưởng xấu đến việc
quản lý, sử dụng đất nói riêng và gây những bất ổn nhất định đối với đời sống
kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta
đã đặt ra nhiều quy định nhằm giải quyết tốt nhất các tranh chấp đất đai phát
sinh trong nhân dân. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành
Trung ương về nông nghiệp, nông dân và nông thôn xác định nhiệm vụ của toàn thể
hệ thống chính trị là “Đấu
tranh, ngăn chặn các hành vi tiêu cực, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã
hội, giải quyết kịp thời các vụ việc khiếu kiện của nhân dân, không để gây
thành những điểm nóng ở nông thôn”.
Về
phía Nhà nước ta coi việc giải quyết các tranh chấp đất đai trong nhân dân là
một nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành, trong đó chủ yếu là chính
quyền địa phương các cấp. Luật đất đai năm 2003 xác định: Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu
nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai là một nội dung
quan trọng của quản lý nhà nước về đất đai. Để giải quyết các tranh chấp này,
Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định của Chính phủ số
181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành luật đất đai; Nghị định của Chính
phủ số 84/2008/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung quyền cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu
nại về đất đai...đã xác định cụ thể thẩm quyền giải quyết tranh chấp, các khiếu
nại, tố cáo về đất đai; xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai và trách nhiệm
của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý
vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai tại địa phương...Đây chính là
những cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết các tranh chấp về đất đai.
2.3. Phân tích diễn biến tình huống
Từ
các nội dung của tình huống cho thấy, tranh chấp đất đai giữa ông P và bà B nảy
sinh khi giá trị khu đất có sự thay đổi, mối quan hệ vốn thân thiết, láng giềng
“tắt lửa tối đèn”, cưu mang lẫn nhau trong những lúc khó khăn giờ đã bị đặt
sang một bên để nhường chỗ cho những toan tính nhỏ nhen bắt đầu kể từ khi mảnh
đất trước kia chỉ là bãi lầy, đầy cây cối hoang vu nay đã được cải tạo để trở
thành một mảnh đất có giá. Cũng từ việc giải quyết tranh chấp giữa ông P và bà
B cho thấy những hạn chế trong quản lý nhà nước về đất đai nói chung và địa bàn
xã TY nói riêng.
Sự
việc bà B không biết gì việc bà C làm đơn xin cấp 3.200 m2 đất,
trong đó có cả diện tích đất mà hộ gia đình bà B đang ở và được Uỷ ban nhân dân
thị xã HT cho phép mượn diện tích đất đó để sản xuất cho thấy Uỷ ban nhân dân
thị xã HT đã không thực hiện đúng thẩm quyền và thủ tục do pháp luật quy định.
Theo các quy định pháp luật về đất đai thì Uỷ ban nhân dân thị xã HT phải làm
các thủ tục để cho bà C thuê đất chứ không phải là cho mượn đất. Mặt khác, bất
kể là cho thuê hay cho mượn đất thì với diện tích đất như vậy, trước khi quyết
định phải tiến hành điều tra, xác minh trên thực địa. Nếu khâu này được làm tốt
thì không thể cho phép bà C sử dụng diện tích đất 3.200 m2 để sử
dụng vào việc sản xuất mà trên đó có hộ gia đình bà B đang ở ổn định từ năm
1977. Việc lấy đất (có nguồn gốc từ khai hoang) của một hộ gia đình đang ở và
sản xuất để cho một người khác mượn là hoàn toàn không đúng với quy định của
pháp luật.
Mặt
khác, việc bà C được phép sử dụng 3.200 m2 đất để sản xuất nhưng đã
không sử dụng trong một thời gian dài cho thấy sự buông lỏng quản lý mục đích
của người sử dụng đất trên thực tế của Uỷ ban nhân dân xã TY và Uỷ ban nhân dân
thị xã HT.
Khi
có tranh chấp xảy ra, Uỷ ban nhân dân xã TY đã tiến hành hoà giải tranh chấp
giữa ông P và bà B nhưng thời gian hoà giải không tuân thủ đúng quy định tại
Điều 135 Luật đất đai năm 2003.
Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT ra quyết định công nhận diện tích 129, 25 m2
đất thuộc quyền sử dụng của ông P trên cơ sở diện tích đất này nằm trong diện
tích 3.200 m2 đất mà Uỷ ban nhân dân thị xã HT đã cho bà C (mẹ của
ông P) mượn từ năm 2005 là có cơ sở pháp lý nhưng chính cơ sở pháp lý đó lại
không hợp pháp và không có cơ sở thực tế, bởi lô đất đó bà B đã sử dụng ổn
định, lâu dài, không hề có sự tranh chấp trong suốt quá trình sử dụng, mặt khác
bà C từ khi được mượn cũng không hề sử dụng đất này để sản xuất.
Mặc
dù đã có quyết định giải quyết tranh chấp giữa ông P và bà B nhưng khi bà B
chưa đồng ý với quyết định đó, tức việc tranh chấp đất đai chưa được giải quyết
xong mà Uỷ ban nhân dân thị xã HT đã hướng dẫn cho ông P đại diện để đăng ký
quyền sử dụng đất là không đúng. Việc bà B tiếp tục yêu cầu Uỷ ban nhân dân
tỉnh KG giải quyết tranh chấp đất đai là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật.
Theo quy định tại Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật
Đất đai, với diện tích đất đang có tranh chấp thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương giải quyết dứt điểm để xác định người sử dụng đất.
Cũng
theo quy định tại Nghị định này, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất phi nông
nghiệp do tự khai hoang thì việc công nhận quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại khoản 6 Điều 50 Luật
Đất đai. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp do tự khai hoang mà
đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt, không có tranh
chấp, sử dụng đất có hiệu quả thì được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối
với diện tích đất trong hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại các khoản 1,
2, 3 và 4 Điều 70 của Luật Đất đai; trường hợp vượt hạn mức thì được tính thêm
hạn mức quy định tại khoản 5 Điều 70 của Luật Đất đai và khoản 4 Điều 69 của
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP; nếu vượt hạn mức đã tính thêm thì phải chuyển sang
thuê đất đối với diện tích vượt hạn. Như vậy, quan điểm giải quyết của Uỷ ban
nhân dân tỉnh KG là hoàn toàn có cơ sở.
2.4. Nguyên nhân dẫn đến tình huống
Nguyên
nhân dẫn đến tranh chấp đất đai giữa ông P và bà B bao gồm những nguyên nhân
khách quan và chủ quan như sau:
2.4.1.
Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, các quy định pháp luật về đất đai
còn nhiều bất cập, một số quy định không phù hợp với thực tế.
Cùng
với sự phát triển ngày càng phức tạp của các quan hệ pháp luật dân sự và đất
đai mà các quy định pháp luật về đất đai ngày càng hoàn thiện nhưng vẫn chưa
thực sự phù hợp với thực tế. Phần lớn đất ở và đất sản xuất ở nông thôn, miền
núi, vùng sâu, vùng xa có nguồn gốc từ hoạt động khai hoang của các hộ gia đình
và được họ sử dụng ổn định lâu dài, được cộng đồng thừa nhận mà không có các
loại giấy tờ theo quy định của Nhà nước. Người dân vốn chỉ quan tâm đến việc
sinh sống không mấy quan tâm đến thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực
đất đai trừ khi có sự tác động của Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước ở
địa phương. Mà thường thì nếu không có tranh chấp các cơ quan, chính quyền địa
phương cũng thờ ơ trước quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Thứ hai, sự biến đổi các điều kiện kinh
tế-xã hội tại địa phương.
Trong
tổng thể các biến đổi về điều kiện kinh tế-xã hội tại địa phương phải kể đến sự
gia tăng dân số tạo nên sức ép đối với các gia đình trong sử dụng đất vào các
mục đích khác nhau như làm nhà ở, kinh doanh các loại dịch vụ giải trí, buôn
bán hàng hoá, sản xuất nông nghiệp…Bên cạnh đó, sự phát triển hạ tầng cơ sở làm
cho giá đất tăng vọt tại nhiều nơi khiến cho nhiều người quan tâm đến giá trị
của đất, tìm mọi cách để có đất nhằm đáp ứng cho các nhu cầu của mình.
Thứ ba, hoạt động quản lý nhà nước về đất
đai còn nhiều hạn chế.
