Friday, December 11, 2015

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 21

TIN LIÊN QUAN

>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 20





MỤC LỤC

Trang
Lời nói đầu

I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG

1.1. Hoàn cảnh ra đời và xuất hiện của tình huống

1.2. Mô tả tình huống

II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG

2.1. Mục tiêu phân tích tình huống

2.2. Cơ sở lý luận

2.3. Phân tích diễn biến tình huống

2.4. Nguyên nhân dẫn đến tình huống

2.5. Hậu quả của tình huống

III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG

3.1. Mục tiêu xử lý tình huống

3.2. Đề xuất xử lý tình huống

3.3. Lựa chọn giải pháp

IV. KIẾN NGHỊ

4.1. Kiến nghị với Đảng

4.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng

V. KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO







LỜI NÓI ĐẦU
          Nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính để phục vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới đã và đang đặt ra yêu cầu phải bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức. Vì vậy, trong thời gian qua, tại các Học viện, Trường Đại học thường xuyên mở các lớp, các khoá bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ, công chức đang công tác tại các cơ quan nhà nước, trong đó có lớp …(khoá…bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước). Lớp học được tổ chức tại…trong thời gian…từ ngày…tháng…đến ngày….tháng…năm 2010.
          Nội dung của khoá học bao gồm các kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực, như…, trong đó chú trọng bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về đất đai và giải quyết các tranh chấp đất đai nhằm giúp cán bộ, công chức công tác tại các địa phương xử lý tốt các vấn đề liên quan đến đất đai trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Quản lý nhà nước về đất đai là một lĩnh vực hiện đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp do hệ thống pháp luật về đất đai chưa hoàn thiện, quá trình đô thị hoá nông thôn, hiện đại hoá các đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng, các cơ sở kinh tế diễn ra với tốc độ chóng mặt trong khi cơ chế quản lý nhà nước về đất đai, ý thức pháp luật của người dân, của cán bộ, công chức trong giải quyết các quan hệ liên quan đến đất đai còn nhiều hạn chế…Đây chính là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến các tranh chấp đất đai trong nhân dân diễn ra phổ biến tại nhiều địa phương. Trong khi đó, quá trình giải quyết của các cơ quan nhà nước còn chưa thống nhất, thậm chí chưa đúng với các quy định pháp luật hiện hành, gây nên nhiều bức xúc cho các đối tượng tham gia quan hệ pháp luật, làm nảy sinh các dư luận xã hội và các hành vi tiêu cực trong nhân dân, cá biệt có nhiều vụ việc từ các tranh chấp đất đai dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức. Vì vậy, giải quyết hợp lý, hợp tình các tranh chấp đất đai trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn an ninh trật tự tại các địa phương và xây dựng niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước.
Từ những lý do đó, việc lựa chọn vấn đề “Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai của chính quyền địa phương hiện nay” có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1.1. Hoàn cảnh ra đời và xuất hiện của tình huống
KG là tỉnh có tiềm năng kinh tế đa dạng về nông nghiệp, khai thác hải sản, công nghiệp vật liệu xây dựng và du lịch nhưng cũng là một trong số các tỉnh phát sinh nhiều tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai.
Trong 5 năm qua, toàn tỉnh giải quyết 3.970 đơn khiếu nại, tố cáo, 55 vụ khiếu kiện tập thể đông người. Riêng Thanh tra tỉnh tham mưu giải quyết 807 đơn khiếu nại, tố cáo và 12 vụ khiếu kiện tập thể. Cùng với việc trực tiếp tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, Thanh tra tỉnh thường xuyên tổ chức các cuộc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của chủ tịch UBND các huyện, thị, sở, ngành trong việc thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo, qua đó chấn chỉnh những tồn tại, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ, giúp cơ sở thực hiện tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu kiện hành chính lần đầu và hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở, hạn chế đến mức thấp nhất đơn khiếu kiện vượt cấp, giữ được mối quan hệ tình làng nghĩa xóm trong cộng đồng dân cư.
HT là thị xã nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh KG, phía Bắc giáp Campuchia, nơi có đường biên giới dài 13,7 km, phía Đông và Nam giáp huyện KL, phía Tây giáp vịnh Thái Lan với đường bờ biển dài 22 km. Về hành chính, thị xã HT bao gồm 5 phường 2 xã, trong đó có xã TY.
Từ khi nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân xã TY được nâng cao, nhiều nông dân giàu lên từ kinh tế nông, lâm nghiệp. Hàng loạt các dự án phát triển kinh tế, du lịch được thực hiện trên địa bàn làm cho bộ mặt của xã mỗi ngày một đổi mới, đồng thời, mở ra nhiều cơ hội cho các cá nhân, các hộ gia đình làm ăn phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cũng từ đây phát sinh nhiều hiện tượng xã hội tiêu cực như cờ bạc, cá độ, nghiện hút, mại dâm…và các tranh giành liên quan đến đất đai làm nảy sinh nhiều khiếu kiện phức tạp. Một trong số các vụ việc đó là trường hợp tranh chấp đất đai giữa bà Võ Thị B với ông Đoàn Quốc  P.
1.2. Mô tả tình huống
Ông Đoàn Quốc P là con của ông Đoàn Hữu Y và bà Nguyễn Thị C. Ông Y và bà C đã cư ngụ tại xã TY từ năm 1969. Năm 1976, gia đình bà C tiến hành trồng dừa trên diện tích đất vốn là bãi bồi ven biển phía trước nhà. Năm 1977, gia đình bà B di tản chiến tranh biên giới Tây Nam từ chợ Giang Thành, Tân Khánh Hoà đến và tiến hành cải tạo để ở và canh tác trên diện tích đất này (trước vốn chỉ toàn là bùn lầy và cây cối, không có chỗ trống) mà không có ai ngăn cản. Toàn bộ thổ đất gia đình bà B sử dụng rộng 489,98 m2,  trong đó có 360,73 m2 để ở, còn lại là 129,25 m2 bà B dùng để trồng một số cây hoa màu, trên đó còn có 3 cây dừa của bà C trồng trước đây. Trên diện tích 129,25 m2, gia đình bà B sử dụng mặt đất, riêng 3 cây dừa do gia đình bà C hái trái, thu hoạch thường xuyên, hai bên sinh sống thuận hoà, “tắt lửa tối đèn” có nhau, không tranh chấp gì. Diện tích trước đây trồng dừa bà C tiếp tục thu hái nhưng đến năm 1981 bị hỏng gần hết do thiên tai (chỉ còn 3 cây dừa trên diện tích đất 129,25 m2), bà C cũng không tiến hành trồng lại từ đó, nhưng thỉnh thoảng vẫn hái quả của 3 cây dừa cho con cháu trong nhà dùng.
Năm 2005, bà C làm đơn xin cấp 3.200 m2 đất bãi bồi ven biển (bao gồm cả phần đất hộ gia đình bà B đang sử dụng), được Uỷ ban nhân dân thị xã HT duyệt cho mượn sản xuất, nhưng trên thực tế gia đình bà C không sử dụng phần đất này.  Sự việc bà C được mượn diện tích đất trên bà B không hề biết.
Năm 2008 vợ chồng bà C chết. Các con của ông bà có 5 người, đều đã có gia đình và sinh sống trên địa bàn xã TY nhưng đều không làm nông nghiệp mà buôn bán và kinh doanh dịch vụ Internet. Riêng phần đất của gia đình nay do ông Đoàn Quốc P cùng vợ là bà Nguyễn Thị M và 3 người con sinh sống. Phía gia đình bà B, vợ chồng bà có 2 người con, 1 trai, 1 gái. Người con trai đã mất trong thời kỳ chiến tranh, người con gái đã lấy chồng ở cùng trên diện tích đất này nhưng tháng 12 năm 2008 chồng chị bị tai nạn ô tô qua đời nên chỉ còn bà B, con gái và 2 đứa cháu sống trên mảnh đất này. Trong suốt thời gian sinh sống tại đây, gia đình bà B đều thực hiện tốt các nghĩa vụ với  chính quyền địa phương.
Năm 2009, thị xã có quy hoạch xây dựng khu vui chơi giải trí và mở đường lớn đi qua phần đất từ hộ gia đình ông P sinh sống kéo qua phần đất của gia đình bà C ra phía biển. Vì vậy, khu đất bỗng trở nên có giá, nhiều người nhòm ngó đến hỏi mua. Biết khu đất do gia đình bà B đang ở thuộc phần đất mà mẹ mình mượn của thị xã để sản xuất, ông P đã yêu cầu bà B giao trả phần diện tích còn trống cập bên hông nhà đo thực tế là 129 m2 (chưa trừ lộ giới) với lý do rằng đất góc của cha mẹ ông. Bà B không đồng ý nhưng ông P và vợ nhiều lần có hành vi đe doạ, tiến hành xây tường để khoanh khu đất nhập vào đất nhà mình. Sau nhiều lần thương lượng và nhờ hàng xóm, trưởng ấp can thiệp nhưng không được, ngày 10/7/2009 bà B đã làm đơn gửi đến Uỷ ban nhân dân xã TY yêu cầu giải quyết. Uỷ ban nhân dân xã TY đã tiến hành gặp gỡ hai bên để hoà giải nhưng không thành nên đã lập biên bản hoà giải không thành (ngày 22/10/2009) và hướng dẫn bà B gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân thị xã HT yêu cầu giải quyết.
Ngày 27/10/2009, bà B gửi đơn yêu cầu Uỷ ban nhân dân thị xã HT giải quyết tranh chấp giữa bà và ông P về quyền sử dụng diện tích đất 129,25 m2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT trên cơ sở kết quả xác minh của cơ quan thanh tra đã bác đơn của bà B, đồng thời, ra Quyết định số 56/QĐ-UBND ngày 02 tháng 12 năm 2009 giải quyết sự việc theo hướng công nhận diện tích 94,90 m2 (đo thực tế là 129,25 m2) thuộc quyền sử dụng của bà C vì đã được Uỷ ban nhân dân thị xã HT chấp thuận cho phép sử dụng từ năm 2005. Nay bà C và ông Y đã chết thì ông P và các anh em phải cắt cử đại diện đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Buộc bà B phải trả lại diện tích đất trên cho ông P để ông P và em làm các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất này.
Bà B không đồng ý với quyết định đó của Uỷ ban nhân dân thị xã HT nên đã làm đơn khiếu nại gửi đến UBND tỉnh KG (ngày 30 tháng 1 năm 2010). Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh KG đã yêu cầu Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Thanh tra tỉnh thành lập tổ tư vấn giải quyết khiếu nại của bà B để tiến hành thẩm tra, xác minh khiếu nại. Trên cơ sở hồ sơ thẩm tra, xác minh, Uỷ ban nhân dân tỉnh KG cho rằng khiếu nại của bà B là có cơ sở để xem xét, giải quyết và việc giải quyết của Uỷ ban nhân dân thị xã HT là chưa phù hợp vì gia đình bà B đã sử dụng ổn định mảnh đất trên từ năm 1977 đến nay. 
Sự thiếu thống nhất trong cách giải quyết của Uỷ ban nhân dân thị xã HT và quan điểm giải quyết của Uỷ ban nhân dân tỉnh KG đã khiến cho bà B quyết tâm theo đuổi nội dung khiếu nại của mình.
Vậy, bà B có được quyền sử dụng diện tích 129,25 m2 không ? Cách xử lý của Uỷ ban nhân dân thị xã HT và quan điểm xử lý Uỷ ban nhân dân tỉnh KG là đúng hay sai ? Đây là những vấn đề cần được xem xét và giải quyết một cách hợp lý, hợp tình trên cơ sở các quy định của pháp luật về đất đai.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống
Mục tiêu của việc phân tích tình huống trên là nhằm làm sáng tỏ việc giải quyết khiếu nại của Uỷ ban nhân dân thị xã HT và quan điểm của Uỷ ban nhân dân tỉnh KG đối với khiếu nại của bà B là đúng hay sai, xác định nguyên nhân, hậu quả của tình huống để làm cơ sở cho việc tìm ra phương án tối ưu để giải quyết tình huống.
2.2. Cơ sở lý luận
Tranh chấp đất đai là một hiện tượng bình thường trong đời sống xã hội. Đối với Việt Nam, trong suốt thời gian từ khi chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai được thiết lập từ năm 1980 cho đến nay, tranh chấp đất đai luôn là vấn đề thời sự, có những diễn biến rất phức tạp, ảnh hưởng xấu đến việc quản lý, sử dụng đất nói riêng và gây những bất ổn nhất định đối với đời sống kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra nhiều quy định nhằm giải quyết tốt nhất các tranh chấp đất đai phát sinh trong nhân dân. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương về nông nghiệp, nông dân và nông thôn xác định nhiệm vụ của toàn thể hệ thống chính trị là “Đấu tranh, ngăn chặn các hành vi tiêu cực, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, giải quyết kịp thời các vụ việc khiếu kiện của nhân dân, không để gây thành những điểm nóng ở nông thôn”.
Về phía Nhà nước ta coi việc giải quyết các tranh chấp đất đai trong nhân dân là một nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành, trong đó chủ yếu là chính quyền địa phương các cấp. Luật đất đai năm 2003 xác định: Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai là một nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về đất đai. Để giải quyết các tranh chấp này, Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định của Chính phủ số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành luật đất đai; Nghị định của Chính phủ số 84/2008/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai...đã xác định cụ thể thẩm quyền giải quyết tranh chấp, các khiếu nại, tố cáo về đất đai; xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai và trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai tại địa phương...Đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết các tranh chấp về đất đai.
2.3. Phân tích diễn biến tình huống
Từ các nội dung của tình huống cho thấy, tranh chấp đất đai giữa ông P và bà B nảy sinh khi giá trị khu đất có sự thay đổi, mối quan hệ vốn thân thiết, láng giềng “tắt lửa tối đèn”, cưu mang lẫn nhau trong những lúc khó khăn giờ đã bị đặt sang một bên để nhường chỗ cho những toan tính nhỏ nhen bắt đầu kể từ khi mảnh đất trước kia chỉ là bãi lầy, đầy cây cối hoang vu nay đã được cải tạo để trở thành một mảnh đất có giá. Cũng từ việc giải quyết tranh chấp giữa ông P và bà B cho thấy những hạn chế trong quản lý nhà nước về đất đai nói chung và địa bàn xã TY nói riêng.
