TIN LIÊN QUAN
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 15
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 15
MỤC LỤC
Trang
|
|
Lời nói đầu
|
|
1. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
|
|
1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tình huống
|
|
1.2. Mô tả tình huống
|
|
2. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
|
|
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống
|
|
2.2. Cơ sở lý luận
|
|
2.3. Phân tích diễn biến tình huống
|
|
2.4. Nguyên nhân xảy ra tình huống
|
|
2.5. Hậu quả của tình huống
|
|
3. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
|
|
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
|
|
3.2. Đề xuất phương án xử lý tình huống
|
|
3.3. Lựa chọn và tổ chức thực hiện phương án xử lý
tình huống
|
|
4. KIẾN NGHỊ
|
|
4.1. Kiến nghị đối với Đảng, Nhà nước
|
|
4.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng
|
|
5. KẾT LUẬN
|
|
TÀI LIỆU THAM KHẢO
|
LỜI NÓI ĐẦU
Rừng và đất
rừng nước ta chiếm hơn 60% tổng diện tích tự nhiên, là tài nguyên quý của quốc
gia, là bộ phận quan trọng của môi trường
sống, đồng thời cũng là một trong những
thế mạnh của miền núi và trung du, nơi có nhiều đồng bào dân tộc ít người sinh
sống, là địa bàn có vai trò rất trọng yếu đối với an ninh, quốc phòng,
kinh tế và văn hoá công cộng.
Trong những
năm qua Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật
về quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Ngành Nông nghiệp và phát triển
nông thôn, trong đó trực tiếp là lực lượng Kiểm lâm các cấp đã có nhiều cố gắng
thực hiện chủ trương, chính sách nói trên của Đảng và Nhà nước trong kinh doanh
phát triển nghề rừng; quản lý, bảo vệ rừng, quản lý lâm sản; đấu tranh với các
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này, góp phần xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng
và phát triển kinh tế, củng cố an ninh quốc phòng, phục vụ đời sống dân sinh cả
nước.
Tuy nhiên,
đối chiếu với yêu cầu, nhiệm vụ công tác quản lý, bảo vệ rừng, quản lý lâm sản
của Đảng, Nhà nước đặt ra, thì việc tổ chức thực hiện của ngành Nông nghiệp và
phát triển nông thôn, lực lượng Kiểm lâm và các cơ quan hữu quan trong những
năm qua còn nhiều hạn chế, nhất là chưa khống chế được các vi phạm pháp luật
khiến cho nạn phá rừng, đốt cây, cháy rừng, lấn rừng, khai thác rừng trái phép
diễn ra nghiêm trọng. Trong 5 năm qua, cả nước đã xảy ra 199.980 vụ vi phạm các
quy định của Nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng (bình quân mỗi năm xảy ra gần
40.000 vụ), trong đó hành vi vận chuyển lâm sản trái phép (bao gồm các loài
động, thực vật hoang dã quý hiếm được quản lý, bảo vệ theo Nghị định số
32/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ về quản lý thực vật rừng,
động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm) có số vụ vi phạm nhiều nhất với 112.571 vụ,
chiếm 62,5%. Tiếp đến là khai thác lâm sản và phá rừng trái phép 40.988 vụ,
chiếm 20,5%, còn lại là các vi phạm khác. Các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực
quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản đang là một thách thức lớn đối với công
tác quản lý nhà nước của các cơ quan chức năng từ trung ương đến các địa phương.
Để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và
quản lý lâm sản, một trong những biện pháp có tính cấp thiết hiện nay là phải
xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này. Vì vậy, xử lý vi
phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản là vấn đề
nghiên cứu có ý nghĩa lý luận và thực tiễn rất lớn hiện nay.
Với những lý
do trên, tôi lựa chọn vấn đề “Phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi
phá rừng theo quy định của pháp luật nhằm giáo dục ý thức trách nhiệm của cộng đồng
trong bảo vệ rừng ở địa phương hiện nay” làm nội dung cơ bản để viết bài
tiểu luận tình huống quản lý nhà nước.
1. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tình huống
QN là một tỉnh ven biển
thuộc vùng Nam Trung Bộ có 425.921 ha rừng, tỷ lệ che phủ đạt 40,9%; trữ lượng
gỗ của tỉnh khoảng 30 triệu m3. Diện tích rừng tự nhiên là 388.803
ha, rừng trồng là 37.118 ha. Rừng giàu ở QN hiện có có khoảng 10 nghìn ha, phân
bố ở các đỉnh núi cao, diện tích rừng còn lại chủ yếu là rừng nghèo, rừng trung
bình và rừng tái sinh, có trữ lượng gỗ khoảng 69 m3/ha. Do nhiều
nguyên nhân mà trong một vài năm gần đây, tỉnh QN trở thành một trong những điểm
nóng về tình trạng phá rừng, khai thác rừng trái phép khiến cho diện tích rừng
tự nhiên, rừng phòng hộ đầu nguồn, rừng đặc dụng bị suy giảm nghiêm trọng. Tuy
nhiên, số vụ vi phạm bị phát hiện và bị xử ký không nhiều khiến cho thực trạng
này ngày càng trở nên trầm trọng. Đâu là nguyên nhân của vấn đề và giải quyết
thực trạng đó như thế nào? Thông qua một tình huống vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản đã được phát hiện và xử
lý tại Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng huyện P, tỉnh QN, tiểu luận tiến hành phân
tích để làm rõ các vấn đề liên quan đến nguyên nhân, hậu quả của hành vi phá
rừng, khai thác lâm sản trái phép của nhân dân địa phương và đề ra biện pháp
giải quyết.
1.2. Mô tả tình huống
Vào hồi 8 giờ 30 ngày 25
tháng 7 năm 2010, trong khi tuần tra, kiểm soát trong vùng rừng thuộc phạm vi
quản lý, các kiểm lâm viên Nguyễn Văn K, Phạm Thanh P, Nguyễn Thế N của Trạm
kiểm lâm cửa rừng thuộc Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng huyện P phát hiện có khói
tại tiểu khu X thuộc rừng đặc dụng S nằm trên địa bàn xã T, huyện P, tỉnh QN.
Xác định có vấn đề mất an toàn tại vùng rừng này, các kiểm lâm viên liền lập
tức triển khai lực lượng để đến địa điểm đã xác định. Sau 30 phút luồn rừng,
các kiểm lâm viên đã phát hiện một số cây rừng đang cháy liền tiến hành các
biện pháp để dập lửa và điện về Trạm để xin chi viện. Khi kết hợp với lực lượng
đến tiếp ứng, đám cháy đã bị dập tắt. Qua đo đạc xác định diện tích rừng bị
cháy không lớn (300 m2). Các kiểm lâm viên đã lập biên bản ghi nhận
vụ việc. Qua các dấu vết để lại và kinh nghiệm trong phát hiện các vụ việc
tương tự, các kiểm lâm viên xác định nguyên nhân cháy là do nguồn lửa được sử
dụng để đốt tổ ong lấy mật. Để phát hiện và xử lý vi phạm, các kiểm lâm viên
lại tiếp tục bám theo dấu vết luồn sâu vào rừng.
Sau khi luồn rừng chừng 1
km, các kiểm lâm viên phát hiện một thanh niên to cao, khoẻ mạnh đang
dùng cưa tay để cắt các đoạn cây có phong lan rừng trên một diện tích đã bị
chặt phá. Gần đó là những nhùi lửa được dùng để đốt tổ ong và hiện
đang có 3 nhùi lửa cháy gần một tổ ong khá lớn. Thấy bị phát hiện, người thanh
niên bối rối dừng việc chặt cây lại, lúng túng thu dọn các công cụ, phương tiện
mang theo cùng số phong lan, mật ong đã được chằng lên xe mô tô định đi khỏi
hiện trường. Các kiểm lâm viên đã kiên quyết giữ đối tượng lại để lập biên bản xử
lý. Đối tượng đã có hành vi chống lại để hòng tẩu thoát, làm bị thương nhẹ kiểm
lâm viên K, nhưng do lực lượng kiểm lâm đông hơn nên đã bị bắt giữ.
Các kiểm lâm viên đã tiến
hành đo đạc xác định diện tích rừng bị chặt phá để lấy phong lan là 258 m2.
Tang vật tại hiện trường gồm có các công cụ đối tượng mang theo để chặt cây gồm
1 cưa tay, 2 dao, 10 m dây thừng, 1 mảnh linon (dùng để phục vụ cho việc lấy
mật ong), 5 nhùi lửa, 1 can nhựa loại 5 lít, 01 xe mô tô; 15 khúc cây có bám
phong lan rừng; 5 lít mật ong được đựng trong can.
Qua điều tra ban đầu của các
kiểm lâm viên thì đối tượng vi phạm là ZRơm H (20 tuổi; người dân tộc K’Tu; cư
trú tại xã T, huyện P, tỉnh QN). Mục
đích chặt cây của H là để lấy phong lan, mật ong về bán lấy tiền. Đám cháy
đã phát hiện lúc trước chính là do H dùng lửa đốt tổ ong để lấy mật gây ra. Các
cây bị phá và giống phong lan có trên các cây đó không thuộc loại thực vật rừng
nguy cấp, quý hiếm (có biên bản điều tra). Theo cách tính toán của các kiểm lâm
viên, số lượng gỗ bị chặt phá là 3,7 m3.