Quản
lý nhà nước về đất đai chủ yếu do chính quyền địa phương từ Uỷ ban nhân dân cấp
xã đến Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện. Tuy nhiên, thực trạng quản lý đất
đai của các hộ gia đình còn gặp nhiều hạn chế do điều kiện lịch sử, do chiến
tranh và do công tác quản lý thiếu khoa học trong một thời gian dài. Vì vậy, nhiều
hồ sơ, giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất của các cá nhân, hộ gia đình
không còn được lưu giữ. Việc đo, vẽ trên thực địa để tiến hành lưu giữ, quản lý
được tiến hành trên thực địa rất chậm chạp, thiếu chủ động và không chính xác.
Cách nghĩ, cách làm của bộ phận cán bộ làm công tác địa chính còn mang tính
chất bàn giấy, ngại về cơ sở. Cán bộ xã làm công tác quản lý đất đai có trình
độ chuyên môn chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao nên không phát
hiện được các vi phạm pháp luật về đất đai, thậm chí có biết cũng không biết
cách xử lý như thế nào cho hợp tình, hợp lý. Vì vậy, chưa thực hiện tốt vai trò
trong quản lý đất đai, hướng dẫn, vận động nhân dân thực hiện tốt các quy định
pháp luật về đất đai và chưa phát huy được hiệu quả hoà giải các tranh chấp về
đất đai.
2.4.2.
Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, tư tưởng hám lợi, vì lợi ích cá
nhân bất chấp tình nghĩa.
Tinh
thần đoàn kết là truyền thống của bao thế hệ người Việt Nam trong lao
động, sản xuất và chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Ở nông thôn, tình làng nghĩa
xóm đã cố kết biết bao gia đình vượt qua những khó khăn về thiên tai, mất mùa,
vượt qua cái đói khi giáp hạt. Nhưng khi đời sống đã bớt khó khăn, thì chính
tại những làng xóm ấy, cũng vẫn những con người ấy, vì hám lợi đã quên đi tình
nghĩa, sẵn sàng đe doạ hoặc dùng mọi thủ đoạn để tranh giành từng mét đất.
Không thiếu những vụ việc vì đất đai mà anh em chia lìa, hàng xóm láng giềng
chém giết lẫn nhau. Đây là vấn đề đang gây nỗi lo lắng cho cộng đồng, những
người có trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững các giá trị văn hoá truyền
thống tại làng quê Việt Nam
hôm nay.
Thứ hai, sự thờ ơ của xã hội.
Có
thể dễ dàng nhận thấy một tình trạng phổ biến hiện nay là “đèn nhà ai nhà nấy
rạng” nên trước các tranh chấp, xích mích trong cộng đồng, đại bộ phận người
dân có thái độ thiếu quan tâm, thờ ơ, vô cảm, bỏ mặc cho các tranh chấp đó phát
triển mà không hề có sự động viên, giúp đỡ, chia sẻ để cho các bên giải quyết
hợp lý lợi ích chính đáng của mình. Mặc dù ở hầu hết các địa phương đều tồn tại
của Tổ hoà giải nhưng chính hoạt động của tổ chức này cũng vẫn mang tính hình
thức, chưa thực sự có hiệu quả. Các đoàn thể quần chúng ở địa phương, nhất là
Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ chưa thực sự phát huy vai trò trong
tham gia hoà giải các tranh chấp liên quan đến đất đai. Thường là khi tranh
chấp phát sinh trong thời gian dài hoặc có tính chất nghiêm trọng thì mới “ra
mặt” để hoà giải nhưng khi đó đã không còn có tác dụng tích cực mà thường bị
một trong các bên cho rằng thiên vị, ủng hộ phía bên kia.
Thứ ba, thái độ vô trách nhiệm của cán bộ,
công chức cấp xã.
Tình
trạng phổ biến ở hầu khắp các địa phương hiện nay là cán bộ, công chức cấp xã
chỉ quan tâm đến các công việc có gắn với các nguồn thu từ nhân dân, còn các
việc không mang lại lợi ích trước mắt thì thường bỏ mặc, không quan tâm. Thậm
chí, một bộ phận không nhỏ cán bộ còn lợi dụng các chủ trương đúng đắn nhưng
thiếu chặt chẽ của Nhà nước trong giải quyết các quyền và lợi ích hợp pháp của
nhân dân trong lĩnh vực đất đai để trục lợi. Những người này luôn tỏ ra hách
dịch, cửa quyền, thiếu công khai các thông tin có lợi cho dân để “kiếm chác”.