Sự việc bà B không biết gì việc bà C làm đơn xin cấp 3.200 m2 đất, trong đó có cả diện tích đất mà hộ gia đình bà B đang ở và được Uỷ ban nhân dân thị xã HT cho phép mượn diện tích đất đó để sản xuất cho thấy Uỷ ban nhân dân thị xã HT đã không thực hiện đúng thẩm quyền và thủ tục do pháp luật quy định. Theo các quy định pháp luật về đất đai thì Uỷ ban nhân dân thị xã HT phải làm các thủ tục để cho bà C thuê đất chứ không phải là cho mượn đất. Mặt khác, bất kể là cho thuê hay cho mượn đất thì với diện tích đất như vậy, trước khi quyết định phải tiến hành điều tra, xác minh trên thực địa. Nếu khâu này được làm tốt thì không thể cho phép bà C sử dụng diện tích đất 3.200 m2 để sử dụng vào việc sản xuất mà trên đó có hộ gia đình bà B đang ở ổn định từ năm 1977. Việc lấy đất (có nguồn gốc từ khai hoang) của một hộ gia đình đang ở và sản xuất để cho một người khác mượn là hoàn toàn không đúng với quy định của pháp luật.
Mặt khác, việc bà C được phép sử dụng 3.200 m2 đất để sản xuất nhưng đã không sử dụng trong một thời gian dài cho thấy sự buông lỏng quản lý mục đích của người sử dụng đất trên thực tế của Uỷ ban nhân dân xã TY và Uỷ ban nhân dân thị xã HT.
Khi có tranh chấp xảy ra, Uỷ ban nhân dân xã TY đã tiến hành hoà giải tranh chấp giữa ông P và bà B nhưng thời gian hoà giải không tuân thủ đúng quy định tại Điều 135 Luật đất đai năm 2003.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT ra quyết định công nhận diện tích 129, 25 m2 đất thuộc quyền sử dụng của ông P trên cơ sở diện tích đất này nằm trong diện tích 3.200 m2 đất mà Uỷ ban nhân dân thị xã HT đã cho bà C (mẹ của ông P) mượn từ năm 2005 là có cơ sở pháp lý nhưng chính cơ sở pháp lý đó lại không hợp pháp và không có cơ sở thực tế, bởi lô đất đó bà B đã sử dụng ổn định, lâu dài, không hề có sự tranh chấp trong suốt quá trình sử dụng, mặt khác bà C từ khi được mượn cũng không hề sử dụng đất này để sản xuất.
Mặc dù đã có quyết định giải quyết tranh chấp giữa ông P và bà B nhưng khi bà B chưa đồng ý với quyết định đó, tức việc tranh chấp đất đai chưa được giải quyết xong mà Uỷ ban nhân dân thị xã HT đã hướng dẫn cho ông P đại diện để đăng ký quyền sử dụng đất là không đúng. Việc bà B tiếp tục yêu cầu Uỷ ban nhân dân tỉnh KG giải quyết tranh chấp đất đai là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật. Theo quy định tại Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai, với diện tích đất đang có tranh chấp thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết dứt điểm để xác định người sử dụng đất.
Cũng theo quy định tại Nghị định này, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất phi nông nghiệp do tự khai hoang thì việc công nhận quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại khoản 6 Điều 50 Luật Đất đai. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp do tự khai hoang mà đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt, không có tranh chấp, sử dụng đất có hiệu quả thì được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất trong hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 70 của Luật Đất đai; trường hợp vượt hạn mức thì được tính thêm hạn mức quy định tại khoản 5 Điều 70 của Luật Đất đai và khoản 4 Điều 69 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP; nếu vượt hạn mức đã tính thêm thì phải chuyển sang thuê đất đối với diện tích vượt hạn. Như vậy, quan điểm giải quyết của Uỷ ban nhân dân tỉnh KG là hoàn toàn có cơ sở.
2.4. Nguyên nhân dẫn đến tình huống
Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai giữa ông P và bà B bao gồm những nguyên nhân khách quan và chủ quan như sau:
2.4.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, các quy định pháp luật về đất đai còn nhiều bất cập, một số quy định không phù hợp với thực tế.
Cùng với sự phát triển ngày càng phức tạp của các quan hệ pháp luật dân sự và đất đai mà các quy định pháp luật về đất đai ngày càng hoàn thiện nhưng vẫn chưa thực sự phù hợp với thực tế. Phần lớn đất ở và đất sản xuất ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa có nguồn gốc từ hoạt động khai hoang của các hộ gia đình và được họ sử dụng ổn định lâu dài, được cộng đồng thừa nhận mà không có các loại giấy tờ theo quy định của Nhà nước. Người dân vốn chỉ quan tâm đến việc sinh sống không mấy quan tâm đến thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực đất đai trừ khi có sự tác động của Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước ở địa phương. Mà thường thì nếu không có tranh chấp các cơ quan, chính quyền địa phương cũng thờ ơ trước quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Thứ hai, sự biến đổi các điều kiện kinh tế-xã hội tại địa phương.
Trong tổng thể các biến đổi về điều kiện kinh tế-xã hội tại địa phương phải kể đến sự gia tăng dân số tạo nên sức ép đối với các gia đình trong sử dụng đất vào các mục đích khác nhau như làm nhà ở, kinh doanh các loại dịch vụ giải trí, buôn bán hàng hoá, sản xuất nông nghiệp…Bên cạnh đó, sự phát triển hạ tầng cơ sở làm cho giá đất tăng vọt tại nhiều nơi khiến cho nhiều người quan tâm đến giá trị của đất, tìm mọi cách để có đất nhằm đáp ứng cho các nhu cầu của mình.
Thứ ba, hoạt động quản lý nhà nước về đất đai còn nhiều hạn chế.
Quản lý nhà nước về đất đai chủ yếu do chính quyền địa phương từ Uỷ ban nhân dân cấp xã đến Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện. Tuy nhiên, thực trạng quản lý đất đai của các hộ gia đình còn gặp nhiều hạn chế do điều kiện lịch sử, do chiến tranh và do công tác quản lý thiếu khoa học trong một thời gian dài. Vì vậy, nhiều hồ sơ, giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất của các cá nhân, hộ gia đình không còn được lưu giữ. Việc đo, vẽ trên thực địa để tiến hành lưu giữ, quản lý được tiến hành trên thực địa rất chậm chạp, thiếu chủ động và không chính xác. Cách nghĩ, cách làm của bộ phận cán bộ làm công tác địa chính còn mang tính chất bàn giấy, ngại về cơ sở. Cán bộ xã làm công tác quản lý đất đai có trình độ chuyên môn chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao nên không phát hiện được các vi phạm pháp luật về đất đai, thậm chí có biết cũng không biết cách xử lý như thế nào cho hợp tình, hợp lý. Vì vậy, chưa thực hiện tốt vai trò trong quản lý đất đai, hướng dẫn, vận động nhân dân thực hiện tốt các quy định pháp luật về đất đai và chưa phát huy được hiệu quả hoà giải các tranh chấp về đất đai.
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, tư tưởng hám lợi, vì lợi ích cá nhân bất chấp tình nghĩa.
Tinh thần đoàn kết là truyền thống của bao thế hệ người Việt Nam trong lao động, sản xuất và chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Ở nông thôn, tình làng nghĩa xóm đã cố kết biết bao gia đình vượt qua những khó khăn về thiên tai, mất mùa, vượt qua cái đói khi giáp hạt. Nhưng khi đời sống đã bớt khó khăn, thì chính tại những làng xóm ấy, cũng vẫn những con người ấy, vì hám lợi đã quên đi tình nghĩa, sẵn sàng đe doạ hoặc dùng mọi thủ đoạn để tranh giành từng mét đất. Không thiếu những vụ việc vì đất đai mà anh em chia lìa, hàng xóm láng giềng chém giết lẫn nhau. Đây là vấn đề đang gây nỗi lo lắng cho cộng đồng, những người có trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững các giá trị văn hoá truyền thống tại làng quê Việt Nam hôm nay.
Thứ hai, sự thờ ơ của xã hội.
Có thể dễ dàng nhận thấy một tình trạng phổ biến hiện nay là “đèn nhà ai nhà nấy rạng” nên trước các tranh chấp, xích mích trong cộng đồng, đại bộ phận người dân có thái độ thiếu quan tâm, thờ ơ, vô cảm, bỏ mặc cho các tranh chấp đó phát triển mà không hề có sự động viên, giúp đỡ, chia sẻ để cho các bên giải quyết hợp lý lợi ích chính đáng của mình. Mặc dù ở hầu hết các địa phương đều tồn tại của Tổ hoà giải nhưng chính hoạt động của tổ chức này cũng vẫn mang tính hình thức, chưa thực sự có hiệu quả. Các đoàn thể quần chúng ở địa phương, nhất là Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ chưa thực sự phát huy vai trò trong tham gia hoà giải các tranh chấp liên quan đến đất đai. Thường là khi tranh chấp phát sinh trong thời gian dài hoặc có tính chất nghiêm trọng thì mới “ra mặt” để hoà giải nhưng khi đó đã không còn có tác dụng tích cực mà thường bị một trong các bên cho rằng thiên vị, ủng hộ phía bên kia.
Thứ ba, thái độ vô trách nhiệm của cán bộ, công chức cấp xã.
Tình trạng phổ biến ở hầu khắp các địa phương hiện nay là cán bộ, công chức cấp xã chỉ quan tâm đến các công việc có gắn với các nguồn thu từ nhân dân, còn các việc không mang lại lợi ích trước mắt thì thường bỏ mặc, không quan tâm. Thậm chí, một bộ phận không nhỏ cán bộ còn lợi dụng các chủ trương đúng đắn nhưng thiếu chặt chẽ của Nhà nước trong giải quyết các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân trong lĩnh vực đất đai để trục lợi. Những người này luôn tỏ ra hách dịch, cửa quyền, thiếu công khai các thông tin có lợi cho dân để “kiếm chác”. Vì vậy, phần lớn người dân nông thôn rất ngại khi tiếp xúc với chính quyền để giải quyết các quyền lợi của mình. Chỉ “bần cùng, bất đắc dĩ” họ mới phải đến yêu cầu cơ quan nhà nước giải quyết nhưng rất ít khi được tiếp đón và giải quyết một cách tận tình, chu đáo. Tất cả những điều đó khiến chính quyền và nhân dân ngày càng xa nhau, kéo theo đó là sự thiếu thông tin trầm trọng trong thực hiện quyền lợi liên quan đến đất đai của mình.
2.5. Hậu quả của tình huống
Phân tích hậu quả của tình huống trên là tìm ra những tác động không tốt do tình huống đó mang lại cho Nhà nước, cho địa phương.
Thứ nhất, đối với Nhà nước.
Các tranh chấp về đất đai bộc lộ những hạn chế có tính lịch sử trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Quá trình giải quyết thường kéo dài qua nhiều khâu, nhiều bước với sự tham gia của nhiều cơ quan, nhiều vụ việc phải giải quyết qua nhiều cấp gây tốn kém về tiền của, về nhân lực của Nhà nước và mất thời gian, công sức, tiền của của chính những người tranh chấp.
Kết quả giải quyết tranh chấp đất đai chưa thực sự thấu tình, đạt lý, nhiều cán bộ còn có thái độ và hành vi nhũng nhiễu, hạch sách, làm cho người dân mệt mỏi về tâm lý, mất niềm tin với chính quyền và với Nhà nước. Điều này rất dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng kích động gây chia rẽ, lôi kéo thực hiện các hành vi gây rối trật tự công cộng, gây mất an ninh, trật tự an toàn xã, thậm chí còn tiếp tay cho chúng chống phá các chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ hai, đối với địa phương.
Để phát triển nông nghiệp, nông thôn phục vụ cho mục tiêu hiện đại hoá đất nước vì chủ nghĩa xã hội, cần phải xây dựng nông thôn mới với những quan hệ kinh tế-xã hội lành mạnh. Các tranh chấp về đất đai đã ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường văn hoá ở nông thôn, là mầm bệnh dẫn đến sự tha hoá về đạo đức, lối sống của một bộ phận người dân, tiềm ẩn nguy cơ nảy sinh các vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm khi các bên bức xúc tự giải quyết bằng con đường bạo lực. Mỗi trường hợp tranh chấp và hậu quả của nó đều để lại cho các bên trong quan hệ một vết rạn nứt (có thể kéo dài qua nhiều thế hệ), ảnh hưởng xấu đến sự phát triển và phát huy tác dụng của cộng đồng làng xã Việt Nam trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
Mục tiêu của việc xử lý tình huống trên là nghiên cứu, đề xuất các phương án giải quyết tranh chấp giữa các bên, phân tích ưu, nhược của từng phương án để tìm ra phương án tối ưu cho việc giải quyết tranh chấp trên.
3.2. Đề xuất xử lý tình huống
Để xử lý tình huống trên, tiểu luận đề xuất một số giải pháp như sau:
3.2.1. Giải pháp 1. Công nhận diện tích 129,25 m2 thuộc quyền sử dụng của ông P.
Ưu điểm của phương án này là tạo nên sự thống nhất trong quản lý nhà nước về đất đai giữa Uỷ ban nhân dân tỉnh KG và Uỷ ban nhân dân thị xã HT bởi cơ sở giải quyết tranh chấp của Uỷ ban nhân dân tỉnh KG là quyết định cho mượn đất của Uỷ ban nhân dân thị xã HT năm 2005 (hiện vẫn đang có hiệu lực); đồng thời, tiết kiệm được thời gian, công sức vào việc giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, nhược điểm của phương án này là không đảm bảo được lợi ích chính đáng của người thực sự đã có công khai hoang, bảo vệ đất, khai thác giá trị của đất để phục vụ xã hội. Khiến cho những người có công trong khai hoang đất đai hoang mang, mất niềm tin, có thể gây nên những bất ổn về an ninh trật tự tại địa phương. Mặt khác, theo quy định của pháp luật thì trường hợp của bà B nếu không có tranh chấp thì có thể đề nghị Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với diện tích đất này và thậm chí đối với toàn bộ diện tích nơi bà hiện đang ở.
3.2.2. Giải pháp 2. Thu hồi diện tích 3.200 m2 đất trả lại cho chính quyền thị xã HT quản lý
Ưu điểm của phương án này là chấm dứt một cách nhanh chóng tranh chấp giữa ông P và bà B. Khi ông B không có quyền sử dụng mảnh đất này thì sẽ không có cơ sở để tranh chấp đất với bà B. Cơ sở để thu hồi là căn cứ vào khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 2003. Bà B cũng như các con của bà, trong đó có ông P đã sử dụng đất không có hiệu quả. Mặt khác, đây là diện tích đất bà C mượn để sản xuất, chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi người sử dụng đất không sử dụng thì Nhà nước có quyền thu hồi.
Tuy nhiên, phương án này có nhược điểm giống như ở phương án 1 đó là không đảm bảo được lợi ích của người sử dụng đất lâu dài, đã có công khai hoang, phục hoá, cải tạo đất, sử dụng đất sản xuất phục vụ đời sống. Đồng thời, có thể gây bất mãn cho nhiều người, các bên tranh chấp và những người có liên quan. Việc thu hồi đất cũng chấm dứt cả quyền sử dụng của bà B về mặt pháp lý nhưng trên thực tế khi đất đó chưa có người sử dụng thì bà B sẽ vẫn là người sử dụng trên thực tế. Khi hoa màu còn trên đất và là người sống nhờ sản xuất, bà B có thể vẫn tiếp tục canh tác, như vậy là vi phạm pháp luật về đất đai.