Các kiểm lâm viên K, P, N đã liên lạc với kiểm
lâm viên địa bàn Phùng Văn T đến hiện trường và xác định những lời khai của H
là đúng sự thật. T còn cho biết, H và gia đình sống nhờ nguồn lợi từ rừng như tìm
kiếm phong lan và mật ong để bán cho du khách. Kiểm lâm địa bàn xã và cộng tác
viên kiểm lâm đã nhiều lần nhắc nhở nhưng do không có nghề nghiệp nên H vẫn thường
xuyên vào rừng khai thác các sản vật của rừng để kiếm sống. Các kiểm lâm viên K
và P đã tiến hành lập biên bản vi phạm hành chính và yêu cầu H về Trạm kiểm lâm
cửa rừng để giải quyết.
2. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống
Mục tiêu phân tích tình
huống là nhằm làm sáng tỏ hành vi vi phạm của ZRơm H (từ nay viết tắt là H) theo
quy định của pháp luật hiện hành; xác định loại trách nhiệm pháp lý và mức độ
gánh chịu trách nhiệm pháp lý của H. Đồng thời, xác định rõ thẩm quyền, trình tự
xử lý của cơ quan kiểm lâm theo quy định của pháp luật. Thông qua đó tìm hiểu các
nguyên nhân, hậu quả, nhất là những nguyên nhân gắn với điều kiện sinh hoạt, phong
tục tập quán, luật tục của địa phương nơi H sinh sống, góp phần giải quyết một
cách thấu tình, đạt lý và xây dựng những giải pháp nhằm khắc phục những nguyên
nhân hạn chế dẫn đến vi phạm mà tình huống nêu ra.
2.2. Cơ sở lý luận
2.2.1. Nhận thức chung về vi phạm pháp luật trong lĩnh
vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản
Rừng là tài nguyên quý báu
của đất nước, có khả năng tái tạo, là bộ phận quan trọng của môi trường sinh
thái, có giá trị to lớn đối với nền kinh tế quốc dân, gắn liền với đời sống của
nhân dân và sự sống còn của dân tộc. Vì vậy, quản lý nhà nước đối với rừng và
đất trồng rừng là một bộ phận của công tác quản lý nhà nước về môi trường, có
vai trò quan trọng trong việc bảo vệ và phát triển rừng.
Để quản lý nhà nước về bảo
vệ và phát triển rừng, Nhà nước phải ban hành, tổ chức thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng, tích cực tuyên truyền,
phổ biến pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng; đồng thời, tăng
cường kiểm tra, thanh tra và xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát
triển rừng.
Bảo
vệ và phát triển rừng là nhiệm vụ của Nhà nước và của toàn dân, trong đó cơ
quan quản lý chức năng là Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn với lực lượng
kiểm lâm là nòng cốt. Khi phát hiện các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này,
lực lượng kiểm lâm cần nhanh chóng xác định đó là loại vi phạm nào: hành chính
hay hình sự để tiến hành các thủ tục xử lý theo quy định của pháp luật. Một
trong những vi phạm pháp luật thường xuyên phát sinh trong lĩnh vực bảo vệ và
phát triển rừng đó là các vi phạm hành chính.
Vi phạm hành chính trong lĩnh
vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản là hành vi do cá nhân, tổ chức
trong nước và nước ngoài (gọi chung là cá nhân, tổ chức) có hành vi vô ý hoặc
cố ý vi phạm các quy định của Nhà nước về quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý
lâm sản chưa gây thiệt hại hoặc đã gây thiệt hại đến rừng, lâm sản, môi trường
rừng nhưng chưa đến mức phải truy cứu trách nhiệm hình sự và theo quy định của
pháp luật bị xử phạt vi phạm hành chính.
Các vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý
lâm sản tuy mức độ nghiêm trọng thấp hơn so với tội phạm hình sự nhưng gây nên
hậu quả không nhỏ cho xã hội và về lâu dài là nguyên nhân chính làm phát sinh
tội phạm. Vì vậy, mọi vi phạm phát sinh trong lĩnh vực này phải được phát hiện
kịp thời và đình chỉ ngay. Người có thẩm quyền phải tiến hành xử phạt nhanh
chóng, công minh, đúng pháp luật; người vi phạm hoặc người giám hộ của người vi
phạm phải chịu trách nhiệm khắc phục hậu quả do hành vi vi phạm gây ra theo quy
định của pháp luật.
Như vậy, vấn đề nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý rừng có mối quan hệ
biện chứng với trật tự pháp luật (pháp chế xã hội chủ nghĩa). Tính tất yếu khách
quan của cơ sở lý luận nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý bộ máy nhà nước nói
chung, cơ quan bảo vệ rừng nói riêng được đề cập tại Nghị quyết số 17-TW ngày
1/8/2007 Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về: “Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu
lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước” do đó, ở mỗi chính quyền địa phương
(UBND và Cơ quan kiểm lâm) cần phải chủ động phân cấp, kiện toàn tổ chức, bố trí
cán bộ, công chức hợp lý,... nhằm thực hiện có hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước
về bảo vệ rừng ở địa phương có rừng theo chức năng, nhiệm vụ được phân công, phân
cấp.
2.2.2. Cơ sở pháp lý giải quyết vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản
Ngày 03 tháng 12 năm 2004,
Quốc hội ban hành Luật số 29/2004/QH11 về bảo vệ và phát triển rừng (gọi tắt là
Luật bảo vệ và phát triển rừng); trong đó quy định hai nhóm vấn đề là quản lý,
bảo vệ, phát triển, sử dụng rừng và quyền, nghĩa vụ của chủ rừng. Tại Điều 12
Luật bảo vệ và phát triển rừng quy định những hành vi bị nghiêm cấm gồm:
1. Chặt phá rừng, khai thác rừng trái phép.
2. Săn, bắn, bắt, bẫy, nuôi nhốt, giết mổ động vật rừng trái phép.
3. Thu thập mẫu vật trái phép trong rừng.
4. Huỷ hoại trái phép tài nguyên rừng, hệ sinh thái rừng.
5. Vi phạm các quy định về phòng cháy, chữa cháy rừng.
6. Vi phạm quy định về phòng, trừ sinh vật hại rừng.
7. Lấn, chiếm, chuyển mục đích sử dụng rừng trái phép.
8. Khai thác trái phép cảnh quan, môi trường và các dịch vụ lâm nghiệp.
9. Vận chuyển, chế biến, quảng cáo, kinh doanh, sử dụng, tiêu thụ, tàng
trữ, xuất khẩu, nhập khẩu thực vật rừng, động vật rừng trái với quy định của
pháp luật.
10. Lợi dụng chức vụ, quyền hạn làm trái quy định về quản lý, bảo vệ và
phát triển rừng.
11. Chăn thả gia súc trong phân khu bảo vệ nghiêm ngặt của khu rừng đặc
dụng, trong rừng mới trồng, rừng non.
12. Nuôi, trồng, thả vào rừng đặc dụng các loài động vật, thực vật không
có nguồn gốc bản địa khi chưa được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
13. Khai thác trái phép tài nguyên sinh vật, tài nguyên khoáng sản và
các tài nguyên thiên nhiên khác; làm thay đổi cảnh quan thiên nhiên, diễn biến
tự nhiên của rừng; làm ảnh hưởng xấu đến đời sống tự nhiên của các loài sinh
vật rừng; mang trái phép hoá chất độc hại, chất nổ, chất dễ cháy vào rừng.
14. Giao rừng, cho thuê rừng, chuyển đổi, chuyển nhượng, thừa kế, tặng
cho, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng rừng, giá trị rừng
sản xuất là rừng trồng trái pháp luật.
15. Phá hoại các công trình phục vụ việc bảo vệ và phát triển rừng.
16. Các hành vi khác xâm hại đến tài nguyên rừng, hệ sinh thái rừng.
Khoản 1 Điều 85 Luật bảo vệ và phát triển rừng cũng xác định: Người phá
rừng, đốt rừng, huỷ hoại tài nguyên rừng; khai thác rừng trái phép; săn, bắn,
bắt, bẫy, nuôi nhốt, giết mổ động vật rừng trái phép; mua bán, kinh doanh, vận
chuyển trái phép lâm sản hoặc vi phạm các quy định khác của pháp luật về bảo vệ
và phát triển rừng thì tuỳ theo tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý hành
chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.
Để xử phạt vi phạm hành
chính các hành vi vi phạm quy định về bảo vệ và phát triển rừng, ngày 03 tháng
12 năm 2009, Chính phủ ban hành Nghị định số 99/2009/NĐ-CP về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
Theo quy định tại Điều 79
Luật bảo vệ và phát triển rừng, kiểm lâm là lực lượng chuyên trách của Nhà nước
có chức năng bảo vệ rừng, giúp Bộ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp thực hiện quản lý nhà nước về bảo vệ rừng,
bảo đảm chấp hành pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Tổ chức và hoạt động
của lực lượng Kiểm lâm được tiến hành theo quy định tại Nghị định của Chính phủ
số 119/2006/NĐ-CP ngày 16/102006 về tổ chức và hoạt động của Kiểm lâm. Lực lượng
kiểm lâm thực hiện các nhiệm vụ, quyền hạn theo quy định tại Điều 80, 81 Luật
bảo vệ và phát triển rừng và Nghị định của Chính phủ số 119/2006/NĐ-CP. Trong đó,
lực lượng kiểm lâm có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát việc bảo vệ rừng, khai thác
rừng, sử dụng rừng, lưu thông, vận chuyển, kinh doanh lâm sản; đấu tranh phòng,
chống các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng; đồng thời có
quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng các biện pháp ngăn chặn hành vi vi
phạm hành chính, khởi tố, điều tra hình sự đối với những hành vi vi phạm pháp
luật về bảo vệ và phát triển rừng theo quy định của pháp luật về xử lý vi phạm
hành chính, pháp luật về hình sự và pháp luật về tố tụng hình sự. Trong xử phạt
vi phạm hành chính, lực lượng kiểm lâm thực hiện thẩm quyền theo quy định tại Điều
23 Nghị định của Chính phủ số 99/2009/NĐ-CP.
2.2.3. Đường lối, quan điểm xử lý
Đường
lối, quan điểm xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản là những vấn đề có tính nguyên tắc trong xác định mức
độ gánh chịu trách nhiệm pháp lý của người vi phạm và xử lý vi phạm của lực
lượng kiểm lâm. Thể hiện trên các nội dung cơ bản như:
Thứ nhất, mọi vi phạm hành chính đều phải được phát
hiện kịp thời và phải bị xử lý nhanh chóng, công minh, triệt để, mọi hậu quả
gây ra phải được khắc phục theo quy định của pháp luật.