Vì vậy, phần lớn người dân nông thôn rất ngại khi tiếp xúc với chính quyền để
giải quyết các quyền lợi của mình. Chỉ “bần cùng, bất đắc dĩ” họ mới phải đến
yêu cầu cơ quan nhà nước giải quyết nhưng rất ít khi được tiếp đón và giải
quyết một cách tận tình, chu đáo. Tất cả những điều đó khiến chính quyền và
nhân dân ngày càng xa nhau, kéo theo đó là sự thiếu thông tin trầm trọng trong
thực hiện quyền lợi liên quan đến đất đai của mình.
2.5. Hậu quả của tình huống
Phân
tích hậu quả của tình huống trên là tìm ra những tác động không tốt do tình
huống đó mang lại cho Nhà nước, cho địa phương.
Thứ nhất, đối với Nhà nước.
Các
tranh chấp về đất đai bộc lộ những hạn chế có tính lịch sử trong công tác quản
lý nhà nước về đất đai. Quá trình giải quyết thường kéo dài qua nhiều khâu,
nhiều bước với sự tham gia của nhiều cơ quan, nhiều vụ việc phải giải quyết qua
nhiều cấp gây tốn kém về tiền của, về nhân lực của Nhà nước và mất thời gian,
công sức, tiền của của chính những người tranh chấp.
Kết
quả giải quyết tranh chấp đất đai chưa thực sự thấu tình, đạt lý, nhiều cán bộ
còn có thái độ và hành vi nhũng nhiễu, hạch sách, làm cho người dân mệt mỏi về
tâm lý, mất niềm tin với chính quyền và với Nhà nước. Điều này rất dễ bị các
thế lực thù địch lợi dụng kích động gây chia rẽ, lôi kéo thực hiện các hành vi
gây rối trật tự công cộng, gây mất an ninh, trật tự an toàn xã, thậm chí còn
tiếp tay cho chúng chống phá các chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và
Nhà nước ta.
Thứ hai, đối với địa phương.
Để
phát triển nông nghiệp, nông thôn phục vụ cho mục tiêu hiện đại hoá đất nước vì
chủ nghĩa xã hội, cần phải xây dựng nông thôn mới với những quan hệ kinh tế-xã
hội lành mạnh. Các tranh chấp về đất đai đã ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường
văn hoá ở nông thôn, là mầm bệnh dẫn đến sự tha hoá về đạo đức, lối sống của
một bộ phận người dân, tiềm ẩn nguy cơ nảy sinh các vi phạm pháp luật, đặc biệt
là tội phạm khi các bên bức xúc tự giải quyết bằng con đường bạo lực. Mỗi
trường hợp tranh chấp và hậu quả của nó đều để lại cho các bên trong quan hệ
một vết rạn nứt (có thể kéo dài qua nhiều thế hệ), ảnh hưởng xấu đến sự phát
triển và phát huy tác dụng của cộng đồng làng xã Việt Nam trong thời kỳ phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
Mục
tiêu của việc xử lý tình huống trên là nghiên cứu, đề xuất các phương án giải
quyết tranh chấp giữa các bên, phân tích ưu, nhược của từng phương án để tìm ra
phương án tối ưu cho việc giải quyết tranh chấp trên.
3.2. Đề xuất xử lý tình huống
Để
xử lý tình huống trên, tiểu luận đề xuất một số giải pháp như sau:
3.2.1.
Giải pháp 1. Công nhận diện tích 129,25 m2 thuộc quyền sử dụng của
ông P.
Ưu
điểm của phương án này là tạo nên sự thống nhất trong quản lý nhà nước về đất
đai giữa Uỷ ban nhân dân tỉnh KG và Uỷ ban nhân dân thị xã HT bởi cơ sở giải
quyết tranh chấp của Uỷ ban nhân dân tỉnh KG là quyết định cho mượn đất của Uỷ ban
nhân dân thị xã HT năm 2005 (hiện vẫn đang có hiệu lực); đồng thời, tiết kiệm
được thời gian, công sức vào việc giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, nhược điểm
của phương án này là không đảm bảo được lợi ích chính đáng của người thực sự đã
có công khai hoang, bảo vệ đất, khai thác giá trị của đất để phục vụ xã hội.