3.2.3. Giải pháp 3. Thu hồi diện tích 3.200 m2 đất của bà C, đồng thời công nhận toàn bộ diện tích hiện bà B đang sử dụng, trong đó có 129,25 m2 đất
Ưu điểm của phương án này là vừa giải quyết được tranh chấp đất đai vừa thể hiện được chính sách đúng đắn của Nhà nước đối với người có công khai khẩn đất hoang. Chấm dứt tình trạng người không sử dụng đất nhưng được Nhà nước giao đất, còn người thực sự có nhu cầu sử dụng đất thì lại không có đất để sản xuất.
Ngoại trừ diện tích đất bị thu hồi để quản lý, khi bà B được công nhận có quyền sử dụng mảnh đất này thì ông P không có cơ sở để đòi đất, chấm dứt tranh chấp đối với thửa đất. Trong khi đó, ông P làm nghề buôn bán nên rõ ràng không có nhu cầu sử dụng mảnh đất này để sản xuất. Việc không công nhận diện tích đất trên cho ông P thể hiện tính đúng đắn và công minh của pháp luật về đất đai.
Cách giải quyết này cũng sẽ làm cho nhân dân trên địa bàn tin tưởng vào chính quyền địa phương, vào chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
3.3. Lựa chọn giải pháp
Trong các giải pháp trên, mỗi giải pháp đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Nếu lựa chọn giải pháp thứ nhất thì việc xử lý có ưu điểm là thống nhất quan điểm trong xử lý và quản lý đất đai giữa Uỷ ban nhân dân tỉnh KG và Uỷ ban nhân dân thị xã TH nhưng có nhược điểm là không bảo vệ được lợi ích của người đã có công khai hoang và sử dụng đất ổn định, lâu dài. Giải pháp thứ hai có ưu điểm là lập tức chấm dứt được tranh chấp giữa hai bên nhưng cũng có nhược điểm là tiềm ẩn khả năng vi phạm pháp luật của người sử dụng đất là bà C và gây nên bất mãn cho nhiều người. Vì vậy, tiểu luận lựa chọn giải pháp thứ ba là giải pháp tối ưu để xử lý tình huống trên.
Để thực hiện giải pháp thứ ba, cần thực hiện các bước sau:
Bước 1. Uỷ ban nhân dân tỉnh KG trả lời yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai của bà B
Để giải quyết dứt điểm tranh chấp và đảm bảo pháp chế trong thực hiện pháp luật về đất đai, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh KG uỷ quyền cho Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh KG phải trả lời yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai của bà B (bằng công văn trong thời gian 1 ngày làm việc) theo hướng Uỷ ban nhân dân tỉnh sẽ chỉ đạo Uỷ ban nhân dân thị xã HT giải quyết vụ việc theo đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho người khai hoang, sử dụng đất ổn định, lâu dài.
Bước 2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh KG chỉ đạo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT giải quyết vụ việc theo trình tự sau:
* Huỷ quyết định cho mượn đất
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT ra quyết định (bằng văn bản) để huỷ bỏ quyết định cho bà C mượn đất sản xuất từ năm 2005. Quyết đinh này phải được lập thành văn bản, phải được gửi cho ông P 1 bản và cho Uỷ ban nhân dân xã TY 1 bản để lưu hồ sơ quản lý đất đai của địa chính xã.
* Huỷ Quyết định số 56/QĐ-UBND ngày 02 tháng 12 năm 2009
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT ra quyết định huỷ bỏ Quyết định số 56/QĐ-UBND ngày 02 tháng 12 năm 2009 đã công nhận diện tích 94,90 m2 (đo thực tế là 129,25 m2) thuộc quyền sử dụng của bà C. Quyết định này cũng phải được gửi cho ông P và địa chính của xã TY để quản lý, theo dõi.
* Thu hồi 3.200 m2 đất đã cho bà C mượn từ năm 2005
Uỷ ban nhân dân thị xã HT là cơ quan đã ra quyết định cho bà C mượn đất để sản xuất nhưng cũng đồng thời là cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất trong các trường hợp do pháp luật quy định, trong đó có trường hợp của bà C sử dụng đất không có hiệu quả. Mặt khác, khi bà C chết đi, các con bà không tiếp tục sử dụng đất này thì cần phải thu hồi trả lại cho địa phương quản lý.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT cần giao cho cán bộ địa chính của Phòng địa chính phối hợp với cán bộ địa chính xã TY tiến hành đo đạc chính xác diện tích đất, mô tả bằng sơ đồ, trong đó chú ý đo đạc phần diện tích đất của bà B để làm cơ sở giải quyết quyền lợi cho bà sau này. Việc đo đạc phải lập thành biên bản, có chữ ký của cán bộ địa chính xã, của cán bộ địa chính thuộc Phòng Địa chính thị xã HT. Những phần đất trên thực địa có liên quan đến quyền sử dụng đất của các hộ gia đình thì cần có sự kiểm tra lại của họ để kịp thời điều chỉnh có đúng.
Uỷ ban nhân dân thị xã HT cần cử cán bộ (thuộc Phòng Địa chính) quản lý đất đai tại địa bàn xã TY và cán bộ địa chính của xã TY gặp gỡ, giải thích cho gia đình ông P biết về quyết định thu hồi đất dựa trên cơ sở pháp lý rõ ràng để ông hiểu và thực hiện. Đồng thời, giải thích cho ông rõ, nếu hộ gia đình ông thực sự có nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp để sản xuất thì có thể đề nghị Ủy ban nhân dân thị xã HT xem xét.
Hộ gia đình bà B thuộc trường hợp không có các loại giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 nhưng đã sử dụng đất ổn định, lâu dài từ trước ngày 15/10/1993 nên có cơ sở để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
* Thực hiện các thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà B.
Để thực hiện các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và đất sản xuất cho bà B, Uỷ ban nhân dân thị xã HT cần tiến hành các công việc sau:
- Kiểm tra lại quy hoạch đất đai để xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà B là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất tại địa phương.
- Yêu cầu Uỷ ban nhân dân xã TY làm việc cụ thể với ông P và bà B để giải quyết những khúc mắc giữa hai bên, thống nhất giữa các bên hoàn toàn không còn tranh chấp về đất đai. Lập biên bản thống nhất ý kiến của hai bên đã nhất trí hoà giải với nhau.
- Hướng dẫn bà B nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bà B cần phải nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Uỷ ban nhân dân xã TY để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Theo quy định thì hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, nhưng bà B không có thì chỉ cần đơn đề nghị. Bà B cũng có thể lập văn bản để uỷ quyền cho con gái xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Uỷ ban nhân dân xã TY có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B các vấn đề sau:
+ Tình trạng không có tranh chấp đất đai đối với thửa đất;
+ Nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất của bà B;
+ Sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt;
+ Công bố công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện (trong đó có trường hợp của bà B) và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã TY trong thời gian mười lăm (15) ngày;
+ Xem xét các ý kiến đóng góp đối với các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (trong đó có trường hợp của bà B);
+ Gửi hồ sơ đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã HT;
- Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cần phải thực hiện các công việc sau:
+ Kiểm tra hồ sơ; xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B;
+ Làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính;
+ Gửi hồ sơ đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B kèm theo trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính đến Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã HT;
- Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã HT phải thực hiện các công việc sau:
+ Kiểm tra hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B;
+ Trình Uỷ ban nhân dân thị xã HT quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà B.
Toàn bộ thời gian thực hiện các công việc trên không quá năm mươi lăm (55) ngày làm việc (không kể thời gian công bố công khai trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B) kể từ ngày Uỷ ban nhân dân xã TY nhận đủ hồ sơ hợp lệ cho tới ngày bà B nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bước 3. Uỷ ban nhân dân thị xã HT tiến hành rút kinh nghiệm
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT cần tiến hành rút kinh nghiệm công tác quản lý đất đai trên địa bàn, có sự tham gia của cơ quan thanh tra, tài nguyên và môi trường, địa chính xã TY để đánh giá kết quả công tác quản lý nhà nước về đất đai từ năm 2005 đến nay, rút ra những hạn chế, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý đất đai, đề ra biện pháp và phương hướng khắc phục trong thời gian tới.
Bước 4. Báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh KG
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT cần lập báo cáo kết quả giải quyết tranh chấp đất đai của bà B và ông P theo chỉ đạo của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh KG.
Đồng thời, cần nghiêm túc kiểm điểm trách nhiệm tập thể và cá nhân trong giải quyết trường hợp tranh chấp giữa ông P và bà B; vấn đề cho phép mượn đất để sản xuất của bà C và những hạn chế trong công tác theo dõi, giám sát thực hiện pháp luật về đất đai trên địa bàn.
IV. KIẾN NGHỊ
Để công tác quản lý nhà nước về đất đai được thực hiện có hiệu quả, hạn chế các tranh chấp, vi phạm pháp luật về đất đai, tiểu luận kiến nghị một số vấn đề như sau:
4.1. Kiến nghị với Đảng
Tăng cường lãnh đạo công tác quản lý nhà nước về đất đai thông qua vai trò lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoàn thiện các quy định pháp luật về đất đai. Tổ chức quán triệt và lãnh đạo triển khai thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của của Nghị quyết 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn tại các tổ chức cơ sở Đảng tại các cơ quan chức năng ở cả Trung ương và các địa phương. Cần đặc biệt quan tâm lãnh đạo các cấp chính quyền thực hiện đúng nguyên tắc tạo điều kiện cho nông dân ổn định đời sống và phải có đất để sản xuất, kiên quyết thu hồi đất đối với những trường hợp sử dụng đất nông nghiệp không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả. Đặc biệt, phải giữ vững nguyên tắc: giải quyết các tranh chấp đất đai trong nhân dân trên tinh thần bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, chính quyền phải nhận lấy những bất lợi về mình, tuyệt đối không gây mất niềm tin trong nhân dân, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
4.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng
Đối với Chính phủ cần tách các quy định trong các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai ra thành các văn bản riêng như nghị định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; nghị định về thu hồi đất; nghị định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; nghị định về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai… để tạo cơ sở pháp lý có tính chuyên biệt, dễ dàng cho cơ quan áp dụng và nhân dân thực hiện.
Đối với Bộ Tài nguyên và Môi trường cần tích cực triển khai hướng dẫn các nghị định sát với thực tế. Đẩy nhanh tiến độ kiểm tra, rà soát tổng thể các loại quỹ đất trong nhân dân để chỉ đạo quy hoạch cho phù hợp. Xây dựng kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ địa chính cho các địa phương để nâng cao năng lực phục vụ yêu cầu quản lý hiệu quả đất đai và giải quyết các tranh chấp trong nhân dân.
Đối với chính quyền các địa phương cần tích cực tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong nhân dân các thủ tục pháp lý liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đặc biệt là đất ở và đất sản xuất nông nghiệp để người dân chủ động đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố cần đôn đốc cơ quan có thẩm quyền ở cấp huyện và cấp xã tích cực tổ chức, vận động nhân dân kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất để tránh các tranh chấp phát sinh. Đồng thời, qua đó, các cấp chính quyền một lần nữa có điều kiện kiểm tra lại tính xác thực của các hồ sơ địa chính được lưu giữ tại cơ quan để kịp thời điều chỉnh cho khoa học, phù hợp với thực tế, đồng thời quản lý tốt quỹ đất để thực hiện các quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội tại từng địa phương.
V. KẾT LUẬN
Tranh chấp đất đai luôn là vấn đề có tính thời sự rất lớn, nhất là trong thời điểm hiện nay khi giá trị quyền sử dụng đất có những biến động tại nhiều địa phương trên phạm vi cả nước. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc giải quyết tranh chấp tại nhiều địa phương có những diễn biến rất phức tạp, ảnh hưởng xấu đến việc quản lý, sử dụng đất nói riêng và gây những bất ổn nhất định đối với đời sống kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, không chỉ có các cơ quan hành chính nhà nước được giao thẩm quyền giải quyết các tranh chấp đất đai mà Nhà nước còn trao trọng trách đó cho hệ thống cơ quan Toà án nhân dân. Điều đó cho thấy tính chất nghiêm trọng của các tranh chấp đất đai khi không được giải quyết một cách hợp lý. Trong khi đó, pháp luật về tranh chấp đất đai thời gian qua còn nhiều bất cập, hạn chế. Vì vậy, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật về đất đai cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan chức năng, của toàn xã hội trong quản lý nhà nước về đất đai; đồng thời, mỗi công dân cũng cần xây dựng cho mình ý thức trách nhiệm trong quản lý loại tài sản đặc biệt này, tránh để nảy sinh các tranh chấp, góp phần duy trì ổn định xã hội để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.




TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.     Ban chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
2.     Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông tư liên tịch số 14/2008/TTLT-BTC-BTNMT ngày 31/01/2008 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
3.     Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 02/7/2007 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
4.     Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần;
5.     Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
6.     Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
7.     Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật số 13/2003/QH11 ngày 26/11/2003 về đất đai;

8.     Uỷ ban nhân dân tỉnh Kiên Giang, Quyết định số 15/2010/QĐ-UBND ngày 12/5/2010 về việc ban hành quy định về trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết thủ tục hành chính về đất đai; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Bộ quy tắc ứng xử của công chức (phần cuối)

(tinhhuongquanlynhanuoc)-Trích từ “Bộ quy tắc ứng xử cho công chức cấp phường - kinh nghiệm Thành phố Hồ Chí Minh (do Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh biên soạnNhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật phát hành năm 2013. Tác giả Tiến sĩ Đỗ Thị Ngọc Lan).

>>Bộ quy tắc ứng xử của công chức (Phần 2)
>>Bộ quy tắc ứng xử của công chức (Phần 1)



Phần cuối:
Chương III
GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ ÁP DỤNG BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ CHO CÔNG CHỨC CẤP PHƯỜNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

I- ĐỀ XUẤT MỘT BẢN DỰ THẢO MẪU BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ CHO CÔNG CHỨC CẤP PHƯỜNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Trên cơ sở nghiên cứu so sánh các bản nội quy, bản quy tắc ứng xử được thu thập, tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau và các ý kiến đóng góp bình luận, góp ý, có thể đề xuất một bản dự thảo của Bộ quy tắc ứng xử như sau:

UỶ BAN NHÂN DÂN ……


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
              Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
           …, ngày   tháng   năm 20…

Bộ quy tắc ứng xử cho cán bộ, công chức …
(Ban hành kèm theo Quyết định số  /20… .QĐ-UBND ngày  /  /20…)

Điều 1. Quy định chung
Tất cả cán bộ, công chức, cán bộ không chuyên trách, lao động hợp đồng làm việc tại Ủy ban nhân dân… phải nghiêm túc và tự giác chấp hành Bộ quy tắc ứng xử này trong giờ làm việc tại trụ sở của Ủy ban nhân dân và các địa điểm công chức được giao công việc ngoài trụ sở Ủy ban nhân dân…
Điều 2. Thời gian làm việc
- Sáng từ 7 giờ đến 11 giờ. Chiều từ 13 giờ đến 17 giờ (tuỳ vào đặc điểm cơ quan).
- Trường hợp cán bộ, công chức đi công tác bên ngoài trụ sở Ủy ban nhân dân… phải được sự đồng ý của cấp trên trực tiếp và ghi rõ thời gian, địa điểm, nội dung công tác vào lịch công tác vào lịch công tác trên bảng đặt tại phòng làm việc.
Điều 3. Trang phục trong giờ làm việc tại trụ sở cơ quan
Đến cơ quan làm việc trang phục phải gọn gàng, nam giới phải mặc áo sơ mi, không được bỏ áo ngoài quần; nữ giới không được mặc áo không có tay, váy ngắn trên đầu gối; không được đi dép không có quai hậu. Cán bộ, công chức đeo thẻ tên theo quy định.
(Một phiên bản khác quy định chi tiết hơn như sau:
Cán bộ, công chức, lao động hợp đồng làm việc tại trụ sở Ủy ban nhân dân phải có trang phục gọn gàng, lịch sự, phù hợp với văn hóa nơi công sở. Nam giới phải mặc áo sơ mi có cổ gấp, quần tây hoặc quần vải kaki, áo bỏ vào trong quần, chân đi giày đen hoặc dép có quai hậu. Nữ giới phải mặc áo sơ mi, quần tây, quần kaki hoặc váy nhưng không ngắn trên đầu gối và đi dép có quai hậu. Cán bộ, công chức đeo thẻ tên theo quy định).
Điều 4. Thái độ làm việc
- Công chức khi được giao giải quyết các yêu cầu của cơ quan, đơn vị, tổ chức và của công dân không được từ chối các yêu cầu đúng pháp luật của người cần được giải quyết phù hợp với chức trách, nhiệm vụ được giao.
- Công chức không được làm mất, hư hỏng hoặc làm sai lệch hồ sơ, tài liệu liên quan đến yêu cầu của cơ quan, đơn vị, tổ chức và công dân khi được giao nhiệm vụ giải quyết.
- Công chức không được trốn tránh, đùn đẩy trách nhiệm.
- Công tâm, tận tụy, nhanh chóng, chính xác khi thi hành công vụ.
- Không móc ngoặc, thông đồng, tiếp tay làm trái các quy định để vụ lợi.
Điều 5. Giao tiếp khi thi hành công vụ
- Khi giao tiếp qua điện thoại phải xưng tên, địa chỉ cơ quan, đơn vị nơi công tác; trao đổi thông tin ngắn gọn, phải bảo đảm thông tin trao đổi đúng nội dung công việc mà cơ quan, đơn vị, tổ chức và công dân cần hướng dẫn, trả lời.
- Trong quan hệ giao tiếp khi thi hành nhiệm vụ, công vụ, phải có thái độ lịch sự, tôn trọng. Ngôn ngữ giao tiếp phải rõ ràng, minh bạch; không nói tục, nói tiếng lóng, quát nạt.
Giao tiếp với công dân
- Khi tiếp xúc với công dân phải vui vẻ, nhã nhặn, tận tình, lịch sự, giải quyết các yêu cầu của công dân theo đúng quy định của pháp luật.
- Thấu hiểu, chia sẻ và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của công dân.
- Tôn trọng, lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp của công dân.
- Trong khi thi hành công vụ, nếu phải để các công dân đến làm việc chờ đợi thì cần giải thích rõ lý do, nếu có sai sót thì phải xin lỗi công dân.
- Trong giờ làm việc công chức không được uống rượu, bia, hút thuốc lá hoặc các chất kích thích khác.
Điều 6. Quan hệ với đồng nghiệp
- Cấp dưới phải phục tùng sự phân công của cấp trên.
- Cấp trên phải hướng dẫn, trao đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm và phương tiện làm việc cho cấp dưới.
- Tôn trọng, giúp đỡ, bảo vệ uy tín, danh dự của đồng nghiệp.
Điều 7. Quan hệ với công chúng, công dân trong và ngoài giờ làm việc
- Thực hiện tốt đời sống văn hóa mới nơi cư trú. Xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc, hòa thuận.
- Không để người thân trong gia đình lợi dụng vị trí công tác của mình để làm trái các quy định của pháp luật.
- Gương mẫu thực hiện và vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, quy định của chính quyền địa phương. Chịu sự giám sát của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân nơi cư trú. Tham gia sinh hoạt Tổ dân phố nơi cư trú.
- Thực hiện nếp sống  văn hóa, quy tắc, quy định nơi công cộng.
- Giữ gìn trật tự xã hội và vệ sinh nơi công cộng.
Điều 8. Điều khoản thi hành
1. Các trường hợp vi phạm quy định tại Bộ quy tắc ứng xử này, Ủy ban nhân dân phường sẽ xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành.
2. Bộ quy tắc ứng xử này đã được thông qua tập thể cán bộ, công chức và lao động hợp đồng làm việc tại Ủy ban nhân dân phường. Đề nghị tất cả cán bộ, công chức và lao động hợp đồng nghiêm chỉnh và tự giác chấp hành Bộ quy tắc ứng xử này.
T/M. ỦY BAN NHÂN DÂN …..
Nơi nhận:
- TT. Đảng ủy – UBND …..;
- Các ban, ngành, đoàn thể;
- Lưu VT.
---------------------------------------------------------------------------------------------
II- ĐỀ XUẤT CÁC BẢN HƯỚNG DẪN QUY TẮC ỨNG XỬ RIÊNG CHO MỘT SỐ NHIỆM VỤ, TÌNH HUỐNG

Bên cạnh bản dự thảo mẫu Bộ quy tắc ứng xử cho công chức cấp phường ngắn gọn như trên, tùy thực tế từng cơ quan, có thể phổ biến thêm một số bản hướng dẫn quy tắc ứng xử cho một số chức danh công chức thực hiện một số nhiệm vụ hoặc ứng xử trong các tình huống khác nhau.
Ví dụ:
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử trong hội hợp.
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử giao tiếp qua điện thoại.
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử khi phát ngôn với báo chí.
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử khi có khách yêu cầu gặp lãnh đạo.
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử với công dân có thái độ nóng nảy, giận dữ.
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử đối với công chức làm việc thêm ngoài giờ, cộng tác cho cơ quan khác để thêm thu nhập.
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử dành cho bảo vệ cơ quan.
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử của công chức khi tham gia các cuộc họp ở khu phố, tổ dân phố.
Các bản hướng dẫn quy tắc ứng xử này không nhất thiết ban hành dưới dạng một quyết định quy phạm, chủ yếu là lời khuyên đối với từng nhóm công chức trong từng nhóm công việc nhất định. Thủ trưởng cơ quan (Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, Bí thư Đảng ủy phường) có thể trao đổi riêng, thảo luận với từng nhóm công chức về nội dung cụ thể của dự thảo các bản hướng dẫn quy tắc ứng xử trước khi thống nhất thành quy định chung.
III- LỒNG GHÉP VIỆC HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỚI HỌC TẬP VỀ BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ
Khi đã có Bộ quy tắc ứng xử, tổ chức phải triển khai thực hiện các quy định của Bộ quy tắc ứng xử. Không thể chấp nhận Bộ quy tắc ứng xử chỉ là những quy định trên giấy, ai cũng biết nhưng không nhất thiết phải tuân theo. Muốn bảo đảm cho bộ quy tắc ứng xử được thực thi có hiệu quả, trước hết cần có sự cam kết chính trị mạnh mẽ của lãnh đạo tổ chức đối với những giá trị và nguyên tắc đã nêu trong bộ quy tắc. Cái mà ta gọi là sự quan tâm của lãnh đạo đó chính là sự cam kết chính trị, trước hết là sự nêu gương của cấp  trên, của cán bộ chủ chốt và đảng viên trong Ủy ban nhân dân phường, sự quan tâm, theo dõi, đôn đốc, kiểm điểm, phê bình của cấp trên đối với cán bộ, công chức phường vi phạm Bộ quy tắc ứng xử, cũng như sự động viên, khen thưởng, khuyến khích đối với những hành vi chấp hành tốt, những cán bộ, công chức nêu được tấm gương tốt về thực hiện.
Để phổ biến sâu rộng Bộ quy tắc ứng xử tới cán bộ, công chức phường, nên lồng ghép việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với học tập về Bộ quy tắc ứng xử. Hằng tuần, tại cuộc họp giao ban cơ quan phường cần tổ chức nói chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, có kết hợp với việc liên hệ các quy định của Bộ quy tắc ứng xử, nêu gương người tốt, việc tốt trong cơ quan và nhắc nhở những trường hợp vi phạm quy định.
*
*        *
KẾT LUẬN

Bộ quy tắc ứng xử của cán bộ công chức, viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương (Quyết định số 03/2007/QĐ-BNV ngày 26-02-2007 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ) được ban hành cách đây 6 năm nhưng việc cụ thể hóa các quy định chung của Bộ quy tắc ứng xử này cho từng cơ quan, tổ chức cụ thể chưa được nhiều. Phần lớn các cơ quan lấy nguyên chương, điều, câu chữ trong Bộ quy tắc ứng xử của Bộ Nội vụ áp dụng cho cơ quan mình, trong đó có nhiều quy định chung chung, không phù hợp với toàn cảnh địa phương và đặc thù của từng cơ quan. Tuy nhiên, các đề xuất đã nêu, từ việc đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã (phường) ban hành một văn bản quy phạm pháp luật kèm theo Bộ quy tắc ứng xử bao hàm các nội dung của việc xây dựng văn hóa tổ chức, nội quy và các bản quy tắc ứng xử, các bản hướng dẫn quy tắc ứng xử cho một số chức danh công chức làm một số nhiệm vụ hoặc ứng xử trong các tình huống khác nhau, đề xuất lồng ghép học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với việc phổ biến, tuyên truyền và học tập Bộ quy tắc ứng xử còn mang tính chất định hướng chung. Cần có những khảo sát, nghiên cứu, chẩn đoán tổ chức sâu sắc hơn để Bộ quy tắc ứng xử thực sự đúng pháp luật, nhưng phải khả thi và phù hợp với từng cơ quan, đơn vị. Đó chính là các yếu tố quyết định sự thành công của Bộ quy tắc ứng xử đạt được mục tiêu “Xây dựng phong cách giao tiếp và ứng xử chuẩn mực của cán bộ, công chức khi thi hành nhiệm vụ, công vụ, trong quan hệ xã hội, bao gồm những việc phải làm hoặc không được làm nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức” như Bộ Nội vụ đã đề ra./.

NH (TH)