Điều này
khẳng định, người có thẩm quyền xử phạt phải kịp thời phát hiện mọi hành vi vi
phạm, tránh tình trạng bỏ lọt vi phạm, không tìm ra được người vi phạm,... Phải
so sánh, đối chiếu hành vi diễn ra trên thực tế với hành vi do pháp luật quy
định để xác định sự thống nhất nếu không rất có thể dẫn đến sự nhầm lẫn trong
xác định hành vi vi phạm, kéo theo đó là áp dụng sai chế tài phạt. Đồng thời, phải
tiến hành xác định các tình tiết có liên quan, đánh giá đúng tính chất, mức độ
của vi phạm, hậu quả do vi phạm gây ra, sau đó phải thực hiện nhanh chóng các
thủ tục để quyết định xử phạt công khai, công bằng trên cơ sở xác định đầy đủ
vi phạm, không bỏ sót vi phạm. Khi quyết định xử lý không chỉ áp dụng chế tài
xử phạt chính mà còn phải áp dụng các biện pháp cần thiết mà pháp luật đã quy
định để khắc phục nhanh chóng, có hiệu quả các hậu quả do vi phạm hành chính
gây ra.
Thứ hai, phải áp dụng đúng chế tài do pháp luật quy
định nhưng cần căn cứ vào tính chất, mức độ vi phạm, các tình tiết có liên quan
đến nhân thân người vi phạm, các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hành
chính.
Khi
quyết định xử phạt người có thẩm quyền không chỉ căn cứ vào các hình thức xử
phạt, khung tiền phạt để xác định mức phạt mà còn phải căn cứ vào nhân thân
người vi phạm (tốt hay không tốt: thể hiện trong các mối quan hệ gia đình, láng
giềng, với cơ quan nhà nước, có hay không có tiền án, tiền sự…), các tình tiết
tăng nặng, giảm nhẹ trách nhiệm hành chính để quyết định mức phạt cho đúng pháp
luật và đảm bảo hợp lý, có tính giáo dục, thuyết phục cao. Không được vì bất cứ
lý do gì để bỏ lọt vi phạm không xử lý hoặc xử lý không đúng pháp luật: không
đúng về hình thức xử phạt, mức phạt, biện pháp khắc phục hậu quả; không đúng về
nội dung thẩm quyền của cá nhân tiến hành xử phạt; không đúng về trình tự, thủ
tục thực hiện trong quá trình xử phạt. Nhưng cũng phải đảm bảo tính nhân đạo
của Nhà nước xã hội chủ nghĩa với các trường hợp vi phạm do trình độ lạc hậu,
điều kiện kinh tế khó khăn…
Thứ ba, trong quá trình giải quyết vụ vi phạm phải kết
hợp hài hoà các biện pháp giáo dục, thuyết phục để nâng cao tính khả thi của
quyết định xử phạt.
Trong
quản lý nhà nước nói chung và quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng nói
riêng, thuyết phục là phương pháp cơ bản, chủ yếu. Vì vậy, song song với áp
dụng cưỡng chế hành chính phải tiến hành giáo dục, giải thích cho người vi phạm
biết về hành vi vi phạm, hậu qủa của hành vi đó, chế tài pháp luật được áp dụng
để xử lý vi phạm, người có thẩm quyền xử phạt, thủ tục xử phạt, các quyền và
nghĩa vụ của người vi phạm trong các giai đoạn khác nhau của xử phạt vi phạm
hành chính và kể cả sau khi xử phạt. Đối với đồng bào dân tộc thiểu số thì đây
là một biện pháp quản lý không thể coi nhẹ và phải được đặt lên hàng đầu. Có
như vậy, người vi phạm không chỉ nhận thức đúng mà còn có thái độ tích cực với
cơ quan có thẩm quyền xử phạt. Đồng thời, tránh được những nguy cơ chia rẽ, gây
mất đoàn kết giữa đồng bào dân tộc thiểu số với lực lượng kiểm lâm.
2.2.4. Kinh nghiệm xử lý, giải quyết những vụ vi phạm
hành chính tương tự
Từ thực tiễn giải quyết các
vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản
của lực lượng kiểm lâm trên địa bàn nói chung và của Hạt trưởng Hạt kiểm lâm
rừng đặc dụng (người đã có nhiều năm công tác trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ
rừng và xử lý các vi phạm hành chính) nói riêng thời gian qua đã đúc kết một số
kinh nghiệm trong xử lý, giải quyết các vi phạm về quản lý rừng, bảo vệ rừng và
quản lý lâm sản, đó là:
Thứ nhất, để giải quyết có
hiệu quả không chỉ áp dụng chế tài phạt nghiêm minh mà còn phải tổ chức chặt chẽ
các biện pháp để đảm bảo cho việc xử phạt như:
- Phải tổ chức lực lượng phù
hợp hoặc phối kết hợp nhanh chóng cùng cơ quan công an, quân đội để nhanh chóng
khống chế các hậu quả thực tế do vi phạm hành chính gây ra, đặc biệt là cháy
rừng, đốt rừng; tiến hành tạm giữ, bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành
chính bởi có không ít trường hợp đối tượng vi phạm tìm cách cướp lại tang vật,
phương tiện; thậm chí còn gây thương tích và xâm hại đến tính mạng của cán bộ,
nhân viên kiểm lâm;
- Tiến hành các thủ tục xử
phạt và xử lý tang vật, phương tiện một cách nhanh chóng, không để đối tượng bị
xử phạt có các hành động tiêu cực.
- Quản lý hồ sơ xử phạt
trong nội bộ lực lượng kiểm lâm và liên thông với các cơ quan có thẩm quyền xử
phạt khác để có các cơ sở pháp lý cần thiết cho việc xác định tính chất, mức độ
vi phạm làm căn cứ cho quyết định xử phạt bởi các vi phạm trong lĩnh vực này thường
có tình tiết tái phạm. Đồng thời, cũng cần tăng cường mối liên hệ với kiểm lâm địa
bàn xã và cộng tác viên kiểm lâm để xác định những đối tượng vi phạm nhiều lần
trong cùng lĩnh vực để áp dụng mức phạt tiền thích đáng; đảm bảo tính răn đe và
có biện pháp giáo dục, thuyết phục đối tượng không tái phạm.
Thứ hai, tăng cường các biện
pháp có tính mềm dẻo như giáo dục, thuyết phục, vận động, hỗ trợ các điều kiện
cần thiết để đối tượng vi phạm và gia đình họ (vốn sinh sống gắn bó với rừng)
hiểu được vai trò của công tác quản lý, bảo vệ rừng đối với môi trường sống,
đối với lợi ích kinh tế của Nhà nước, của xã hội và của chính nhân dân sinh
sống tại địa bàn. Chỉ kiên quyết xử lý những trường hợp vi phạm có tổ chức,
ngoan cố, chống đối, gây thiệt hại nghiêm trọng về rừng và tính mạng, sức khoẻ
của cán bộ, nhân viên kiểm lâm. Với các vi phạm do trình độ lạc hậu, do điều
kiện kinh tế khó khăn, do đồng bào dân tộc thiểu số thực hiện thì tích cực giáo
dục, thuyết phục, phối hợp với các cấp chính quyền để tạo điều kiện cho họ tham
gia trồng rừng, bảo vệ rừng, khai thác rừng theo quy định của pháp luật. Có như
vậy mới loại bỏ được nguyên nhân dẫn đến vi phạm, đồng thời huy động sức lực
của họ tham gia bảo vệ rừng.
2.3. Phân tích diễn biến tình huống
Từ các nội dung của tình
huống trên cho thấy: H đã thực hiện hành vi trái pháp luật về quản lý, bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản. Đối chiếu với các quy định pháp luật hiện hành thì các
hành vi của H là vi phạm hành chính. H đã thực hiện nhiều hành vi vi phạm hành
chính. Để xác định H đã thực hiện các vi phạm hành chính nào và phải bị xử lý
như thế nào hiện còn có nhiều quan điểm khác nhau.
* Quan điểm thứ nhất cho
rằng H đã thực hiện các hành vi sau:
- Đốt
lửa để lấy mật ong được quy định tại điểm d khoản 3 Điều 8 Nghị định số
99/2009/NĐ-CP có khung tiền phạt từ 2 triệu đến 3 triệu đồng;
- Hành
vi vi phạm các quy định của Nhà nước về phòng cháy, chữa cháy rừng gây cháy
rừng được quy định tại Điều 11 Nghị định số 99/2009/NĐ-CP. Với diện tích rừng
đặc dụng bị cháy dưới 1.000 m2 thì bị xử lý theo điểm d khoản 1 Điều
11 Nghị định 29/2009/NĐ-CP. Khung phạt tiền đối với hành vi này là từ 3 triệu
đồng đến 5 triệu đồng và còn bị buộc trồng lại rừng hoặc thanh toán chi phí
trồng lại rừng, buộc thanh toán chi phí chữa cháy rừng.