Khiến cho những người có công trong khai hoang đất đai hoang mang, mất niềm
tin, có thể gây nên những bất ổn về an ninh trật tự tại địa phương. Mặt khác,
theo quy định của pháp luật thì trường hợp của bà B nếu không có tranh chấp thì
có thể đề nghị Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với diện tích đất
này và thậm chí đối với toàn bộ diện tích nơi bà hiện đang ở.
3.2.2.
Giải pháp 2. Thu hồi diện tích 3.200 m2 đất trả lại cho chính quyền thị xã
HT quản lý
Ưu
điểm của phương án này là chấm dứt một cách nhanh chóng tranh chấp giữa ông P
và bà B. Khi ông B không có quyền sử dụng mảnh đất này thì sẽ không có cơ sở để
tranh chấp đất với bà B. Cơ sở để thu hồi là căn cứ vào khoản 3 Điều 38 Luật
Đất đai năm 2003. Bà B cũng như các con của bà, trong đó có ông P đã sử dụng
đất không có hiệu quả. Mặt khác, đây là diện tích đất bà C mượn để sản xuất,
chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi người sử dụng đất không sử dụng
thì Nhà nước có quyền thu hồi.
Tuy
nhiên, phương án này có nhược điểm giống như ở phương án 1 đó là không đảm bảo
được lợi ích của người sử dụng đất lâu dài, đã có công khai hoang, phục hoá,
cải tạo đất, sử dụng đất sản xuất phục vụ đời sống. Đồng thời, có thể gây bất
mãn cho nhiều người, các bên tranh chấp và những người có liên quan. Việc thu
hồi đất cũng chấm dứt cả quyền sử dụng của bà B về mặt pháp lý nhưng trên thực
tế khi đất đó chưa có người sử dụng thì bà B sẽ vẫn là người sử dụng trên thực
tế. Khi hoa màu còn trên đất và là người sống nhờ sản xuất, bà B có thể vẫn
tiếp tục canh tác, như vậy là vi phạm pháp luật về đất đai.
3.2.3.
Giải
pháp 3. Thu hồi diện tích 3.200 m2 đất của bà C, đồng thời công nhận
toàn bộ diện tích hiện bà B đang sử dụng, trong đó có 129,25 m2 đất
Ưu
điểm của phương án này là vừa giải quyết được tranh chấp đất đai vừa thể hiện
được chính sách đúng đắn của Nhà nước đối với người có công khai khẩn đất
hoang. Chấm dứt tình trạng người không sử dụng đất nhưng được Nhà nước giao
đất, còn người thực sự có nhu cầu sử dụng đất thì lại không có đất để sản xuất.
Ngoại
trừ diện tích đất bị thu hồi để quản lý, khi bà B được công nhận có quyền sử
dụng mảnh đất này thì ông P không có cơ sở để đòi đất, chấm dứt tranh chấp đối
với thửa đất. Trong khi đó, ông P làm nghề buôn bán nên rõ ràng không có nhu
cầu sử dụng mảnh đất này để sản xuất. Việc không công nhận diện tích đất trên
cho ông P thể hiện tính đúng đắn và công minh của pháp luật về đất đai.
Cách
giải quyết này cũng sẽ làm cho nhân dân trên địa bàn tin tưởng vào chính quyền
địa phương, vào chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển
của nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
3.3. Lựa chọn giải pháp
Trong
các giải pháp trên, mỗi giải pháp đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Nếu
lựa chọn giải pháp thứ nhất thì việc xử lý có ưu điểm là thống nhất quan điểm
trong xử lý và quản lý đất đai giữa Uỷ ban nhân dân tỉnh KG và Uỷ ban nhân dân
thị xã TH nhưng có nhược điểm là không bảo vệ được lợi ích của người đã có công
khai hoang và sử dụng đất ổn định, lâu dài. Giải pháp thứ hai có ưu điểm là lập
tức chấm dứt được tranh chấp giữa hai bên nhưng cũng có nhược điểm là tiềm ẩn
khả năng vi phạm pháp luật của người sử dụng đất là bà C và gây nên bất mãn cho
nhiều người. Vì vậy, tiểu luận lựa chọn giải pháp thứ ba là giải pháp tối ưu để
xử lý tình huống trên.