Friday, December 11, 2015

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 21

TIN LIÊN QUAN

>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 20





MỤC LỤC

Trang
Lời nói đầu

I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG

1.1. Hoàn cảnh ra đời và xuất hiện của tình huống

1.2. Mô tả tình huống

II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG

2.1. Mục tiêu phân tích tình huống

2.2. Cơ sở lý luận

2.3. Phân tích diễn biến tình huống

2.4. Nguyên nhân dẫn đến tình huống

2.5. Hậu quả của tình huống

III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG

3.1. Mục tiêu xử lý tình huống

3.2. Đề xuất xử lý tình huống

3.3. Lựa chọn giải pháp

IV. KIẾN NGHỊ

4.1. Kiến nghị với Đảng

4.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng

V. KẾT LUẬN

TÀI LIỆU THAM KHẢO







LỜI NÓI ĐẦU
          Nâng cao hiệu lực quản lý của bộ máy nhà nước, thúc đẩy công cuộc cải cách hành chính để phục vụ phát triển đất nước trong giai đoạn mới đã và đang đặt ra yêu cầu phải bồi dưỡng năng lực cho đội ngũ cán bộ, công chức. Vì vậy, trong thời gian qua, tại các Học viện, Trường Đại học thường xuyên mở các lớp, các khoá bồi dưỡng kiến thức cho cán bộ, công chức đang công tác tại các cơ quan nhà nước, trong đó có lớp …(khoá…bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước). Lớp học được tổ chức tại…trong thời gian…từ ngày…tháng…đến ngày….tháng…năm 2010.
          Nội dung của khoá học bao gồm các kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước trên nhiều lĩnh vực, như…, trong đó chú trọng bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước về đất đai và giải quyết các tranh chấp đất đai nhằm giúp cán bộ, công chức công tác tại các địa phương xử lý tốt các vấn đề liên quan đến đất đai trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Quản lý nhà nước về đất đai là một lĩnh vực hiện đang nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp do hệ thống pháp luật về đất đai chưa hoàn thiện, quá trình đô thị hoá nông thôn, hiện đại hoá các đô thị, xây dựng cơ sở hạ tầng, các cơ sở kinh tế diễn ra với tốc độ chóng mặt trong khi cơ chế quản lý nhà nước về đất đai, ý thức pháp luật của người dân, của cán bộ, công chức trong giải quyết các quan hệ liên quan đến đất đai còn nhiều hạn chế…Đây chính là những nguyên nhân cơ bản dẫn đến các tranh chấp đất đai trong nhân dân diễn ra phổ biến tại nhiều địa phương. Trong khi đó, quá trình giải quyết của các cơ quan nhà nước còn chưa thống nhất, thậm chí chưa đúng với các quy định pháp luật hiện hành, gây nên nhiều bức xúc cho các đối tượng tham gia quan hệ pháp luật, làm nảy sinh các dư luận xã hội và các hành vi tiêu cực trong nhân dân, cá biệt có nhiều vụ việc từ các tranh chấp đất đai dẫn đến các hành vi vi phạm pháp luật, vi phạm đạo đức. Vì vậy, giải quyết hợp lý, hợp tình các tranh chấp đất đai trong giai đoạn hiện nay có ý nghĩa quan trọng trong việc giữ gìn an ninh trật tự tại các địa phương và xây dựng niềm tin của nhân dân đối với Nhà nước.
Từ những lý do đó, việc lựa chọn vấn đề “Nâng cao hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai của chính quyền địa phương hiện nay” có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn.
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1.1. Hoàn cảnh ra đời và xuất hiện của tình huống
KG là tỉnh có tiềm năng kinh tế đa dạng về nông nghiệp, khai thác hải sản, công nghiệp vật liệu xây dựng và du lịch nhưng cũng là một trong số các tỉnh phát sinh nhiều tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai.
Trong 5 năm qua, toàn tỉnh giải quyết 3.970 đơn khiếu nại, tố cáo, 55 vụ khiếu kiện tập thể đông người. Riêng Thanh tra tỉnh tham mưu giải quyết 807 đơn khiếu nại, tố cáo và 12 vụ khiếu kiện tập thể. Cùng với việc trực tiếp tham mưu giải quyết khiếu nại, tố cáo thuộc thẩm quyền, Thanh tra tỉnh thường xuyên tổ chức các cuộc thanh tra, kiểm tra trách nhiệm của chủ tịch UBND các huyện, thị, sở, ngành trong việc thực hiện Luật khiếu nại, tố cáo, qua đó chấn chỉnh những tồn tại, hướng dẫn chuyên môn nghiệp vụ, giúp cơ sở thực hiện tốt công tác tiếp công dân, giải quyết khiếu kiện hành chính lần đầu và hòa giải tranh chấp đất đai ở cơ sở, hạn chế đến mức thấp nhất đơn khiếu kiện vượt cấp, giữ được mối quan hệ tình làng nghĩa xóm trong cộng đồng dân cư.
HT là thị xã nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh KG, phía Bắc giáp Campuchia, nơi có đường biên giới dài 13,7 km, phía Đông và Nam giáp huyện KL, phía Tây giáp vịnh Thái Lan với đường bờ biển dài 22 km. Về hành chính, thị xã HT bao gồm 5 phường 2 xã, trong đó có xã TY.
Từ khi nền kinh tế phát triển, đời sống nhân dân xã TY được nâng cao, nhiều nông dân giàu lên từ kinh tế nông, lâm nghiệp. Hàng loạt các dự án phát triển kinh tế, du lịch được thực hiện trên địa bàn làm cho bộ mặt của xã mỗi ngày một đổi mới, đồng thời, mở ra nhiều cơ hội cho các cá nhân, các hộ gia đình làm ăn phát triển kinh tế. Tuy nhiên, cũng từ đây phát sinh nhiều hiện tượng xã hội tiêu cực như cờ bạc, cá độ, nghiện hút, mại dâm…và các tranh giành liên quan đến đất đai làm nảy sinh nhiều khiếu kiện phức tạp. Một trong số các vụ việc đó là trường hợp tranh chấp đất đai giữa bà Võ Thị B với ông Đoàn Quốc  P.
1.2. Mô tả tình huống
Ông Đoàn Quốc P là con của ông Đoàn Hữu Y và bà Nguyễn Thị C. Ông Y và bà C đã cư ngụ tại xã TY từ năm 1969. Năm 1976, gia đình bà C tiến hành trồng dừa trên diện tích đất vốn là bãi bồi ven biển phía trước nhà. Năm 1977, gia đình bà B di tản chiến tranh biên giới Tây Nam từ chợ Giang Thành, Tân Khánh Hoà đến và tiến hành cải tạo để ở và canh tác trên diện tích đất này (trước vốn chỉ toàn là bùn lầy và cây cối, không có chỗ trống) mà không có ai ngăn cản. Toàn bộ thổ đất gia đình bà B sử dụng rộng 489,98 m2,  trong đó có 360,73 m2 để ở, còn lại là 129,25 m2 bà B dùng để trồng một số cây hoa màu, trên đó còn có 3 cây dừa của bà C trồng trước đây. Trên diện tích 129,25 m2, gia đình bà B sử dụng mặt đất, riêng 3 cây dừa do gia đình bà C hái trái, thu hoạch thường xuyên, hai bên sinh sống thuận hoà, “tắt lửa tối đèn” có nhau, không tranh chấp gì. Diện tích trước đây trồng dừa bà C tiếp tục thu hái nhưng đến năm 1981 bị hỏng gần hết do thiên tai (chỉ còn 3 cây dừa trên diện tích đất 129,25 m2), bà C cũng không tiến hành trồng lại từ đó, nhưng thỉnh thoảng vẫn hái quả của 3 cây dừa cho con cháu trong nhà dùng.
Năm 2005, bà C làm đơn xin cấp 3.200 m2 đất bãi bồi ven biển (bao gồm cả phần đất hộ gia đình bà B đang sử dụng), được Uỷ ban nhân dân thị xã HT duyệt cho mượn sản xuất, nhưng trên thực tế gia đình bà C không sử dụng phần đất này.  Sự việc bà C được mượn diện tích đất trên bà B không hề biết.
Năm 2008 vợ chồng bà C chết. Các con của ông bà có 5 người, đều đã có gia đình và sinh sống trên địa bàn xã TY nhưng đều không làm nông nghiệp mà buôn bán và kinh doanh dịch vụ Internet. Riêng phần đất của gia đình nay do ông Đoàn Quốc P cùng vợ là bà Nguyễn Thị M và 3 người con sinh sống. Phía gia đình bà B, vợ chồng bà có 2 người con, 1 trai, 1 gái. Người con trai đã mất trong thời kỳ chiến tranh, người con gái đã lấy chồng ở cùng trên diện tích đất này nhưng tháng 12 năm 2008 chồng chị bị tai nạn ô tô qua đời nên chỉ còn bà B, con gái và 2 đứa cháu sống trên mảnh đất này. Trong suốt thời gian sinh sống tại đây, gia đình bà B đều thực hiện tốt các nghĩa vụ với  chính quyền địa phương.
Năm 2009, thị xã có quy hoạch xây dựng khu vui chơi giải trí và mở đường lớn đi qua phần đất từ hộ gia đình ông P sinh sống kéo qua phần đất của gia đình bà C ra phía biển. Vì vậy, khu đất bỗng trở nên có giá, nhiều người nhòm ngó đến hỏi mua. Biết khu đất do gia đình bà B đang ở thuộc phần đất mà mẹ mình mượn của thị xã để sản xuất, ông P đã yêu cầu bà B giao trả phần diện tích còn trống cập bên hông nhà đo thực tế là 129 m2 (chưa trừ lộ giới) với lý do rằng đất góc của cha mẹ ông. Bà B không đồng ý nhưng ông P và vợ nhiều lần có hành vi đe doạ, tiến hành xây tường để khoanh khu đất nhập vào đất nhà mình. Sau nhiều lần thương lượng và nhờ hàng xóm, trưởng ấp can thiệp nhưng không được, ngày 10/7/2009 bà B đã làm đơn gửi đến Uỷ ban nhân dân xã TY yêu cầu giải quyết. Uỷ ban nhân dân xã TY đã tiến hành gặp gỡ hai bên để hoà giải nhưng không thành nên đã lập biên bản hoà giải không thành (ngày 22/10/2009) và hướng dẫn bà B gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân thị xã HT yêu cầu giải quyết.
Ngày 27/10/2009, bà B gửi đơn yêu cầu Uỷ ban nhân dân thị xã HT giải quyết tranh chấp giữa bà và ông P về quyền sử dụng diện tích đất 129,25 m2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT trên cơ sở kết quả xác minh của cơ quan thanh tra đã bác đơn của bà B, đồng thời, ra Quyết định số 56/QĐ-UBND ngày 02 tháng 12 năm 2009 giải quyết sự việc theo hướng công nhận diện tích 94,90 m2 (đo thực tế là 129,25 m2) thuộc quyền sử dụng của bà C vì đã được Uỷ ban nhân dân thị xã HT chấp thuận cho phép sử dụng từ năm 2005. Nay bà C và ông Y đã chết thì ông P và các anh em phải cắt cử đại diện đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định. Buộc bà B phải trả lại diện tích đất trên cho ông P để ông P và em làm các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng diện tích đất này.
Bà B không đồng ý với quyết định đó của Uỷ ban nhân dân thị xã HT nên đã làm đơn khiếu nại gửi đến UBND tỉnh KG (ngày 30 tháng 1 năm 2010). Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh KG đã yêu cầu Sở Tài nguyên và Môi trường phối hợp với Thanh tra tỉnh thành lập tổ tư vấn giải quyết khiếu nại của bà B để tiến hành thẩm tra, xác minh khiếu nại. Trên cơ sở hồ sơ thẩm tra, xác minh, Uỷ ban nhân dân tỉnh KG cho rằng khiếu nại của bà B là có cơ sở để xem xét, giải quyết và việc giải quyết của Uỷ ban nhân dân thị xã HT là chưa phù hợp vì gia đình bà B đã sử dụng ổn định mảnh đất trên từ năm 1977 đến nay. 
Sự thiếu thống nhất trong cách giải quyết của Uỷ ban nhân dân thị xã HT và quan điểm giải quyết của Uỷ ban nhân dân tỉnh KG đã khiến cho bà B quyết tâm theo đuổi nội dung khiếu nại của mình.
Vậy, bà B có được quyền sử dụng diện tích 129,25 m2 không ? Cách xử lý của Uỷ ban nhân dân thị xã HT và quan điểm xử lý Uỷ ban nhân dân tỉnh KG là đúng hay sai ? Đây là những vấn đề cần được xem xét và giải quyết một cách hợp lý, hợp tình trên cơ sở các quy định của pháp luật về đất đai.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống
Mục tiêu của việc phân tích tình huống trên là nhằm làm sáng tỏ việc giải quyết khiếu nại của Uỷ ban nhân dân thị xã HT và quan điểm của Uỷ ban nhân dân tỉnh KG đối với khiếu nại của bà B là đúng hay sai, xác định nguyên nhân, hậu quả của tình huống để làm cơ sở cho việc tìm ra phương án tối ưu để giải quyết tình huống.
2.2. Cơ sở lý luận
Tranh chấp đất đai là một hiện tượng bình thường trong đời sống xã hội. Đối với Việt Nam, trong suốt thời gian từ khi chế độ sở hữu toàn dân đối với đất đai được thiết lập từ năm 1980 cho đến nay, tranh chấp đất đai luôn là vấn đề thời sự, có những diễn biến rất phức tạp, ảnh hưởng xấu đến việc quản lý, sử dụng đất nói riêng và gây những bất ổn nhất định đối với đời sống kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, Đảng và Nhà nước ta đã đặt ra nhiều quy định nhằm giải quyết tốt nhất các tranh chấp đất đai phát sinh trong nhân dân. Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của Ban chấp hành Trung ương về nông nghiệp, nông dân và nông thôn xác định nhiệm vụ của toàn thể hệ thống chính trị là “Đấu tranh, ngăn chặn các hành vi tiêu cực, giữ vững an ninh, trật tự an toàn xã hội, giải quyết kịp thời các vụ việc khiếu kiện của nhân dân, không để gây thành những điểm nóng ở nông thôn”.
Về phía Nhà nước ta coi việc giải quyết các tranh chấp đất đai trong nhân dân là một nhiệm vụ thường xuyên của các cấp, các ngành, trong đó chủ yếu là chính quyền địa phương các cấp. Luật đất đai năm 2003 xác định: Giải quyết tranh chấp về đất đai; giải quyết khiếu nại, tố cáo các vi phạm trong việc quản lý và sử dụng đất đai là một nội dung quan trọng của quản lý nhà nước về đất đai. Để giải quyết các tranh chấp này, Luật đất đai và các văn bản hướng dẫn thi hành như Nghị định của Chính phủ số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành luật đất đai; Nghị định của Chính phủ số 84/2008/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung quyền cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai...đã xác định cụ thể thẩm quyền giải quyết tranh chấp, các khiếu nại, tố cáo về đất đai; xử lý các vi phạm pháp luật về đất đai và trách nhiệm của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp trong việc phát hiện, ngăn chặn và xử lý vi phạm pháp luật về quản lý và sử dụng đất đai tại địa phương...Đây chính là những cơ sở pháp lý quan trọng để giải quyết các tranh chấp về đất đai.
2.3. Phân tích diễn biến tình huống
Từ các nội dung của tình huống cho thấy, tranh chấp đất đai giữa ông P và bà B nảy sinh khi giá trị khu đất có sự thay đổi, mối quan hệ vốn thân thiết, láng giềng “tắt lửa tối đèn”, cưu mang lẫn nhau trong những lúc khó khăn giờ đã bị đặt sang một bên để nhường chỗ cho những toan tính nhỏ nhen bắt đầu kể từ khi mảnh đất trước kia chỉ là bãi lầy, đầy cây cối hoang vu nay đã được cải tạo để trở thành một mảnh đất có giá. Cũng từ việc giải quyết tranh chấp giữa ông P và bà B cho thấy những hạn chế trong quản lý nhà nước về đất đai nói chung và địa bàn xã TY nói riêng.