- Phá rừng trái pháp luật
(được quy định tại điểm d khoản 1 Điều 17 Nghị định số số 99/2009/NĐ-CP). Khung tiền phạt đối với hành vi này là từ 200.000
đồng đến 10.000.000 đồng. Ngoài ra người vi phạm còn bị tịch thu lâm sản; tịch
thu công cụ, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính; có thể bị buộc trồng
lại rừng hoặc thanh toán chi phí trồng lại rừng.
Quan
điểm này cũng cho rằng vì H thực hiện vi phạm nhiều lần nên cần áp dụng tình
tiết tăng nặng vi phạm nhiều lần trong cùng lĩnh vực (được quy định tại khoản 2
Điều 9 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm 2002) để xác định mức tiền phạt
cao hơn mức trung bình của khung tiền phạt.
Như
vậy, có thể xác định mức phạt đối với các hành vi vi phạm của H như sau:
- Hành
vi thứ nhất bị áp dụng phạt tiền 3.000.000 đồng;
- Hành
vi thứ hai bị áp dụng phạt tiền 5.000.000 đồng;
- Hành
vi thứ ba bị áp dụng phạt tiền 7 triệu đồng;
Tổng
hợp mức phạt chính là 15 triệu đồng.
* Quan điểm thứ hai cho rằng
H chỉ thực hiện các hành vi sau:
- Đốt
lửa để lấy mật ong;
- Khai thác rừng trái phép,
được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 18 Nghị định của Chính phủ số
99/2009/NĐ-CP. Đối với số lượng gỗ là 3,7m3 thì bị phạt tiền từ 30
triệu đồng đến 50 triệu đồng.
Quan
điểm này cũng cho rằng sau khi bị phát hiện, H có thực hiện hành vi chống lại
cán bộ kiểm lâm, vì vậy cần áp dụng tình tiết tăng nặng là tiếp tục thực hiện
hành vi vi phạm hành chính mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành
vi đó (được quy định tại khoản 8 Điều 9 Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính năm
2002) để xác định mức tiền phạt cao hơn mức trung bình của khung tiền phạt.
Như
vậy, có thể xác định mức phạt đối với các hành vi vi phạm của H như sau:
- Hành
vi thứ nhất bị áp dụng phạt tiền 3.000.000 đồng;
- Hành
vi thứ hai bị áp dụng phạt tiền 45.000.000 đồng;
Tổng
hợp mức phạt chính là 48 triệu đồng.
* Quan điểm thứ ba cho rằng
H thực hiện các hành vi vi phạm hành chính sau:
- Hành vi
vi phạm các quy định của Nhà nước về phòng cháy, chữa cháy rừng gây cháy rừng,
vì theo quy định tại khoản 4 Điều 3 và khoản 5 Điều 8 Nghị định số
99/2009/NĐ-CP không xử phạt hành vi đốt lửa để lấy mật ong mà chỉ xử phạt hành
vi vi phạm các quy định của Nhà nước về phòng
cháy, chữa cháy rừng gây cháy rừng.
- Phá rừng trái pháp luật,
vì theo quy định tại Điều 17 Nghị định số 99/2009/NĐ-CP
thì phá rừng trái pháp luật là hành vi của người chặt phá cây rừng hoặc các
hành vi khác gây thiệt hại đến rừng với bất kỳ mục đích gì mà không được phép
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Với diện tích rừng đặc dụng bị chặt phá là
dưới 300 m2 thì H bị xử phạt theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều
17 (có khung tiền phạt từ 200.000 đồng
đến 10.000.000 đồng và bị tịch thu lâm sản; tịch thu công cụ, phương tiện sử
dụng để vi phạm hành chính; có thể bị buộc trồng lại rừng hoặc thanh toán chi
phí trồng lại rừng.
Quan
điểm này cho rằng H không thực hiện hành vi khai thác rừng trái phép vì H không
lấy gỗ mà chỉ lấy phong lan. Việc H chặt cây để lấy phong lan không thể coi đó
là hành vi khai thác rừng trái phép, bởi các loại thực vật rừng (phong lan) do
H khai thác không thuộc các khách thể xâm hại theo quy định tại Điều 18 Nghị
định số 99/2009/NĐ-CP.
- Hành
vi chống lại người thi hành công vụ, được quy định tại điểm a khoản 3 Điều 7
Nghị định của Chính phủ số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 về xử phạt vi phạm
hành chính trong lĩnh vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội. Khung tiền phạt
được xác định với hành vi này là từ 1 triệu đồng đến 2 triệu đồng.
Thương
tích gây ra cho kiểm lâm viên K thì H phải bồi thường theo quy định của Bộ luật
dân sự năm 2005.
Quan
điểm này cũng cho rằng vi phạm của H có cả các tình tiết tăng nặng (theo khoản
2 và khoản 8 Điều 9 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002) và tình tiết
giảm nhẹ như vi phạm do trình độ lạc hậu, vi phạm vì hoàn cảnh đặc biệt khó
khăn mà không do mình gây ra, người vi phạm đã tự nguyện khai báo (được quy
định tại điểm b, e, g Điều 8 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002). Vì
vậy, không áp dụng tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ để quyết định mức phạt đối
với các hành vi vi phạm của H.
Như
vậy, có thể xác định mức phạt đối với các hành vi vi phạm của H như sau:
- Hành
vi thứ nhất bị áp dụng phạt tiền 4.000.000 đồng;
- Hành
vi thứ hai bị áp dụng phạt tiền 5.100.000 đồng;
- Hành
vi thứ ba bị áp dụng phạt tiền 1.500.000 đồng;
Tổng
hợp mức phạt chính là 10.600.000 đồng.
2.4. Nguyên nhân xảy ra tình huống
2.4.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, về điều kiện kinh tế - xã hội.
Quy luật cung cầu về các
loại lâm sản, động thực vật rừng trên thị trường ở nước ta hiện nay rất lớn đã
tạo ra những yếu tố tiêu cực. Để phục vụ cho một bộ phận những người có tiền mà
không ít người dân, đặc biệt là những người sống gần rừng, các khu bảo tồn
thiên nhiên đã không quản ngại chặt phá cây rừng, đốt lửa trong rừng để khai
thác các sản vật dẫn đến diện tích rừng ngày càng bị thu hẹp, nhiều động thực
vật rừng bị huỷ diệt, trong đó có cả các loài thuộc loại quý hiếm. Trong khi
đó, việc gây giống và phát triển hệ thực vật, động vật của rừng còn nhiều hạn
chế. Việc khai thác không đi liền với việc phát triển. Đây chính là nguyên nhân
khách quan cơ bản nhất do mặt trái của nền kinh tế thị trường đem lại.
Đời sống nhân dân vùng có rừng còn
nhiều khó khăn dẫn đến người dân phải phá rừng để mưu sinh. Quyền
lợi của các chủ rừng trong quản lý, khai thác và phát triển rừng chưa thoả đáng
khiến họ không mấy quan tâm đến rừng và bảo vệ rừng. Một bộ phận không nhỏ người dân
sống xung quanh các khu bảo tồn thiên nhiên, các vùng rừng chưa có nghề nghiệp
ổn định, chưa được giao đất trồng rừng, quản lý rừng và thường dựa vào các
nguồn lợi tự nhiên từ rừng mang lại để kiếm sống nên việc vi phạm của nhân dân
trong vùng là thường xuyên và có hệ thống, bởi nếu không vào rừng, không kiếm
các nguồn lợi từ rừng về nuôi sống gia đình thì họ chẳng còn biết làm gì khác.
Bên cạnh đó, phong tục tập
quán sinh sống, canh tác và sản xuất của một bộ phận rất lớn người dân sống gần
rừng, nhất là đồng bào các dân tộc thiểu số còn lạc hậu. Có nhiều luật tục tồn
tại rất lâu và khó xoá bỏ được như việc đốt rừng làm nương, rẫy, canh tác; lối
sống du canh du cư; săn bắn muông thú…Điều này khiến cho không ít đồng bào coi
thường, thậm chí hiểu không đúng công tác quản lý, bảo vệ rừng của các lực
lượng chức năng nên không nghe, không làm và không phối hợp với kiểm lâm trong
quản lý, bảo vệ rừng.
Thứ hai, năng lực quản lý và bảo vệ
rừng của nhiều chủ rừng và cơ
quan chức năng.
Hiện nay, lực lượng bảo vệ rừng chưa kiểm soát nổi tình hình ở một số
nơi; công tác kiểm tra, kiểm soát, tuần tra, phát hiện và xử lý vi phạm chưa được
tiến hành thường xuyên; trách nhiệm quản lý Nhà nước về lâm nghiệp của các địa
phương chưa được thực hiện một cách đồng bộ, toàn diện và triệt để, trong đó
công tác quy hoạch đất lâm nghiệp chưa ổn định. Ở QN rừng và đất rừng rất lớn
(677.783 ha, chiếm 65,1% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh, là 1 trong 8 địa
phương có diện tích rừng lớn nhất nước), địa hình lại phức tạp, núi non hiểm
trở, giao thông đi lại khó khăn, trong khi phương tiện phục vụ cho khâu “tác
chiến” của lực lượng kiểm lâm còn quá lạc hậu, thiếu thốn nên việc “tóm cổ” và xử lý lâm tặc là vấn đề rất khó khăn. Do
thuận lợi về sông ngòi nên các hành vi phá rừng ngày càng tăng, các đối tượng
vi phạm có điều kiện thuận lợi để tẩu tán gỗ và các loại lâm sản bằng đường
sông trong khi phương tiện phục vụ kiểm soát, bắt giữ, xử lý của lực lượng kiểm
lâm còn hạn chế nên thường chỉ “vuốt đuôi” lâm tặc.