Để
thực hiện giải pháp thứ ba, cần thực hiện các bước sau:
Bước
1. Uỷ ban nhân dân tỉnh KG trả lời yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai của bà
B
Để
giải quyết dứt điểm tranh chấp và đảm bảo pháp chế trong thực hiện pháp luật về
đất đai, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh KG uỷ quyền cho Sở Tài nguyên và Môi
trường tỉnh KG phải trả lời yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai của bà B
(bằng công văn trong thời gian 1 ngày làm việc) theo hướng Uỷ ban nhân dân tỉnh
sẽ chỉ đạo Uỷ ban nhân dân thị xã HT giải quyết vụ việc theo đúng pháp luật,
đồng thời bảo vệ quyền lợi cho người khai hoang, sử dụng đất ổn định, lâu dài.
Bước
2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh KG chỉ đạo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT
giải quyết vụ việc theo trình tự sau:
* Huỷ
quyết định cho mượn đất
Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT ra quyết định (bằng văn bản) để huỷ bỏ quyết
định cho bà C mượn đất sản xuất từ năm 2005. Quyết đinh này phải được lập thành
văn bản, phải được gửi cho ông P 1 bản và cho Uỷ ban nhân dân xã TY 1 bản để
lưu hồ sơ quản lý đất đai của địa chính xã.
* Huỷ
Quyết định số 56/QĐ-UBND ngày 02 tháng 12 năm 2009
Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT ra quyết định huỷ bỏ Quyết định số 56/QĐ-UBND
ngày 02 tháng 12 năm 2009 đã công nhận diện tích 94,90 m2 (đo thực
tế là 129,25 m2) thuộc quyền sử dụng của bà C. Quyết định này cũng
phải được gửi cho ông P và địa chính của xã TY để quản lý, theo dõi.
* Thu
hồi 3.200 m2 đất đã cho bà C mượn từ năm 2005
Uỷ
ban nhân dân thị xã HT là cơ quan đã ra quyết định cho bà C mượn đất để sản
xuất nhưng cũng đồng thời là cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất trong các trường
hợp do pháp luật quy định, trong đó có trường hợp của bà C sử dụng đất không có
hiệu quả. Mặt khác, khi bà C chết đi, các con bà không tiếp tục sử dụng đất này
thì cần phải thu hồi trả lại cho địa phương quản lý.
Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT cần giao cho cán bộ địa chính của Phòng địa
chính phối hợp với cán bộ địa chính xã TY tiến hành đo đạc chính xác diện tích
đất, mô tả bằng sơ đồ, trong đó chú ý đo đạc phần diện tích đất của bà B để làm
cơ sở giải quyết quyền lợi cho bà sau này. Việc đo đạc phải lập thành biên bản,
có chữ ký của cán bộ địa chính xã, của cán bộ địa chính thuộc Phòng Địa chính
thị xã HT. Những phần đất trên thực địa có liên quan đến quyền sử dụng đất của
các hộ gia đình thì cần có sự kiểm tra lại của họ để kịp thời điều chỉnh có
đúng.
Uỷ
ban nhân dân thị xã HT cần cử cán bộ (thuộc Phòng Địa chính) quản lý đất đai
tại địa bàn xã TY và cán bộ địa chính của xã TY gặp gỡ, giải thích cho gia đình
ông P biết về quyết định thu hồi đất dựa trên cơ sở pháp lý rõ ràng để ông hiểu
và thực hiện. Đồng thời, giải thích cho ông rõ, nếu hộ gia đình ông thực sự có
nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp để sản xuất thì có thể đề nghị Ủy ban nhân dân
thị xã HT xem xét.
Hộ
gia đình bà B thuộc trường hợp không có các loại giấy tờ theo quy định tại
khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 nhưng đã sử dụng đất ổn định, lâu dài từ
trước ngày 15/10/1993 nên có cơ sở để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
*
Thực hiện các thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà B.
Để
thực hiện các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và đất sản xuất
cho bà B, Uỷ ban nhân dân thị xã HT cần tiến hành các công việc sau:
-
Kiểm tra lại quy hoạch đất đai để xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất cho bà B là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất tại địa phương.