Sự việc bà B không biết gì việc bà C làm đơn xin cấp 3.200 m2 đất, trong đó có cả diện tích đất mà hộ gia đình bà B đang ở và được Uỷ ban nhân dân thị xã HT cho phép mượn diện tích đất đó để sản xuất cho thấy Uỷ ban nhân dân thị xã HT đã không thực hiện đúng thẩm quyền và thủ tục do pháp luật quy định. Theo các quy định pháp luật về đất đai thì Uỷ ban nhân dân thị xã HT phải làm các thủ tục để cho bà C thuê đất chứ không phải là cho mượn đất. Mặt khác, bất kể là cho thuê hay cho mượn đất thì với diện tích đất như vậy, trước khi quyết định phải tiến hành điều tra, xác minh trên thực địa. Nếu khâu này được làm tốt thì không thể cho phép bà C sử dụng diện tích đất 3.200 m2 để sử dụng vào việc sản xuất mà trên đó có hộ gia đình bà B đang ở ổn định từ năm 1977. Việc lấy đất (có nguồn gốc từ khai hoang) của một hộ gia đình đang ở và sản xuất để cho một người khác mượn là hoàn toàn không đúng với quy định của pháp luật.
Mặt khác, việc bà C được phép sử dụng 3.200 m2 đất để sản xuất nhưng đã không sử dụng trong một thời gian dài cho thấy sự buông lỏng quản lý mục đích của người sử dụng đất trên thực tế của Uỷ ban nhân dân xã TY và Uỷ ban nhân dân thị xã HT.
Khi có tranh chấp xảy ra, Uỷ ban nhân dân xã TY đã tiến hành hoà giải tranh chấp giữa ông P và bà B nhưng thời gian hoà giải không tuân thủ đúng quy định tại Điều 135 Luật đất đai năm 2003.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT ra quyết định công nhận diện tích 129, 25 m2 đất thuộc quyền sử dụng của ông P trên cơ sở diện tích đất này nằm trong diện tích 3.200 m2 đất mà Uỷ ban nhân dân thị xã HT đã cho bà C (mẹ của ông P) mượn từ năm 2005 là có cơ sở pháp lý nhưng chính cơ sở pháp lý đó lại không hợp pháp và không có cơ sở thực tế, bởi lô đất đó bà B đã sử dụng ổn định, lâu dài, không hề có sự tranh chấp trong suốt quá trình sử dụng, mặt khác bà C từ khi được mượn cũng không hề sử dụng đất này để sản xuất.
Mặc dù đã có quyết định giải quyết tranh chấp giữa ông P và bà B nhưng khi bà B chưa đồng ý với quyết định đó, tức việc tranh chấp đất đai chưa được giải quyết xong mà Uỷ ban nhân dân thị xã HT đã hướng dẫn cho ông P đại diện để đăng ký quyền sử dụng đất là không đúng. Việc bà B tiếp tục yêu cầu Uỷ ban nhân dân tỉnh KG giải quyết tranh chấp đất đai là hoàn toàn đúng quy định của pháp luật. Theo quy định tại Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29/10/2004 về thi hành Luật Đất đai, với diện tích đất đang có tranh chấp thì Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương giải quyết dứt điểm để xác định người sử dụng đất.
Cũng theo quy định tại Nghị định này, hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất phi nông nghiệp do tự khai hoang thì việc công nhận quyền sử dụng đất và cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại khoản 6 Điều 50 Luật Đất đai. Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất nông nghiệp do tự khai hoang mà đất đó phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt, không có tranh chấp, sử dụng đất có hiệu quả thì được Nhà nước công nhận quyền sử dụng đất đối với diện tích đất trong hạn mức giao đất nông nghiệp quy định tại các khoản 1, 2, 3 và 4 Điều 70 của Luật Đất đai; trường hợp vượt hạn mức thì được tính thêm hạn mức quy định tại khoản 5 Điều 70 của Luật Đất đai và khoản 4 Điều 69 của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP; nếu vượt hạn mức đã tính thêm thì phải chuyển sang thuê đất đối với diện tích vượt hạn. Như vậy, quan điểm giải quyết của Uỷ ban nhân dân tỉnh KG là hoàn toàn có cơ sở.
2.4. Nguyên nhân dẫn đến tình huống
Nguyên nhân dẫn đến tranh chấp đất đai giữa ông P và bà B bao gồm những nguyên nhân khách quan và chủ quan như sau:
2.4.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, các quy định pháp luật về đất đai còn nhiều bất cập, một số quy định không phù hợp với thực tế.
Cùng với sự phát triển ngày càng phức tạp của các quan hệ pháp luật dân sự và đất đai mà các quy định pháp luật về đất đai ngày càng hoàn thiện nhưng vẫn chưa thực sự phù hợp với thực tế. Phần lớn đất ở và đất sản xuất ở nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa có nguồn gốc từ hoạt động khai hoang của các hộ gia đình và được họ sử dụng ổn định lâu dài, được cộng đồng thừa nhận mà không có các loại giấy tờ theo quy định của Nhà nước. Người dân vốn chỉ quan tâm đến việc sinh sống không mấy quan tâm đến thực hiện các quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực đất đai trừ khi có sự tác động của Nhà nước thông qua các cơ quan nhà nước ở địa phương. Mà thường thì nếu không có tranh chấp các cơ quan, chính quyền địa phương cũng thờ ơ trước quyền và lợi ích hợp pháp của người dân.
Thứ hai, sự biến đổi các điều kiện kinh tế-xã hội tại địa phương.
Trong tổng thể các biến đổi về điều kiện kinh tế-xã hội tại địa phương phải kể đến sự gia tăng dân số tạo nên sức ép đối với các gia đình trong sử dụng đất vào các mục đích khác nhau như làm nhà ở, kinh doanh các loại dịch vụ giải trí, buôn bán hàng hoá, sản xuất nông nghiệp…Bên cạnh đó, sự phát triển hạ tầng cơ sở làm cho giá đất tăng vọt tại nhiều nơi khiến cho nhiều người quan tâm đến giá trị của đất, tìm mọi cách để có đất nhằm đáp ứng cho các nhu cầu của mình.
Thứ ba, hoạt động quản lý nhà nước về đất đai còn nhiều hạn chế.
Quản lý nhà nước về đất đai chủ yếu do chính quyền địa phương từ Uỷ ban nhân dân cấp xã đến Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện. Tuy nhiên, thực trạng quản lý đất đai của các hộ gia đình còn gặp nhiều hạn chế do điều kiện lịch sử, do chiến tranh và do công tác quản lý thiếu khoa học trong một thời gian dài. Vì vậy, nhiều hồ sơ, giấy tờ liên quan đến quyền sử dụng đất của các cá nhân, hộ gia đình không còn được lưu giữ. Việc đo, vẽ trên thực địa để tiến hành lưu giữ, quản lý được tiến hành trên thực địa rất chậm chạp, thiếu chủ động và không chính xác. Cách nghĩ, cách làm của bộ phận cán bộ làm công tác địa chính còn mang tính chất bàn giấy, ngại về cơ sở. Cán bộ xã làm công tác quản lý đất đai có trình độ chuyên môn chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ được giao nên không phát hiện được các vi phạm pháp luật về đất đai, thậm chí có biết cũng không biết cách xử lý như thế nào cho hợp tình, hợp lý. Vì vậy, chưa thực hiện tốt vai trò trong quản lý đất đai, hướng dẫn, vận động nhân dân thực hiện tốt các quy định pháp luật về đất đai và chưa phát huy được hiệu quả hoà giải các tranh chấp về đất đai.
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, tư tưởng hám lợi, vì lợi ích cá nhân bất chấp tình nghĩa.
Tinh thần đoàn kết là truyền thống của bao thế hệ người Việt Nam trong lao động, sản xuất và chiến đấu chống giặc ngoại xâm. Ở nông thôn, tình làng nghĩa xóm đã cố kết biết bao gia đình vượt qua những khó khăn về thiên tai, mất mùa, vượt qua cái đói khi giáp hạt. Nhưng khi đời sống đã bớt khó khăn, thì chính tại những làng xóm ấy, cũng vẫn những con người ấy, vì hám lợi đã quên đi tình nghĩa, sẵn sàng đe doạ hoặc dùng mọi thủ đoạn để tranh giành từng mét đất. Không thiếu những vụ việc vì đất đai mà anh em chia lìa, hàng xóm láng giềng chém giết lẫn nhau. Đây là vấn đề đang gây nỗi lo lắng cho cộng đồng, những người có trách nhiệm đối với sự phát triển bền vững các giá trị văn hoá truyền thống tại làng quê Việt Nam hôm nay.
Thứ hai, sự thờ ơ của xã hội.
Có thể dễ dàng nhận thấy một tình trạng phổ biến hiện nay là “đèn nhà ai nhà nấy rạng” nên trước các tranh chấp, xích mích trong cộng đồng, đại bộ phận người dân có thái độ thiếu quan tâm, thờ ơ, vô cảm, bỏ mặc cho các tranh chấp đó phát triển mà không hề có sự động viên, giúp đỡ, chia sẻ để cho các bên giải quyết hợp lý lợi ích chính đáng của mình. Mặc dù ở hầu hết các địa phương đều tồn tại của Tổ hoà giải nhưng chính hoạt động của tổ chức này cũng vẫn mang tính hình thức, chưa thực sự có hiệu quả. Các đoàn thể quần chúng ở địa phương, nhất là Mặt trận Tổ quốc, Hội Nông dân, Hội Phụ nữ chưa thực sự phát huy vai trò trong tham gia hoà giải các tranh chấp liên quan đến đất đai. Thường là khi tranh chấp phát sinh trong thời gian dài hoặc có tính chất nghiêm trọng thì mới “ra mặt” để hoà giải nhưng khi đó đã không còn có tác dụng tích cực mà thường bị một trong các bên cho rằng thiên vị, ủng hộ phía bên kia.
Thứ ba, thái độ vô trách nhiệm của cán bộ, công chức cấp xã.
Tình trạng phổ biến ở hầu khắp các địa phương hiện nay là cán bộ, công chức cấp xã chỉ quan tâm đến các công việc có gắn với các nguồn thu từ nhân dân, còn các việc không mang lại lợi ích trước mắt thì thường bỏ mặc, không quan tâm. Thậm chí, một bộ phận không nhỏ cán bộ còn lợi dụng các chủ trương đúng đắn nhưng thiếu chặt chẽ của Nhà nước trong giải quyết các quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân trong lĩnh vực đất đai để trục lợi. Những người này luôn tỏ ra hách dịch, cửa quyền, thiếu công khai các thông tin có lợi cho dân để “kiếm chác”. Vì vậy, phần lớn người dân nông thôn rất ngại khi tiếp xúc với chính quyền để giải quyết các quyền lợi của mình. Chỉ “bần cùng, bất đắc dĩ” họ mới phải đến yêu cầu cơ quan nhà nước giải quyết nhưng rất ít khi được tiếp đón và giải quyết một cách tận tình, chu đáo. Tất cả những điều đó khiến chính quyền và nhân dân ngày càng xa nhau, kéo theo đó là sự thiếu thông tin trầm trọng trong thực hiện quyền lợi liên quan đến đất đai của mình.
2.5. Hậu quả của tình huống
Phân tích hậu quả của tình huống trên là tìm ra những tác động không tốt do tình huống đó mang lại cho Nhà nước, cho địa phương.
Thứ nhất, đối với Nhà nước.
Các tranh chấp về đất đai bộc lộ những hạn chế có tính lịch sử trong công tác quản lý nhà nước về đất đai. Quá trình giải quyết thường kéo dài qua nhiều khâu, nhiều bước với sự tham gia của nhiều cơ quan, nhiều vụ việc phải giải quyết qua nhiều cấp gây tốn kém về tiền của, về nhân lực của Nhà nước và mất thời gian, công sức, tiền của của chính những người tranh chấp.
Kết quả giải quyết tranh chấp đất đai chưa thực sự thấu tình, đạt lý, nhiều cán bộ còn có thái độ và hành vi nhũng nhiễu, hạch sách, làm cho người dân mệt mỏi về tâm lý, mất niềm tin với chính quyền và với Nhà nước. Điều này rất dễ bị các thế lực thù địch lợi dụng kích động gây chia rẽ, lôi kéo thực hiện các hành vi gây rối trật tự công cộng, gây mất an ninh, trật tự an toàn xã, thậm chí còn tiếp tay cho chúng chống phá các chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
Thứ hai, đối với địa phương.
Để phát triển nông nghiệp, nông thôn phục vụ cho mục tiêu hiện đại hoá đất nước vì chủ nghĩa xã hội, cần phải xây dựng nông thôn mới với những quan hệ kinh tế-xã hội lành mạnh. Các tranh chấp về đất đai đã ảnh hưởng không nhỏ đến môi trường văn hoá ở nông thôn, là mầm bệnh dẫn đến sự tha hoá về đạo đức, lối sống của một bộ phận người dân, tiềm ẩn nguy cơ nảy sinh các vi phạm pháp luật, đặc biệt là tội phạm khi các bên bức xúc tự giải quyết bằng con đường bạo lực. Mỗi trường hợp tranh chấp và hậu quả của nó đều để lại cho các bên trong quan hệ một vết rạn nứt (có thể kéo dài qua nhiều thế hệ), ảnh hưởng xấu đến sự phát triển và phát huy tác dụng của cộng đồng làng xã Việt Nam trong thời kỳ phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
Mục tiêu của việc xử lý tình huống trên là nghiên cứu, đề xuất các phương án giải quyết tranh chấp giữa các bên, phân tích ưu, nhược của từng phương án để tìm ra phương án tối ưu cho việc giải quyết tranh chấp trên.
3.2. Đề xuất xử lý tình huống
Để xử lý tình huống trên, tiểu luận đề xuất một số giải pháp như sau:
3.2.1. Giải pháp 1. Công nhận diện tích 129,25 m2 thuộc quyền sử dụng của ông P.
Ưu điểm của phương án này là tạo nên sự thống nhất trong quản lý nhà nước về đất đai giữa Uỷ ban nhân dân tỉnh KG và Uỷ ban nhân dân thị xã HT bởi cơ sở giải quyết tranh chấp của Uỷ ban nhân dân tỉnh KG là quyết định cho mượn đất của Uỷ ban nhân dân thị xã HT năm 2005 (hiện vẫn đang có hiệu lực); đồng thời, tiết kiệm được thời gian, công sức vào việc giải quyết tranh chấp. Tuy nhiên, nhược điểm của phương án này là không đảm bảo được lợi ích chính đáng của người thực sự đã có công khai hoang, bảo vệ đất, khai thác giá trị của đất để phục vụ xã hội. Khiến cho những người có công trong khai hoang đất đai hoang mang, mất niềm tin, có thể gây nên những bất ổn về an ninh trật tự tại địa phương. Mặt khác, theo quy định của pháp luật thì trường hợp của bà B nếu không có tranh chấp thì có thể đề nghị Nhà nước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đối với diện tích đất này và thậm chí đối với toàn bộ diện tích nơi bà hiện đang ở.
3.2.2. Giải pháp 2. Thu hồi diện tích 3.200 m2 đất trả lại cho chính quyền thị xã HT quản lý
Ưu điểm của phương án này là chấm dứt một cách nhanh chóng tranh chấp giữa ông P và bà B. Khi ông B không có quyền sử dụng mảnh đất này thì sẽ không có cơ sở để tranh chấp đất với bà B. Cơ sở để thu hồi là căn cứ vào khoản 3 Điều 38 Luật Đất đai năm 2003. Bà B cũng như các con của bà, trong đó có ông P đã sử dụng đất không có hiệu quả. Mặt khác, đây là diện tích đất bà C mượn để sản xuất, chưa có giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Khi người sử dụng đất không sử dụng thì Nhà nước có quyền thu hồi.
Tuy nhiên, phương án này có nhược điểm giống như ở phương án 1 đó là không đảm bảo được lợi ích của người sử dụng đất lâu dài, đã có công khai hoang, phục hoá, cải tạo đất, sử dụng đất sản xuất phục vụ đời sống. Đồng thời, có thể gây bất mãn cho nhiều người, các bên tranh chấp và những người có liên quan. Việc thu hồi đất cũng chấm dứt cả quyền sử dụng của bà B về mặt pháp lý nhưng trên thực tế khi đất đó chưa có người sử dụng thì bà B sẽ vẫn là người sử dụng trên thực tế. Khi hoa màu còn trên đất và là người sống nhờ sản xuất, bà B có thể vẫn tiếp tục canh tác, như vậy là vi phạm pháp luật về đất đai.