Thứ ba, thể
chế pháp lý về bảo vệ rừng và chế tài pháp luật còn nhiều bất cập.
Các quy định pháp luật về
quản lý, bảo vệ rừng, phát triển rừng còn chung chung, chưa gắn với việc tổ
chức có hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ rừng của các cơ quan chức năng, đặc
biệt là chính quyền địa phương, chưa gắn với việc phát huy tinh thần đoàn kết
của nhân dân, cấu kết lợi ích giữa nhà nước và người dân. Vì vậy, đại bộ phận
người dân đứng ngoài cuộc, không tham gia phối hợp với Nhà nước trong quản lý,
bảo vệ rừng và phát triển rừng. Với các chủ rừng, người trồng rừng, những người
dân sống xung quanh rừng chưa được Nhà nước quan tâm đến các lợi ích của họ
bằng việc tạo các điều kiện để họ có đất sản xuất, trồng rừng, hỗ trợ về giống,
về kỹ thuật canh tác, các kiến thức, kỹ thuật về bảo vệ rừng, phòng cháy, chữa
cháy…khiến phần lớn người dân sống xung quanh rừng lấy rừng là nơi tự nhiên
cung cấp sản vật cho cuộc sống của họ. Vì mưu sinh họ phải phá rừng và phá rừng
bằng mọi cách.
Chế tài pháp
luật, đặc biệt là chế tài hành
chính đối với các hành vi vi phạm trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và
quản lý lâm sản còn chưa đầy đủ, nhiều hành vi trái pháp luật về quản lý,
bảo vệ rừng, gây thiệt hại đến rừng nhưng chưa được thể chế hoá trong Nghị định
số 99/2009/NĐ-CP. Các khung xử phạt còn quá rộng khiến việc áp dụng mức phạt cụ
thể không cao nên
chưa đủ sức răn đe các hành vi vi phạm khi lợi ích kiếm được từ việc phá rừng
và vi phạm các quy định của pháp luật về quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý
lâm sản lớn hơn rất nhiều. Đặc biệt, với các hậu quả do vi phạm gây ra việc áp
dụng các biện pháp khắc phục còn chưa mang tính triệt để, thể hiện ở quy định
“có thể” áp dụng biện pháp này hoặc biện pháp khác. Ví dụ: hành vi phá rừng
theo khoản 1 Điều 17 Nghị định của Chính phủ số 99/2009/NĐ-CP quy định là từ
200.000 đồng đến 10.000.000 đồng, nên mức tiền phạt trung bình là 5.100.000 đồng.
Bên cạnh đó, các quy định pháp luật hiện nay chưa xác định rõ trách nhiệm của
chính quyền địa phương, các cấp, các ngành, lực lượng kiểm lâm khi không hoàn
thành chức năng, nhiệm vụ trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng.
Thứ tư, sự
ứng dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật tiên tiến trong quản lý, bảo vệ rừng còn
hạn chế.
Quản lý, bảo vệ rừng hiện
nay là một trong những lĩnh vực ít được đầu tư khoa học, công nghệ, kỹ thuật
nhất. Các lực lượng chức năng không được trang bị các phương tiện cần thiết để
quản lý rừng như camera quan sát, các thiết bị phát hiện hành vi đột nhập vào
những vùng rừng cấm khai thác, các thiết bị cảnh báo cháy rừng và phòng cháy,
chữa cháy rừng…Vì vậy, công tác quản lý, bảo vệ rừng và xử lý vi phạm gặp không
ít khó khăn do điều kiện đường rừng, có khi lực lượng chức năng đến thì đối
tượng vi phạm đã rời khỏi hiện trường mà không biết được đối tượng đó là ai.
Thứ năm, chính sách đãi ngộ đối với lực lượng kiểm lâm còn chưa tương
xứng với tính chất công việc được giao.
Cán bộ kiểm lâm được hưởng các
chế độ về lương theo thang bảng lương áp dụng cho cán bộ, công chức nhà nước
nói chung và được hưởng phụ cấp ưu đãi, nhưng về cơ bản vẫn chưa đảm bảo thu
hút được những người có năng lực, trình độ tham gia. Đặc biệt là với chế độ, chính
sách còn hạn chế khiến nhiều kiểm lâm không nhiệt huyết với công việc, với công
tác đấu tranh và xử lý vi phạm pháp luật, trong khi các “lâm tặc” thì ngày càng
“lộng hành”, có đối tượng sẵn sàng sử dụng vũ khí nóng để xâm hại đến tính
mạng, sức khoẻ của kiểm lâm viên, đe doạ và trả thù họ và gia đình họ. Chính
sách đãi ngộ không thoả đáng cũng khiến một bộ phận kiểm lâm viên tiếp tay cho
lâm tặc phá rừng, khai thác rừng trái phép.
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất,
năng lực, phẩm chất của một bộ phận không nhỏ đội ngũ cán bộ kiểm lâm chưa
tương xứng với nhiệm vụ được giao.
Các cán bộ kiểm lâm không chỉ là
những người quản lý rừng mà còn là những người trực tiếp tham gia vào các hoạt
động bảo vệ rừng, phát triển rừng. Vì vậy, họ cần có các kiến thức chuyên môn
về quản lý, các kiến thức về rừng, hiểu về vai trò, tác dụng, đặc tính của từng
loại rừng, động thực vật rừng, các kiến thức pháp lý trong xử lý các sai phạm,
các kỹ năng mang tính nghiệp vụ khác…Đồng thời, họ phải có sức khoẻ tốt để có
thể thường xuyên thực hiện công tác tuần tra, kiểm soát trong điều kiện đường
đi lại còn chưa thuận lợi ở hầu hết các vùng rừng hiện nay, đồng thời có thể
“chiến đấu” với lâm tặc phá rừng. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế và các yếu tố
môi trường nơi sinh sống mà sức khoẻ của cán bộ kiểm lâm còn chưa đảm bảo được
yêu cầu. Mặt khác, họ ít được quan tâm để đào tạo, bồi dưỡng các kiến thức
chuyên môn, kỹ năng cần thiết cho công việc. Điều này đã hạn chế rất lớn đến
kết quả thực thi công vụ của lực lượng kiểm lâm.
Sự thiếu tinh thần đấu tranh với
các vi phạm hành chính của không ít kiểm lâm viên và kiểm lâm địa bàn xã, cộng
tác viên kiểm lâm hiện nay cũng bắt nguồn từ chế độ, chính sách đối với lực lượng
kiểm lâm, các phương tiện, công cụ phục vụ cho thực thi công vụ của lực lượng
này còn quá hạn chế, chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao nên chưa tạo nên
lòng nhiệt huyết và trách nhiệm đối với công việc.
Thứ hai,
tinh thần trách nhiệm của chính quyền địa phương có rừng.
Chính quyền xã có rừng ở không ít
nơi, trong đó có xã T còn thiếu tinh thần trách nhiệm trong công tác quản lý
rừng, bảo vệ rừng, quản lý lâm sản. Có nơi lâm nghiệp xã để xảy ra tình trạng
phá rừng với diện tích lớn mà không biết. Thậm chí các địa phương còn để xảy ra
tình trạng các đối tượng phá rừng mắc võng “đóng đô” trước trạm kiểm soát lâm
sản của ngành kiểm lâm để theo dõi hoạt động của các kiểm lâm viên nhưng không
thấy địa phương kiểm tra, xử lý... Thậm chí, nhiều cán bộ chính quyền cơ sở vì
lợi ích của cá nhân đã tiếp tay cho các hành vi khai thác rừng trái phép, phá
rừng, không thực hiện đúng các chính sách của Nhà nước đối với người trồng rừng
và các chủ rừng, không tạo các điều kiện thuận lợi cho họ để tham gia sản xuất,
trồng rừng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rừng, thuê đất trồng
rừng để họ yên tâm sản xuất. Vì vậy, dẫn đến nhiều vi phạm trên chính địa bàn
do chính nhân dân địa phương thực hiện. Khi xảy ra các thiệt hại về rừng thì
không giám đứng ra nhận trách nhiệm, đổ lỗi cho người dân, cho lực lượng kiểm
lâm.
Thứ ba, ý
thức trách nhiệm của người dân đối với vấn đề bảo vệ và phát triển rừng.
Tư duy hám lợi là phổ
biến ở đại
bộ phận quần chúng nhân dân sinh sống ở gần rừng. Họ coi các nguồn lợi của rừng
là vô tận và tìm cách lấy về để dùng, để sinh nhai và để buôn bán, làm giàu. Đồng
thời, với các vi phạm xảy ra, không chỉ do người của xã mà do những kẻ khác đến
để phá rừng, khai thác rừng và sản vật rừng trái phép họ cũng không quan tâm,
không đấu tranh hoặc sợ đấu tranh thì sẽ mang vạ vào thân bởi sợ “lâm tặc” sẽ
trả thù. Ý thức về bảo vệ rừng, cũng tức là bảo vệ môi trường sống của người dân
còn nhiều hạn chế, họ chưa thấy được những tác hại của hành vi phá rừng, huỷ
hoại rừng, các động thực vật rừng đối với tương lai của đất nước và của chính
họ. Vì vậy, người dân là chủ thể trồng rừng, bảo vệ rừng thì ít mà phá rừng,
tiếp tay cho phá rừng thì nhiều.