-
Yêu cầu Uỷ ban nhân dân xã TY làm việc cụ thể với ông P và bà B để giải quyết
những khúc mắc giữa hai bên, thống nhất giữa các bên hoàn toàn không còn tranh
chấp về đất đai. Lập biên bản thống nhất ý kiến của hai bên đã nhất trí hoà
giải với nhau.
-
Hướng dẫn bà B nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bà
B cần phải nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Uỷ ban
nhân dân xã TY để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Theo quy định
thì hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất gồm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy tờ về
quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm
2003, nhưng bà B không có thì chỉ cần đơn đề nghị. Bà B cũng có thể lập văn bản
để uỷ quyền cho con gái xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
-
Uỷ ban nhân dân xã TY có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận vào đơn xin cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B các vấn đề sau:
+
Tình trạng không có tranh chấp đất đai đối với thửa đất;
+
Nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất của bà B;
+
Sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt;
+
Công bố công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện (trong đó có trường hợp
của bà B) và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ
sở Uỷ ban nhân dân xã TY trong thời gian mười lăm (15) ngày;
+
Xem xét các ý kiến đóng góp đối với các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất (trong đó có trường hợp của bà B);
+
Gửi hồ sơ đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi
trường thị xã HT;
-
Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cần phải thực hiện các công việc sau:
+
Kiểm tra hồ sơ; xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối
với trường hợp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B;
+
Làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với nơi
chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính;
+
Gửi hồ sơ đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B kèm theo
trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính đến Phòng Tài nguyên và
Môi trường thị xã HT;
-
Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã HT phải thực hiện các công việc sau:
+
Kiểm tra hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B;
+
Trình Uỷ ban nhân dân thị xã HT quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất cho bà B.
Toàn
bộ thời gian thực hiện các công việc trên không quá năm mươi lăm (55) ngày làm
việc (không kể thời gian công bố công khai trường hợp xin cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất của bà B) kể từ ngày Uỷ ban nhân dân xã TY nhận đủ hồ sơ hợp
lệ cho tới ngày bà B nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bước
3. Uỷ ban nhân dân thị xã HT tiến hành rút kinh nghiệm
Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT cần tiến hành rút kinh nghiệm công tác quản lý
đất đai trên địa bàn, có sự tham gia của cơ quan thanh tra, tài nguyên và môi
trường, địa chính xã TY để đánh giá kết quả công tác quản lý nhà nước về đất
đai từ năm 2005 đến nay, rút ra những hạn chế, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm
cho công tác quản lý đất đai, đề ra biện pháp và phương hướng khắc phục trong
thời gian tới.
Bước
4. Báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh KG
Chủ
tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT cần lập báo cáo kết quả giải quyết tranh chấp
đất đai của bà B và ông P theo chỉ đạo của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh KG.
Đồng
thời, cần nghiêm túc kiểm điểm trách nhiệm tập thể và cá nhân trong giải quyết
trường hợp tranh chấp giữa ông P và bà B; vấn đề cho phép mượn đất để sản xuất
của bà C và những hạn chế trong công tác theo dõi, giám sát thực hiện pháp luật
về đất đai trên địa bàn.
IV. KIẾN NGHỊ
Để
công tác quản lý nhà nước về đất đai được thực hiện có hiệu quả, hạn chế các
tranh chấp, vi phạm pháp luật về đất đai, tiểu luận kiến nghị một số vấn đề như
sau:
4.1. Kiến nghị với Đảng
Tăng
cường lãnh đạo công tác quản lý nhà nước về đất đai thông qua vai trò lãnh đạo
Quốc hội, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoàn thiện các quy
định pháp luật về đất đai. Tổ chức quán triệt và lãnh đạo triển khai thực hiện
có hiệu quả các mục tiêu của của Nghị quyết 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân,
nông thôn tại các tổ chức cơ sở Đảng tại các cơ quan chức năng ở cả Trung ương
và các địa phương. Cần đặc biệt quan tâm lãnh đạo các cấp chính quyền thực hiện
đúng nguyên tắc tạo điều kiện cho nông dân ổn định đời sống và phải có đất để
sản xuất, kiên quyết thu hồi đất đối với những trường hợp sử dụng đất nông
nghiệp không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả. Đặc biệt, phải giữ
vững nguyên tắc: giải quyết các tranh chấp đất đai trong nhân dân trên tinh
thần bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, chính quyền phải nhận lấy những
bất lợi về mình, tuyệt đối không gây mất niềm tin trong nhân dân, gây mất ổn
định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
4.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng
Đối
với Chính phủ cần tách các quy định trong các nghị định quy định chi tiết thi
hành Luật Đất đai ra thành các văn bản riêng như nghị định về cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất; nghị định về thu hồi đất; nghị định về bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; nghị định về giải quyết tranh
chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai… để tạo cơ sở pháp lý có tính chuyên biệt,
dễ dàng cho cơ quan áp dụng và nhân dân thực hiện.