3.2.3. Giải pháp 3. Thu hồi diện tích 3.200 m2 đất của bà C, đồng thời công nhận toàn bộ diện tích hiện bà B đang sử dụng, trong đó có 129,25 m2 đất
Ưu điểm của phương án này là vừa giải quyết được tranh chấp đất đai vừa thể hiện được chính sách đúng đắn của Nhà nước đối với người có công khai khẩn đất hoang. Chấm dứt tình trạng người không sử dụng đất nhưng được Nhà nước giao đất, còn người thực sự có nhu cầu sử dụng đất thì lại không có đất để sản xuất.
Ngoại trừ diện tích đất bị thu hồi để quản lý, khi bà B được công nhận có quyền sử dụng mảnh đất này thì ông P không có cơ sở để đòi đất, chấm dứt tranh chấp đối với thửa đất. Trong khi đó, ông P làm nghề buôn bán nên rõ ràng không có nhu cầu sử dụng mảnh đất này để sản xuất. Việc không công nhận diện tích đất trên cho ông P thể hiện tính đúng đắn và công minh của pháp luật về đất đai.
Cách giải quyết này cũng sẽ làm cho nhân dân trên địa bàn tin tưởng vào chính quyền địa phương, vào chủ trương đúng đắn của Đảng và Nhà nước đối với sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn và nông dân.
3.3. Lựa chọn giải pháp
Trong các giải pháp trên, mỗi giải pháp đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Nếu lựa chọn giải pháp thứ nhất thì việc xử lý có ưu điểm là thống nhất quan điểm trong xử lý và quản lý đất đai giữa Uỷ ban nhân dân tỉnh KG và Uỷ ban nhân dân thị xã TH nhưng có nhược điểm là không bảo vệ được lợi ích của người đã có công khai hoang và sử dụng đất ổn định, lâu dài. Giải pháp thứ hai có ưu điểm là lập tức chấm dứt được tranh chấp giữa hai bên nhưng cũng có nhược điểm là tiềm ẩn khả năng vi phạm pháp luật của người sử dụng đất là bà C và gây nên bất mãn cho nhiều người. Vì vậy, tiểu luận lựa chọn giải pháp thứ ba là giải pháp tối ưu để xử lý tình huống trên.
Để thực hiện giải pháp thứ ba, cần thực hiện các bước sau:
Bước 1. Uỷ ban nhân dân tỉnh KG trả lời yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai của bà B
Để giải quyết dứt điểm tranh chấp và đảm bảo pháp chế trong thực hiện pháp luật về đất đai, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh KG uỷ quyền cho Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh KG phải trả lời yêu cầu giải quyết tranh chấp đất đai của bà B (bằng công văn trong thời gian 1 ngày làm việc) theo hướng Uỷ ban nhân dân tỉnh sẽ chỉ đạo Uỷ ban nhân dân thị xã HT giải quyết vụ việc theo đúng pháp luật, đồng thời bảo vệ quyền lợi cho người khai hoang, sử dụng đất ổn định, lâu dài.
Bước 2. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh KG chỉ đạo Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT giải quyết vụ việc theo trình tự sau:
* Huỷ quyết định cho mượn đất
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT ra quyết định (bằng văn bản) để huỷ bỏ quyết định cho bà C mượn đất sản xuất từ năm 2005. Quyết đinh này phải được lập thành văn bản, phải được gửi cho ông P 1 bản và cho Uỷ ban nhân dân xã TY 1 bản để lưu hồ sơ quản lý đất đai của địa chính xã.
* Huỷ Quyết định số 56/QĐ-UBND ngày 02 tháng 12 năm 2009
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT ra quyết định huỷ bỏ Quyết định số 56/QĐ-UBND ngày 02 tháng 12 năm 2009 đã công nhận diện tích 94,90 m2 (đo thực tế là 129,25 m2) thuộc quyền sử dụng của bà C. Quyết định này cũng phải được gửi cho ông P và địa chính của xã TY để quản lý, theo dõi.
* Thu hồi 3.200 m2 đất đã cho bà C mượn từ năm 2005
Uỷ ban nhân dân thị xã HT là cơ quan đã ra quyết định cho bà C mượn đất để sản xuất nhưng cũng đồng thời là cơ quan có thẩm quyền thu hồi đất trong các trường hợp do pháp luật quy định, trong đó có trường hợp của bà C sử dụng đất không có hiệu quả. Mặt khác, khi bà C chết đi, các con bà không tiếp tục sử dụng đất này thì cần phải thu hồi trả lại cho địa phương quản lý.
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT cần giao cho cán bộ địa chính của Phòng địa chính phối hợp với cán bộ địa chính xã TY tiến hành đo đạc chính xác diện tích đất, mô tả bằng sơ đồ, trong đó chú ý đo đạc phần diện tích đất của bà B để làm cơ sở giải quyết quyền lợi cho bà sau này. Việc đo đạc phải lập thành biên bản, có chữ ký của cán bộ địa chính xã, của cán bộ địa chính thuộc Phòng Địa chính thị xã HT. Những phần đất trên thực địa có liên quan đến quyền sử dụng đất của các hộ gia đình thì cần có sự kiểm tra lại của họ để kịp thời điều chỉnh có đúng.
Uỷ ban nhân dân thị xã HT cần cử cán bộ (thuộc Phòng Địa chính) quản lý đất đai tại địa bàn xã TY và cán bộ địa chính của xã TY gặp gỡ, giải thích cho gia đình ông P biết về quyết định thu hồi đất dựa trên cơ sở pháp lý rõ ràng để ông hiểu và thực hiện. Đồng thời, giải thích cho ông rõ, nếu hộ gia đình ông thực sự có nhu cầu sử dụng đất nông nghiệp để sản xuất thì có thể đề nghị Ủy ban nhân dân thị xã HT xem xét.
Hộ gia đình bà B thuộc trường hợp không có các loại giấy tờ theo quy định tại khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 nhưng đã sử dụng đất ổn định, lâu dài từ trước ngày 15/10/1993 nên có cơ sở để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
* Thực hiện các thủ tục để cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà B.
Để thực hiện các thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ở và đất sản xuất cho bà B, Uỷ ban nhân dân thị xã HT cần tiến hành các công việc sau:
- Kiểm tra lại quy hoạch đất đai để xác định việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà B là phù hợp với quy hoạch sử dụng đất tại địa phương.
- Yêu cầu Uỷ ban nhân dân xã TY làm việc cụ thể với ông P và bà B để giải quyết những khúc mắc giữa hai bên, thống nhất giữa các bên hoàn toàn không còn tranh chấp về đất đai. Lập biên bản thống nhất ý kiến của hai bên đã nhất trí hoà giải với nhau.
- Hướng dẫn bà B nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bà B cần phải nộp hồ sơ đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Uỷ ban nhân dân xã TY để chuyển cho văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất. Theo quy định thì hồ sơ xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất gồm đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, giấy tờ về quyền sử dụng đất quy định tại các khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật Đất đai năm 2003, nhưng bà B không có thì chỉ cần đơn đề nghị. Bà B cũng có thể lập văn bản để uỷ quyền cho con gái xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Uỷ ban nhân dân xã TY có trách nhiệm thẩm tra, xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B các vấn đề sau:
+ Tình trạng không có tranh chấp đất đai đối với thửa đất;
+ Nguồn gốc và thời điểm sử dụng đất của bà B;
+ Sự phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt;
+ Công bố công khai danh sách các trường hợp đủ điều kiện (trong đó có trường hợp của bà B) và không đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại trụ sở Uỷ ban nhân dân xã TY trong thời gian mười lăm (15) ngày;
+ Xem xét các ý kiến đóng góp đối với các trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (trong đó có trường hợp của bà B);
+ Gửi hồ sơ đến Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã HT;
- Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất cần phải thực hiện các công việc sau:
+ Kiểm tra hồ sơ; xác nhận vào đơn xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với trường hợp đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B;
+ Làm trích lục bản đồ địa chính hoặc trích đo địa chính thửa đất đối với nơi chưa có bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính;
+ Gửi hồ sơ đủ điều kiện cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B kèm theo trích lục bản đồ địa chính, trích sao hồ sơ địa chính đến Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã HT;
- Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã HT phải thực hiện các công việc sau:
+ Kiểm tra hồ sơ đăng ký cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B;
+ Trình Uỷ ban nhân dân thị xã HT quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà B.
Toàn bộ thời gian thực hiện các công việc trên không quá năm mươi lăm (55) ngày làm việc (không kể thời gian công bố công khai trường hợp xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của bà B) kể từ ngày Uỷ ban nhân dân xã TY nhận đủ hồ sơ hợp lệ cho tới ngày bà B nhận được giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Bước 3. Uỷ ban nhân dân thị xã HT tiến hành rút kinh nghiệm
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT cần tiến hành rút kinh nghiệm công tác quản lý đất đai trên địa bàn, có sự tham gia của cơ quan thanh tra, tài nguyên và môi trường, địa chính xã TY để đánh giá kết quả công tác quản lý nhà nước về đất đai từ năm 2005 đến nay, rút ra những hạn chế, nguyên nhân, bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý đất đai, đề ra biện pháp và phương hướng khắc phục trong thời gian tới.
Bước 4. Báo cáo Uỷ ban nhân dân tỉnh KG
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân thị xã HT cần lập báo cáo kết quả giải quyết tranh chấp đất đai của bà B và ông P theo chỉ đạo của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh KG.
Đồng thời, cần nghiêm túc kiểm điểm trách nhiệm tập thể và cá nhân trong giải quyết trường hợp tranh chấp giữa ông P và bà B; vấn đề cho phép mượn đất để sản xuất của bà C và những hạn chế trong công tác theo dõi, giám sát thực hiện pháp luật về đất đai trên địa bàn.
IV. KIẾN NGHỊ
Để công tác quản lý nhà nước về đất đai được thực hiện có hiệu quả, hạn chế các tranh chấp, vi phạm pháp luật về đất đai, tiểu luận kiến nghị một số vấn đề như sau:
4.1. Kiến nghị với Đảng
Tăng cường lãnh đạo công tác quản lý nhà nước về đất đai thông qua vai trò lãnh đạo Quốc hội, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn hoàn thiện các quy định pháp luật về đất đai. Tổ chức quán triệt và lãnh đạo triển khai thực hiện có hiệu quả các mục tiêu của của Nghị quyết 26-NQ/TW về nông nghiệp, nông dân, nông thôn tại các tổ chức cơ sở Đảng tại các cơ quan chức năng ở cả Trung ương và các địa phương. Cần đặc biệt quan tâm lãnh đạo các cấp chính quyền thực hiện đúng nguyên tắc tạo điều kiện cho nông dân ổn định đời sống và phải có đất để sản xuất, kiên quyết thu hồi đất đối với những trường hợp sử dụng đất nông nghiệp không đúng mục đích, sử dụng đất không có hiệu quả. Đặc biệt, phải giữ vững nguyên tắc: giải quyết các tranh chấp đất đai trong nhân dân trên tinh thần bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân, chính quyền phải nhận lấy những bất lợi về mình, tuyệt đối không gây mất niềm tin trong nhân dân, gây mất ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại địa phương.
4.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng
Đối với Chính phủ cần tách các quy định trong các nghị định quy định chi tiết thi hành Luật Đất đai ra thành các văn bản riêng như nghị định về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất; nghị định về thu hồi đất; nghị định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất; nghị định về giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai… để tạo cơ sở pháp lý có tính chuyên biệt, dễ dàng cho cơ quan áp dụng và nhân dân thực hiện.
Đối với Bộ Tài nguyên và Môi trường cần tích cực triển khai hướng dẫn các nghị định sát với thực tế. Đẩy nhanh tiến độ kiểm tra, rà soát tổng thể các loại quỹ đất trong nhân dân để chỉ đạo quy hoạch cho phù hợp. Xây dựng kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ địa chính cho các địa phương để nâng cao năng lực phục vụ yêu cầu quản lý hiệu quả đất đai và giải quyết các tranh chấp trong nhân dân.
Đối với chính quyền các địa phương cần tích cực tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong nhân dân các thủ tục pháp lý liên quan đến việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, đặc biệt là đất ở và đất sản xuất nông nghiệp để người dân chủ động đăng ký tại cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố cần đôn đốc cơ quan có thẩm quyền ở cấp huyện và cấp xã tích cực tổ chức, vận động nhân dân kê khai, đăng ký quyền sử dụng đất để tránh các tranh chấp phát sinh. Đồng thời, qua đó, các cấp chính quyền một lần nữa có điều kiện kiểm tra lại tính xác thực của các hồ sơ địa chính được lưu giữ tại cơ quan để kịp thời điều chỉnh cho khoa học, phù hợp với thực tế, đồng thời quản lý tốt quỹ đất để thực hiện các quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội tại từng địa phương.
V. KẾT LUẬN
Tranh chấp đất đai luôn là vấn đề có tính thời sự rất lớn, nhất là trong thời điểm hiện nay khi giá trị quyền sử dụng đất có những biến động tại nhiều địa phương trên phạm vi cả nước. Do nhiều nguyên nhân khác nhau, việc giải quyết tranh chấp tại nhiều địa phương có những diễn biến rất phức tạp, ảnh hưởng xấu đến việc quản lý, sử dụng đất nói riêng và gây những bất ổn nhất định đối với đời sống kinh tế - xã hội nói chung. Vì vậy, không chỉ có các cơ quan hành chính nhà nước được giao thẩm quyền giải quyết các tranh chấp đất đai mà Nhà nước còn trao trọng trách đó cho hệ thống cơ quan Toà án nhân dân. Điều đó cho thấy tính chất nghiêm trọng của các tranh chấp đất đai khi không được giải quyết một cách hợp lý. Trong khi đó, pháp luật về tranh chấp đất đai thời gian qua còn nhiều bất cập, hạn chế. Vì vậy, bên cạnh việc hoàn thiện pháp luật về đất đai cần nâng cao hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan chức năng, của toàn xã hội trong quản lý nhà nước về đất đai; đồng thời, mỗi công dân cũng cần xây dựng cho mình ý thức trách nhiệm trong quản lý loại tài sản đặc biệt này, tránh để nảy sinh các tranh chấp, góp phần duy trì ổn định xã hội để phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.




TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.     Ban chấp hành Trung ương Đảng, Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 về nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
2.     Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông tư liên tịch số 14/2008/TTLT-BTC-BTNMT ngày 31/01/2008 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
3.     Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 02/7/2007 hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
4.     Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số 187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần;
5.     Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 quy định bổ sung về việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai.
6.     Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nghị định số 88/2009/NĐ-CP ngày 19/10/2009 về cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất;
7.     Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật số 13/2003/QH11 ngày 26/11/2003 về đất đai;

8.     Uỷ ban nhân dân tỉnh Kiên Giang, Quyết định số 15/2010/QĐ-UBND ngày 12/5/2010 về việc ban hành quy định về trình tự, thủ tục, thời gian giải quyết thủ tục hành chính về đất đai; cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất trên địa bàn tỉnh Kiên Giang.

Bộ quy tắc ứng xử của công chức (phần cuối)

(tinhhuongquanlynhanuoc)-Trích từ “Bộ quy tắc ứng xử cho công chức cấp phường - kinh nghiệm Thành phố Hồ Chí Minh (do Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh biên soạnNhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật phát hành năm 2013. Tác giả Tiến sĩ Đỗ Thị Ngọc Lan).

>>Bộ quy tắc ứng xử của công chức (Phần 2)
>>Bộ quy tắc ứng xử của công chức (Phần 1)



Phần cuối:
Chương III
GIẢI PHÁP VÀ KHUYẾN NGHỊ ÁP DỤNG BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ CHO CÔNG CHỨC CẤP PHƯỜNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

I- ĐỀ XUẤT MỘT BẢN DỰ THẢO MẪU BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ CHO CÔNG CHỨC CẤP PHƯỜNG THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Trên cơ sở nghiên cứu so sánh các bản nội quy, bản quy tắc ứng xử được thu thập, tập hợp từ nhiều nguồn khác nhau và các ý kiến đóng góp bình luận, góp ý, có thể đề xuất một bản dự thảo của Bộ quy tắc ứng xử như sau:

UỶ BAN NHÂN DÂN ……


CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
              Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
           …, ngày   tháng   năm 20…

Bộ quy tắc ứng xử cho cán bộ, công chức …
(Ban hành kèm theo Quyết định số  /20… .QĐ-UBND ngày  /  /20…)

Điều 1. Quy định chung
Tất cả cán bộ, công chức, cán bộ không chuyên trách, lao động hợp đồng làm việc tại Ủy ban nhân dân… phải nghiêm túc và tự giác chấp hành Bộ quy tắc ứng xử này trong giờ làm việc tại trụ sở của Ủy ban nhân dân và các địa điểm công chức được giao công việc ngoài trụ sở Ủy ban nhân dân…
Điều 2. Thời gian làm việc
- Sáng từ 7 giờ đến 11 giờ. Chiều từ 13 giờ đến 17 giờ (tuỳ vào đặc điểm cơ quan).
- Trường hợp cán bộ, công chức đi công tác bên ngoài trụ sở Ủy ban nhân dân… phải được sự đồng ý của cấp trên trực tiếp và ghi rõ thời gian, địa điểm, nội dung công tác vào lịch công tác vào lịch công tác trên bảng đặt tại phòng làm việc.
Điều 3. Trang phục trong giờ làm việc tại trụ sở cơ quan
Đến cơ quan làm việc trang phục phải gọn gàng, nam giới phải mặc áo sơ mi, không được bỏ áo ngoài quần; nữ giới không được mặc áo không có tay, váy ngắn trên đầu gối; không được đi dép không có quai hậu. Cán bộ, công chức đeo thẻ tên theo quy định.
(Một phiên bản khác quy định chi tiết hơn như sau:
Cán bộ, công chức, lao động hợp đồng làm việc tại trụ sở Ủy ban nhân dân phải có trang phục gọn gàng, lịch sự, phù hợp với văn hóa nơi công sở. Nam giới phải mặc áo sơ mi có cổ gấp, quần tây hoặc quần vải kaki, áo bỏ vào trong quần, chân đi giày đen hoặc dép có quai hậu. Nữ giới phải mặc áo sơ mi, quần tây, quần kaki hoặc váy nhưng không ngắn trên đầu gối và đi dép có quai hậu. Cán bộ, công chức đeo thẻ tên theo quy định).
Điều 4. Thái độ làm việc
- Công chức khi được giao giải quyết các yêu cầu của cơ quan, đơn vị, tổ chức và của công dân không được từ chối các yêu cầu đúng pháp luật của người cần được giải quyết phù hợp với chức trách, nhiệm vụ được giao.
- Công chức không được làm mất, hư hỏng hoặc làm sai lệch hồ sơ, tài liệu liên quan đến yêu cầu của cơ quan, đơn vị, tổ chức và công dân khi được giao nhiệm vụ giải quyết.
- Công chức không được trốn tránh, đùn đẩy trách nhiệm.
- Công tâm, tận tụy, nhanh chóng, chính xác khi thi hành công vụ.
- Không móc ngoặc, thông đồng, tiếp tay làm trái các quy định để vụ lợi.
Điều 5. Giao tiếp khi thi hành công vụ
- Khi giao tiếp qua điện thoại phải xưng tên, địa chỉ cơ quan, đơn vị nơi công tác; trao đổi thông tin ngắn gọn, phải bảo đảm thông tin trao đổi đúng nội dung công việc mà cơ quan, đơn vị, tổ chức và công dân cần hướng dẫn, trả lời.
- Trong quan hệ giao tiếp khi thi hành nhiệm vụ, công vụ, phải có thái độ lịch sự, tôn trọng. Ngôn ngữ giao tiếp phải rõ ràng, minh bạch; không nói tục, nói tiếng lóng, quát nạt.
Giao tiếp với công dân
- Khi tiếp xúc với công dân phải vui vẻ, nhã nhặn, tận tình, lịch sự, giải quyết các yêu cầu của công dân theo đúng quy định của pháp luật.
- Thấu hiểu, chia sẻ và tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc của công dân.
- Tôn trọng, lắng nghe và tiếp thu ý kiến đóng góp của công dân.
- Trong khi thi hành công vụ, nếu phải để các công dân đến làm việc chờ đợi thì cần giải thích rõ lý do, nếu có sai sót thì phải xin lỗi công dân.
- Trong giờ làm việc công chức không được uống rượu, bia, hút thuốc lá hoặc các chất kích thích khác.
Điều 6. Quan hệ với đồng nghiệp
- Cấp dưới phải phục tùng sự phân công của cấp trên.
- Cấp trên phải hướng dẫn, trao đầy đủ quyền hạn, trách nhiệm và phương tiện làm việc cho cấp dưới.
- Tôn trọng, giúp đỡ, bảo vệ uy tín, danh dự của đồng nghiệp.
Điều 7. Quan hệ với công chúng, công dân trong và ngoài giờ làm việc
- Thực hiện tốt đời sống văn hóa mới nơi cư trú. Xây dựng gia đình văn hóa, hạnh phúc, hòa thuận.
- Không để người thân trong gia đình lợi dụng vị trí công tác của mình để làm trái các quy định của pháp luật.
- Gương mẫu thực hiện và vận động nhân dân thực hiện tốt chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, quy định của chính quyền địa phương. Chịu sự giám sát của tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể và nhân dân nơi cư trú. Tham gia sinh hoạt Tổ dân phố nơi cư trú.
- Thực hiện nếp sống  văn hóa, quy tắc, quy định nơi công cộng.
- Giữ gìn trật tự xã hội và vệ sinh nơi công cộng.
Điều 8. Điều khoản thi hành
1. Các trường hợp vi phạm quy định tại Bộ quy tắc ứng xử này, Ủy ban nhân dân phường sẽ xử lý theo quy định của pháp luật hiện hành.
2. Bộ quy tắc ứng xử này đã được thông qua tập thể cán bộ, công chức và lao động hợp đồng làm việc tại Ủy ban nhân dân phường. Đề nghị tất cả cán bộ, công chức và lao động hợp đồng nghiêm chỉnh và tự giác chấp hành Bộ quy tắc ứng xử này.
T/M. ỦY BAN NHÂN DÂN …..
Nơi nhận:
- TT. Đảng ủy – UBND …..;
- Các ban, ngành, đoàn thể;
- Lưu VT.
---------------------------------------------------------------------------------------------
II- ĐỀ XUẤT CÁC BẢN HƯỚNG DẪN QUY TẮC ỨNG XỬ RIÊNG CHO MỘT SỐ NHIỆM VỤ, TÌNH HUỐNG

Bên cạnh bản dự thảo mẫu Bộ quy tắc ứng xử cho công chức cấp phường ngắn gọn như trên, tùy thực tế từng cơ quan, có thể phổ biến thêm một số bản hướng dẫn quy tắc ứng xử cho một số chức danh công chức thực hiện một số nhiệm vụ hoặc ứng xử trong các tình huống khác nhau.
Ví dụ:
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử trong hội hợp.
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử giao tiếp qua điện thoại.
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử khi phát ngôn với báo chí.
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử khi có khách yêu cầu gặp lãnh đạo.
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử với công dân có thái độ nóng nảy, giận dữ.
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử đối với công chức làm việc thêm ngoài giờ, cộng tác cho cơ quan khác để thêm thu nhập.
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử dành cho bảo vệ cơ quan.
- Bản hướng dẫn quy tắc ứng xử của công chức khi tham gia các cuộc họp ở khu phố, tổ dân phố.
Các bản hướng dẫn quy tắc ứng xử này không nhất thiết ban hành dưới dạng một quyết định quy phạm, chủ yếu là lời khuyên đối với từng nhóm công chức trong từng nhóm công việc nhất định. Thủ trưởng cơ quan (Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường, Bí thư Đảng ủy phường) có thể trao đổi riêng, thảo luận với từng nhóm công chức về nội dung cụ thể của dự thảo các bản hướng dẫn quy tắc ứng xử trước khi thống nhất thành quy định chung.
III- LỒNG GHÉP VIỆC HỌC TẬP VÀ LÀM THEO TẤM GƯƠNG ĐẠO ĐỨC HỒ CHÍ MINH VỚI HỌC TẬP VỀ BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ
Khi đã có Bộ quy tắc ứng xử, tổ chức phải triển khai thực hiện các quy định của Bộ quy tắc ứng xử. Không thể chấp nhận Bộ quy tắc ứng xử chỉ là những quy định trên giấy, ai cũng biết nhưng không nhất thiết phải tuân theo. Muốn bảo đảm cho bộ quy tắc ứng xử được thực thi có hiệu quả, trước hết cần có sự cam kết chính trị mạnh mẽ của lãnh đạo tổ chức đối với những giá trị và nguyên tắc đã nêu trong bộ quy tắc. Cái mà ta gọi là sự quan tâm của lãnh đạo đó chính là sự cam kết chính trị, trước hết là sự nêu gương của cấp  trên, của cán bộ chủ chốt và đảng viên trong Ủy ban nhân dân phường, sự quan tâm, theo dõi, đôn đốc, kiểm điểm, phê bình của cấp trên đối với cán bộ, công chức phường vi phạm Bộ quy tắc ứng xử, cũng như sự động viên, khen thưởng, khuyến khích đối với những hành vi chấp hành tốt, những cán bộ, công chức nêu được tấm gương tốt về thực hiện.
Để phổ biến sâu rộng Bộ quy tắc ứng xử tới cán bộ, công chức phường, nên lồng ghép việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với học tập về Bộ quy tắc ứng xử. Hằng tuần, tại cuộc họp giao ban cơ quan phường cần tổ chức nói chuyện về tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, có kết hợp với việc liên hệ các quy định của Bộ quy tắc ứng xử, nêu gương người tốt, việc tốt trong cơ quan và nhắc nhở những trường hợp vi phạm quy định.
*
*        *
KẾT LUẬN

Bộ quy tắc ứng xử của cán bộ công chức, viên chức làm việc trong bộ máy chính quyền địa phương (Quyết định số 03/2007/QĐ-BNV ngày 26-02-2007 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ) được ban hành cách đây 6 năm nhưng việc cụ thể hóa các quy định chung của Bộ quy tắc ứng xử này cho từng cơ quan, tổ chức cụ thể chưa được nhiều. Phần lớn các cơ quan lấy nguyên chương, điều, câu chữ trong Bộ quy tắc ứng xử của Bộ Nội vụ áp dụng cho cơ quan mình, trong đó có nhiều quy định chung chung, không phù hợp với toàn cảnh địa phương và đặc thù của từng cơ quan. Tuy nhiên, các đề xuất đã nêu, từ việc đề nghị Ủy ban nhân dân cấp xã (phường) ban hành một văn bản quy phạm pháp luật kèm theo Bộ quy tắc ứng xử bao hàm các nội dung của việc xây dựng văn hóa tổ chức, nội quy và các bản quy tắc ứng xử, các bản hướng dẫn quy tắc ứng xử cho một số chức danh công chức làm một số nhiệm vụ hoặc ứng xử trong các tình huống khác nhau, đề xuất lồng ghép học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh với việc phổ biến, tuyên truyền và học tập Bộ quy tắc ứng xử còn mang tính chất định hướng chung. Cần có những khảo sát, nghiên cứu, chẩn đoán tổ chức sâu sắc hơn để Bộ quy tắc ứng xử thực sự đúng pháp luật, nhưng phải khả thi và phù hợp với từng cơ quan, đơn vị. Đó chính là các yếu tố quyết định sự thành công của Bộ quy tắc ứng xử đạt được mục tiêu “Xây dựng phong cách giao tiếp và ứng xử chuẩn mực của cán bộ, công chức khi thi hành nhiệm vụ, công vụ, trong quan hệ xã hội, bao gồm những việc phải làm hoặc không được làm nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách nhiệm của cán bộ, công chức, viên chức” như Bộ Nội vụ đã đề ra./.

NH (TH)