2.5. Hậu
quả của tình huống
2.5.1. Về phía xã hội
Hậu quả của hành vi phá rừng, đốt
lửa trong rừng khiến cho rừng có khả năng bị cháy sẽ làm cho diện tích rừng
ngày càng bị thu hẹp, ảnh hưởng nghiêm trọng đến môi trường sống của các loài động
vật, thực vật và chính con người. Tài nguyên rừng bị giảm sút, môi trường
sinh thái bị tác động xấu về nhiều mặt. Việc
khai thác lan rừng, lấy mật ong đã gây ảnh hưởng khá nghiêm trọng đến môi
trường, đa dạng sinh học của rừng… Vì để lấy được cây phong lan, người vi phạm
phải chặt cành, đốn cây theo lối “triệt phá” khiến rừng bị xâm hại nghiêm
trọng, các nguồn cây quý hiếm như nghiến, đinh, gụ... đang bị mất dần. Việc đốt
lửa để đuổi ông khỏi tổ có thể gây ra cháy rừng lớn mà việc huy động lực lượng,
phương tiện và nguồn nước để dập tắt lửa vẫn là vấn đề khó khăn trong chữa cháy
rừng hiện nay ở nước ta.
Phá rừng và cháy rừng ảnh hưởng
nghiêm trọng đến chất lượng sống, đến sức khỏe của con người trong hiện tại và
nhiều thế hệ trong tương lai. Mất rừng khiến cho nhiều nguồn gien quý hiếm về động
thực vật rừng bị mất đi, lượng sinh khối giảm (nếu như tất cả thực vật trên
trái đất tạo ra 53 tỷ tấn sinh khối (ở trạng thái khô tuyệt đối là 64%) thì rừng
chiếm 37 tỷ tấn tương ứng với 70%); giảm lượng dưỡng khí phục vụ cho hô hấp nên
ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khoẻ của con người và các giống loài khác.
Sự mất đi của rừng ảnh hưởng
nghiêm trọng đến đời sống con người bởi khi rừng bị mất đi thì khả năng điều
hoà khí hậu, nhiệt độ, tạo ô xy, điều hoà nước sẽ không còn, đất cũng bị xói
mòn, bạc màu, thậm chí lở đất, gây lũ ống, lũ quét… Các vi phạm còn trực tiếp
ảnh hưởng đến lợi ích chính đáng của người trồng rừng.
2.5.2. Về phía Nhà nước
Các vi phạm pháp luật về quản lý
rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản nói chung, các hành vi phá rừng, đốt rừng
nói riêng nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ gây thiệt hại lớn về kinh tế cho
Nhà nước. Rừng là tài nguyên của quốc gia, được phát triển qua nhiều thế hệ để
phục vụ cho các nhu cầu trong nước và xuất khẩu. Việc khôi phục rừng cần nhiều
thời gian, công sức và cả chi phí lớn, đối với các hệ rừng tự nhiên, rừng
nguyên sinh, hệ thực vật, động vật trong rừng khó hoặc không thể bảo tồn và tái
tạo lại được.
Các vi phạm còn khiến cho Nhà nước
phải đầu tư cho xây dựng lực lượng quản lý, bảo vệ rừng; đầu tư các phương
tiện, kinh phí phục vụ công tác quản lý rừng, bảo vệ rừng, quản lý lâm sản và
xử lý vi phạm. Diện tích rừng mất đi ảnh hưởng đến cuộc sống của con người như
thiên tai, lũ lụt, lũ quét, lũ ống, sa mạc hoá, xói mòn đất, đất bạc màu…khiến
nhà nước phải tăng các chi phí cho phòng chống thiên tai, thảm hoạ, hỗ trợ đời
sống cho nhân dân và trồng mới rừng. Điều này làm gia tăng theo cấp số nhân các
nhiệm vụ của nhà nước. Mất rừng còn làm cho nhà nước bị thất thu từ các hoạt động
du lịch.
3. XỬ LÝ
TÌNH HUỐNG
3.1. Mục
tiêu xử lý tình huống
Mục tiêu của việc xử lý tình
huống trên là nhằm đảm bảo đạt được các vấn đề sau:
- Đảm bảo tính nghiêm minh
của pháp luật trong
xử lý hành vi vi phạm quy định về quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
- Nâng cao nhận thức về pháp
luật, về vai trò và tác dụng của rừng đối với con người, nhất là đối với cuộc
sống của nhân dân ở vùng có rừng.
- Làm cho người dân xung
quanh khu vực có rừng, người trồng rừng, các chủ rừng nhận thức đúng đắn về
công tác quản lý, bảo vệ rừng của lực lượng kiểm lâm và phối hợp với lực lượng
kiểm lâm trong quản lý, bảo vệ rừng, không vi phạm pháp luật, trở thành “tai,
mắt” của lực lượng kiểm lâm trong đấu tranh với lâm tặc.
3.2. Đề
xuất phương án xử lý tình huống
Để xử lý tình huống trên, tiểu
luận đề xuất một số phương án cụ thể như sau:
3.2.1. Phương án 1. Xử phạt vi phạm hành chính đối
với H theo quan điểm thứ 3,
trong đó áp dụng tình tiết tăng nặng theo quy định tại khoản
2 và khoản 8 Điều 9 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002
Điểm mạnh của phương án này là áp
dụng các chế tài mang tính
trừng phạt đối với hành
vi vi phạm hành chính của H và khắc phục một phần các hậu quả do vi phạm hành
chính đó gây ra, đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật. Chính sự nghiêm khắc
của chế tài sẽ có tác dụng đến nhận thức của H và gia đình, những người xung
quanh khiến cho họ hiểu rằng sự vi phạm những quy định của Nhà nước, xâm phạm
đến tài nguyên rừng sẽ phải gánh chịu những hậu quả bất lợi cả về vật chất,
tinh thần. Điều này còn có tác dụng phòng ngừa vi phạm từ phía các cá nhân khác
trong cộng đồng. “Sợ” bị áp dụng chế tài phạt (đánh vào lợi ích kinh tế) sẽ
khiến các đối tượng không dám tiếp tục thực hiện vi phạm.
Như
vậy, các vi phạm hành chính của H có thể bị xử phạt như sau:
- Hành
vi thứ nhất bị áp dụng phạt tiền 4.500.000 đồng; buộc trồng lại rừng hoặc thanh
toán chi phí trồng lại rừng, buộc thanh toán chi phí chữa cháy rừng.
- Hành
vi thứ hai bị áp dụng phạt tiền 7.000.000 đồng; bị tịch thu lâm sản (toàn bộ 15 khúc
cây có bám phong lan rừng; 5 lít mật ong);
tịch thu công cụ, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính (gồm 1 cưa
tay, 2 dao, 10 m dây thừng, 1 mảnh linon (dùng để phục vụ cho việc lấy mật ong),
5 nhùi lửa, 1 can nhựa loại 5 lít, 01 xe mô tô); có thể bị buộc trồng lại rừng hoặc thanh toán chi phí trồng lại rừng.
- Hành
vi thứ ba bị áp dụng phạt tiền 1.800.000 đồng;
Tổng
hợp mức phạt chính là 13.300.000 đồng.
Tuy nhiên, phương án này có yếu
điểm là không có tính khả thi khi điều kiện kinh tế của H không thể đảm bảo thực
thi được quyết định xử phạt, nếu áp dựng cưỡng chế bằng biện pháp tịch thu tài
sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá thì cũng rất khó, vì H
đang còn sống phụ thuộc gia đình, chưa có tài sản riêng. Mặt khác, việc thực
hiện cưỡng chế sẽ ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ giữa đồng bào dân tộc thiểu
số ở địa bàn với lực lượng kiểm lâm nói riêng và với chính quyền địa phương,
với Nhà nước nói chung. Nguy cơ chia rẽ, mất đoàn kết giữa nhân dân và lực
lượng kiểm lâm có thể xảy ra. Sự bất mãn cũng sẽ nảy sinh và có thể hướng người
dân đến các hành động tiêu cực, đặc biệt là tiếp tục phá rừng, đốt rừng, xâm
hại đến động thực vật của rừng. Mặt khác, có thể khiến nhân dân hiểu sai đường lối
và chính sách của Đảng, Nhà nước ta đối với đồng bào dân tộc thiểu số.
3.2.2. Phương án 2. Xử phạt vi phạm hành chính theo
quy định của pháp luật nhưng có áp dụng các tình tiết giảm nhẹ, gắn với tuyên
truyền, giáo dục và tạo điều kiện cho H chấp hành quyết định xử phạt
Z’Rơm H là người dân tộc K’Tu sinh
sống gần rừng có trình độ nhận thức thấp, hành vi bị ảnh hưởng bởi nhiều phong
tục tập quán lạc hậu, điều kiện kinh tế lại khó
khăn, khi đã hiểu ra thì thành thật hối lỗi và tự nguyện khai báo. Đây là những
căn cứ để có thể áp dụng tình tiết giảm nhẹ trong áp dụng mức phạt đối với H theo quy
định tại Điều 8 của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002.
Ưu điểm của phương án này là
vừa tiến hành xử phạt để thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, thái độ, sự
phản ứng theo hướng tiêu cực của Nhà nước đối với hành vi vi phạm hành chính của
H, vừa thể hiện tính nhân đạo trong áp dụng pháp luật.