Đối
với Bộ Tài nguyên và Môi trường cần tích cực triển khai hướng dẫn các nghị định
sát với thực tế. Đẩy nhanh tiến độ kiểm tra, rà soát tổng thể các loại quỹ đất
trong nhân dân để chỉ đạo quy hoạch cho phù hợp. Xây dựng kế hoạch đào tạo đội
ngũ cán bộ địa chính cho các địa phương để nâng cao năng lực phục vụ yêu cầu
quản lý hiệu quả đất đai và giải quyết các tranh chấp trong nhân dân.
Đối
với chính quyền các địa phương cần tích cực tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong
nhân dân các thủ tục pháp lý liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, đặc biệt là đất ở và đất sản xuất nông nghiệp để người dân chủ động
đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố
cần đôn đốc cơ quan có thẩm quyền ở cấp huyện và cấp xã tích cực tổ chức, vận
động nhân dân kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất để tránh các tranh chấp phát
sinh. Đồng thời, qua đó, các cấp chính quyền một lần nữa có điều kiện kiểm tra
lại tính xác thực của các hồ sơ địa chính được lưu giữ tại cơ quan để kịp thời
điều chỉnh cho khoa học, phù hợp với thực tế, đồng thời quản lý tốt quỹ đất để
thực hiện các quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội tại từng địa phương.
V. KẾT LUẬN
Tranh
chấp đất đai luôn là vấn đề có tính thời sự rất lớn, nhất là trong thời điểm
hiện nay khi giá trị quyền sử dụng đất có những biến động tại nhiều địa phương
trên phạm vi cả nước. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc giải quyết tranh
chấp tại nhiều địa phương có những diễn biến rất phức tạp, ảnh hưởng xấu đến
việc quản lý, sử dụng đất nói riêng và gây những bất ổn nhất định đối với đời
sống kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, không chỉ có các cơ quan hành chính
nhà nước được giao thẩm quyền giải quyết các tranh chấp đất đai mà Nhà nước còn
trao trọng trách đó cho hệ thống cơ quan Toà án nhân dân. Điều đó cho thấy tính
chất nghiêm trọng của các tranh chấp đất đai khi không được giải quyết một cách
hợp lý. Trong khi đó, pháp luật về tranh chấp đất đai thời gian qua còn nhiều
bất cập, hạn chế. Vì vậy, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật về đất đai cần
nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan chức năng, của toàn xã hội trong
quản lý nhà nước về đất đai; đồng thời, mỗi công dân cũng cần xây dựng cho mình
ý thức trách nhiệm trong quản lý loại tài sản đặc biệt này, tránh để nảy sinh
các tranh chấp, góp phần duy trì ổn định xã hội để phát triển đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Ban chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết số 26-NQ/TW
ngày 05/8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
2.
Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông tư
liên tịch số 14/2008/TTLT-BTC-BTNMT ngày 31/01/2008 hướng dẫn thực hiện một số
điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp
giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất,
trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và
giải quyết khiếu nại về đất đai.
3.
Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông tư số
06/2007/TT-BTNMT ngày 02/7/2007 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định
số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục
bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu
nại về đất đai.
4.
Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị
định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các
nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về
việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần;
5.
Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị
định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ
tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết
khiếu nại về đất đai.
6.
Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam , Nghị định
số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất,
quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
7.
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam , Luật số
13/2003/QH11 ngày 26/11/2003 về đất đai;
8.
Uỷ ban nhân dân tỉnh Kiên Giang, Quyết định số
15/2010/QĐ-UBND ngày 12/5/2010 về việc ban hành quy định về trình tự, thủ tục,
thời gian giải quyết thủ tục hành chính về đất đai; cấp giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trên địa bàn
tỉnh Kiên Giang.