Theo nguyên tắc, khi có tình
tiết giảm nhẹ thì mức tiền phạt có thể giảm xuống nhưng không giảm quá mức tối
thiểu, vì vậy đối với các vi phạm của H có thể xác định các hình thức xử phạt
chính như sau:
- Hành
vi thứ nhất bị áp dụng phạt tiền 3.000.000 đồng; buộc trồng lại rừng hoặc thanh
toán chi phí trồng lại rừng, buộc thanh toán chi phí chữa cháy rừng.
- Hành
vi thứ hai bị áp dụng phạt tiền 200.000 đồng; bị tịch thu lâm sản (toàn bộ 15 khúc
cây có bám phong lan rừng; 5 lít mật ong);
tịch thu công cụ, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính (gồm 1 cưa
tay, 2 dao, 10 m dây thừng, 1 mảnh linon (dùng để phục vụ cho việc lấy mật
ong), 5 nhùi lửa, 1 can nhựa loại 5 lít, 01 xe mô tô); có thể bị buộc trồng lại rừng hoặc thanh toán chi phí trồng lại rừng.
- Hành
vi thứ ba bị áp dụng phạt tiền 1.000.000 đồng;
Tổng
hợp mức phạt chính là 4.200.000 đồng.
Khi tổng mức phạt trên
500.000 đồng thì Hạt trưởng Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng huyện P có thể cho H
được hoãn chấp hành quyết định xử phạt, tạo điều kiện về thời gian để chấp hành
quyết định xử phạt. Đồng thời, tiến hành bồi dưỡng năng lực, phẩm chất đạo đức,
giáo dục tinh thần trách nhiệm để có thể bồi dưỡng H trở thành một cộng tác
viên kiểm lâm, từ đó H sẽ có điều kiện tạo thu nhập tự nuôi sống bản thân, gia
đình và đảm bảo thực hiện quyết định xử phạt. Thực hiện được phương án này
không chỉ góp phần bổ sung lực lượng cho công tác quản lý, bảo vệ rừng mà còn
khiến cho nhân dân ở địa bàn, đồng bào dân tộc thiểu số thấy được tính nhân đạo
của pháp luật, bản chất tốt đẹp của Nhà nước ta một cách rất thực tế.
Trong qúa trình xử phạt, người có thẩm
quyền vừa áp dụng chế tài, vừa giải thích giáo dục đối với H. Sự hợp lý trong
áp dụng hình thức, mức phạt có ý nghĩa quan trọng trong tác động đến nhận thức,
tình cảm và thái độ của H đối với pháp luật, từng bước tạo sự chuyển biến về
hành vi, cách xử sự phù hợp với quy định của pháp luật trong tương lai của H. Đây
cũng chính là yêu cầu, mục tiêu tối cao của việc áp dụng pháp luật nói chung và
pháp luật về xử lý vi phạm hành chính nói riêng. Khi H đã hiểu ra thì chính H
sẽ là hạt nhân giúp lực lượng kiểm lâm tuyên truyền, giáo dục cho gia đình và
bạn bè chấp hành pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng, giúp đỡ lực lượng kiểm lâm
trong phòng, chống các vi phạm pháp luật.
Tuy nhiên, phương án này có nhược điểm
các tác động đến nhận thức, hiểu biết của H cần phải có thời gian, nhất là việc
bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng để H có thể trở thành cộng tác viên kiểm lâm.
Mặt khác, nếu việc tuyền, giáo dục không tạo nên sự chuyển biến về nhận thức
một cách có hệ thống và bền vững thì rất có thể trong quá trình làm cộng tác
viên kiểm lâm, H có thể vì tâm lý nể nang mà để cho người thân, bạn bè của mình
vi phạm quy định về quản lý, bảo vệ rừng.
3.3. Lựa
chọn và tổ chức thực hiện phương án xử lý tình huống
3.3.1. Lựa chọn phương án giải quyết
Trong hai phương án trên, mỗi phương
án đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Nếu lựa chọn phương án 1 thì việc xử
lý có ưu điểm là áp dụng một cách triệt để các chế tài của quy phạm pháp luật đối
với hành vi vi phạm của H, nhưng chưa đảm bảo tính phù hợp của chế tài với các đặc
điểm của chủ thể với các đặc tính, tập quán sinh sống ở một vùng dân tộc thiểu
số. Điều này sẽ tạo ra những khó khăn trong tổ chức thực hiện pháp luật nói
chung, tổ chức thực hiện chế tài do cơ quan, người có thẩm quyền xử lý đưa ra
nói riêng.
Nếu lựa chọn phương án 2, tuy
việc áp dụng các chế tài còn ở trong một chừng mực nhất định, nhưng nó lại có
nhiều lợi thế như: vừa đảm bảo được mục đích của chế tài (trừng phạt người vi
phạm), vừa phù hợp với điều kiện tự nhiên-xã hội, tập quán, phong tục nơi mà H
sinh sống. Do vậy, sẽ tạo ra sự đồng thuận của người dân, nhất là trưởng bản
trong việc giáo dục, động viên H chấp hành triệt để các chế tài mà cơ quan, người
có thẩm quyền xử lý đưa ra. Đồng thời, có ý nghĩa to lớn trong việc răn đe,
giáo dục những người khác trong bản nghiêm chỉnh chấp hành các quy định của
pháp luật về bảo vệ rừng.
Mặt khác, việc lựa chọn
phương án thứ hai là có cơ sở cả về chính trị và pháp lý. Các tình tiết tăng
nặng và giảm nhẹ được quy định chung cho mọi trường hợp vi phạm và không quy
định trường hợp khi vi phạm có cả tình tiết tăng nặng và tình tiết giảm nhẹ thì
người có thẩm quyền xử phạt phải quyết định như thế nào. Đây chính là điểm linh
hoạt của pháp luật xử phạt, cho phép chủ thể có thẩm quyền căn cứ vào trường
hợp cụ thể mà quyết định áp dụng sao cho phù hợp để đạt đến mục đích không chỉ
trừng phạt mà còn giáo dục người vi phạm. Pháp luật thể hiện ý chí của đại bộ
phận quần chúng nhân dân thông qua cơ quan đại diện cho quyền lực của nhân dân,
nhưng do điều kiện hoàn cảnh hạn chế mà đồng bào dân tộc thiểu số không có
nhiều cơ hội được tiếp cận với các thông tin về pháp luật, sự hạn chế về văn
hoá nên các hiểu biết về pháp luật và hành xử theo pháp luật còn hạn chế. Vì
vậy, việc áp dụng chế tài đối với họ phải nhằm mục đích giáo dục là chính, phải
ưu tiên yếu tố ổn định về chính trị, đây cũng chính là mục tiêu tối cao của
pháp luật: Duy trì trật tự để ổn định về chính trị - xã hội.
Với những lập luận này, tiểu
luận lựa chọn phương án 2 là phương án tối ưu để giải quyết tình huống.
3.3.2.Tổ chức thực hiện phương án tối ưu
Để thực hiện được phương án
tối ưu (phương án 2), cần tiến hành theo các trình tự cụ thể như sau:
* Đình
chỉ vi phạm, lập biên bản vi phạm hành chính và tạm giữ tang vật, phương tiện
vi phạm hành chính
Ngay khi phát hiện vi phạm, các
kiểm lâm viên K, P, N phải tiến hành đình chỉ ngay vi phạm. Việc đình chỉ được
thực hiện bằng lời nói. Sau đó, phải cắt cử, phân công người ở lại bảo vệ hiện trường, nếu có điện
thoại thì báo cáo qua điện thoại cho Trạm trưởng Trạm kiểm lâm cửa rừng về vụ
việc, nếu không liên lạc được thì phải cử người về Trạm để báo cáo trực tiếp.
Những người còn lại lập biên bản
vi phạm hành chính đối với ZRơm H theo mẫu quy định. Biên bản phải được lập
thành ít nhất hai bản; phải được người lập biên bản và H ký; trong trường hợp biên
bản gồm nhiều tờ, thì người lập biên bản và H phải ký vào từng tờ biên bản. Nếu
H từ chối ký thì người lập biên bản phải ghi rõ lý do vào biên bản. Biên bản
lập xong phải được giao cho H một bản.
Trạm trưởng Trạm kiểm lâm cửa
rừng cần tiến hành tạm giữ tang vật, phương tiện vi phạm hành chính để tránh trường
hợp tang vật, phương tiện bị tẩu tán. Việc tạm giữ phải có quyết định tạm giữ tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính bằng văn bản và phải lập biên bản về việc tạm giữ theo mẫu quy định. Trong
thời hạn 24 giờ, kể từ khi ra quyết định tạm giữ, Trạm trưởng phải báo cáo Hạt
trưởng Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng huyện P và phải được sự đồng ý bằng văn bản
của người đó. Nếu không thì Trạm trưởng phải huỷ ngay quyết định tạm giữ và trả
lại những gì đã tạm giữ.
Sau khi quyết định tạm giữ, Trạm trưởng phải tiến
hành các biện pháp về tổ chức để bảo quản tang vật, phương tiện bị tạm giữ theo
quy định tại Nghị định số 70/2006/NĐ-CP ngày 24/7/2006 quy định việc quản lý
tang vật, phương tiện bị tạm giữ theo thủ tục hành chính. Sau khi hoàn chỉnh
các văn bản, Trạm trưởng tiến hành báo cáo và chuyển toàn bộ các văn bản đã lập
cho Hạt trưởng Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng huyện P để xử lý theo thẩm quyền.
* Hạt trưởng Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng huyện P ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đối với Z’Rơm H
Xét thấy đây là vụ việc đơn giản,
chứng cứ rõ ràng, trong thời hạn
10 ngày, kể từ ngày lập biên bản vi phạm hành chính, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm
rừng đặc dụng huyện P ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính đối với H bằng văn
bản theo mẫu quy định.
Quyết định xử phạt có hiệu
lực kể từ ngày ký. Quyết định này được gửi cho H và Kho bạc nhà nước huyện P
trong thời hạn 3 ngày, kể từ ngày ra quyết định.
Khi giao quyết định xử phạt
cho H cần kết hợp tuyên truyền, giáo dục, giải thích các quy định của pháp luật
và vận động, thuyết phục H như phương án đã đề ra.
* Xử lý tang vật, phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu sung quỹ
nhà nước
Xử lý các tang vật, phương
tiện vi phạm hành chính bị tịch thu theo quyết định xử phạt của Hạt trưởng Hạt
Kiểm lâm rừng đặc dụng được thực hiện theo quy định tại Điều 43 Nghị định số
99/2009/NĐ-CP. Trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày tịch thu
sung quỹ nhà nước, đối với các tang vật, phương tiện vi phạm hành chính nêu
trên, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng phải gửi quyết định tịch thu và
thông báo đến Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tỉnh QN. Địa điểm giao tang vật,
phương tiện vi phạm hành chính bị tịch thu cho Trung tâm dịch vụ bán đấu giá
tại nơi tịch thu tang vật, phương tiện. Sau khi giao, Trung tâm dịch vụ bán đấu
giá có trách nhiệm quản lý, bảo quản tang vật, phương tiện đó.
Trong
thời hạn một tháng kể tự ngày nhận được hồ sơ tang vật, phương tiện vi phạm,
Trung tâm dịch vụ bán đấu giá tỉnh QN phải tổ chức bán đấu giá tang vật, phương
tiện vi phạm theo quy định hiện hành. Quá thời hạn này, thì Chi cục Kiểm lâm
tỉnh QN tổ chức bán đấu giá, nộp tiền vào Kho bạc, sau đó thông báo cho cơ quan
tài chính tỉnh QN.
* Kết thúc việc xử phạt
Khi kết
thúc các hoạt động xử phạt đối với H, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng
tiến hành lưu toàn bộ hồ sơ vụ vi phạm hành chính tại cơ quan để quản lý, theo
dõi. Đồng thời, thực hiện các thủ tục để ra quyết định hoãn chấp hành quyết
định phạt tiền. Nếu sau khi hết thời hạn hoãn chấp hành quyết định phạt tiền mà
H không thể thực hiện quyết định xử phạt một lần thì có thể cho phép nộp làm
nhiều lần.
Bên cạnh
đó, cần thực hiện cử kiểm lâm viên địa bàn kết hợp với già làng, trưởng bản nơi
H sinh sống để vận động H tham gia các lớp tập huấn, các buổi truyền thông liên
quan đến nghiệp vụ của ngành đề bồi dưỡng cho H trở thành cộng tác viên kiểm
lâm.
Hạt
trưởng Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng cần đề nghị cấp có thẩm quyền ra quyết định
về tư cách cộng tác viên kiểm lâm của H để tạo cơ hội cho H có thể thực hiện
được quyết định xử phạt và ổn định đời sống, góp phần cùng với lực lượng kiểm
lâm tham gia quản lý, bảo vệ rừng.
4. KIẾN NGHỊ
Để hạn chế và giải quyết có
hiệu quả các vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và
quản lý lâm sản, tiểu luận kiến nghị một số vấn đề sau:
4.1. Kiến nghị với Đảng, Nhà nước
Đối với Đảng cần tiếp tục
triển khai thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TƯ ngày 28/8/2008 về nông nghiệp, nông
dân và nông thôn một cách mạnh mẽ đến các cấp, các ngành và toàn thể nhân dân,
nhất là nhân dân ở các địa phương có rừng và là trọng điểm về phá rừng như địa
bàn tỉnh QN. Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với ngành Nông nghiệp và
phát triển nông thôn và trực tiếp là lực lượng kiểm lâm để nâng cao nhận thức
và trách nhiệm đối với công tác quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
Đối với Chính phủ cần tăng cường
năng lực cho lực lượng kiểm lâm cả về số lượng, chất lượng, công cụ và phương
tiện chuyên dùng để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ quản lý, bảo vệ rừng và quản lý
lâm sản; nghiên cứu để có những chính sách đãi ngộ hợp lý đối với cán bộ, kiểm
lâm viên, kiểm lâm viên địa bàn, cộng tác viên kiểm lâm, chủ rừng, người trồng
rừng. Đồng thời, cần hoàn thiện chế tài xử phạt hành chính theo hướng rõ ràng
về hành vi vi phạm và giảm bớt khoảng cách giữa mức tối thiểu với mức tối đa
trong khung phạt tiền đối với một số vi phạm để đảm bảo áp dụng chế tài thể
hiện rõ thái độ nghiêm khắc của Nhà nước đối với các vi phạm hành chính trong
lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
4.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng
Đối với Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn cần chỉ đạo Uỷ ban nhân dân các tỉnh, trong đó có tỉnh QN đẩy
nhanh tiến độ giao đất, giao rừng cho cộng đồng làng, xã, thôn, bản quản lý,
bảo vệ, phát triển và hưởng lợi để giải quyết các nguyên nhân dẫn đến nảy sinh
vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
Chỉ đạo lực lượng kiểm lâm hoạt động có hiệu quả theo phương thức “Kiểm lâm địa
bàn làm việc không có trụ sở ổn định” để quản lý rừng và nhanh chóng phát hiện
và xử lý các vi phạm phát sinh. Đồng thời, tích cực đầu tư khoa học, công nghệ
cho các hoạt động quản lý, bảo vệ rừng và nhanh chóng có hướng dẫn thực hiện
Nghị định của Chính phủ số 99/2009/NĐ-CP, nhất là phải quan tâm hướng dẫn cụ
thể chế tài áp dụng đối với người vi phạm là đồng bào dân tộc thiểu số để tạo
cơ sở pháp lý cho lực lượng kiểm lâm tiến hành xử phạt một cách thống nhất.
Đối với chính quyền tỉnh QN
cần chỉ đạo chính quyền cấp xã tuyên truyền cho nhân dân thực hiện “quy ước bảo
vệ rừng bền vững”, vận động 100% hộ gia đình ký cam kết thực hiện. Phát huy
hiệu quả hình thức cộng đồng quản lý, bảo vệ rừng, có quy ước, cam kết rõ ràng để
hạn chế các vi phạm trong quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản của
chính nhân dân địa phương, tiến hành đa dạng hóa và xã hội hóa lực lượng bảo vệ
rừng bằng việc xây dựng đội ngũ các cộng tác viên kiểm lâm ở xã, thôn, bản. Có
như vậy mới huy động được sức mạnh của nhân dân địa phương, đặc biệt là của các
chủ rừng trong đấu tranh với các vi phạm pháp luật trong quản lý, bảo vệ rừng.
UBND tỉnh QN nên tiếp tục hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
lâm nghiệp để bà con an tâm sản xuất, tránh tình trạng phá rừng bừa bãi. Chỉ
đạo Sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn thực hiện các chương trình hỗ trợ về
kỹ thuật, về thông tin cho các hộ dân trồng rừng và có nhu cầu trồng rừng, tham
gia sản xuất, thuê đất trồng rừng để người dân bằng năng lực của mình tự ổn
định đời sống, hạn chế tình trạng lấy rừng làm nguồn sống và vi phạm pháp luật về
quản lý, bảo vệ rừng.
5. KẾT LUẬN
Để làm tốt công tác quản lý,
bảo vệ rừng và quản lý lâm sản trong thời gian tới cần có sự phối hợp của các
cấp chính quyền, ban ngành, đoàn thể và các tầng lớp nhân dân chứ không chỉ có
ngành Kiểm lâm. Các kiểm lâm viên địa bàn phải phát huy vai trò bám rừng, bám
dân, tích cực tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện Luật bảo vệ và phát
triển rừng, không vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và
quản lý lâm sản. Đồng thời, thông qua hoạt động bám dân phải phát hiện được các
nguyện vọng chính đáng của nhân dân để kịp thời đề đạt đến cấp có thẩm quyền
giải quyết các vướng mắc và hỗ trợ về chủ trương, chính sách và bằng những việc
làm thiết thực như cho vay vốn ưu đãi, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
lâm nghiệp, cho thuê đất trồng rừng…để nhân dân có điều kiện kinh tế ổn định và
có điều kiện tham gia trồng rừng, bảo vệ rừng, bảo đảm cho sự nghiệp bảo vệ và
phát triển rừng đạt được những kết quả bền vững trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam,
Nghị quyết số 26-NQ/TƯ về nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
2.
Chính phủ, Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày 02 tháng 11
năm 2009 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng
và quản lý lâm sản;
3.
Chính phủ, Nghị định số 119/2006/NĐ-CP ngày 16/10/2006
ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của Kiểm lâm.
4.
Chính phủ, Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006
về thi hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng;
5.
Chính phủ, Nghị
định số 150/2005/NĐ-CP ngày 12/12/2005 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh
vực an ninh và trật tự, an toàn xã hội.
6.
Quốc hội, Luật số 29/2004/QH11 ngày 03 tháng 12 năm
2004 về Bảo vệ và Phát triển rừng ;
7.
Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày
05/02/2007 phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn 2006 – 2020;
8.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh số
44/2002/PL-UBTVQH10 ngày 02 tháng 7 năm 2002 về xử lý vi phạm hành chính;
9.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh số
04/2008/PL-UBTVQH12 ngày 02 tháng 4 năm 2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính;
No comments:
Post a Comment