Thursday, April 7, 2016

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 31

>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 30




MỤC LỤC



Trang
Lời nói đầu
2
I. Tình huống
3
1. Hoàn cảnh ra đời
3
2. Diễn biến tình huống
3
II. Phân tích, xử lý tình huống
7
1. Mục tiêu giải quyết tình huống
7
2. Cơ sở lý luận
8
3. Phân tích tình huống
9
4. Giải quyết tình huống
13
III. Kiến nghị
16
Kết luận
17
Danh mục tài liệu tham khảo
18













LỜI NÓI ĐẦU
          Hơn 20 năm thực hiện nền kinh tế chuyển đổi: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mới đây là hội nhập kinh tế quốc tế (thành viên của Tổ chức Thương mại Quốc tế-WTO) đã tạo ra nhiểu tiềm năng to lớn cho sự phát triển kinh tế-xã hội ổn định và bền vững; an ninh chính trị, trật tự an toàn được đảm bảo; đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao cả về vật chất và tinh thần;…. Song, những thách thức mang tính nguy cơ luôn tiềm ẩn, đe doạ đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế, truyền thống văn hoá, an ninh chính trị của dân tộc. Một trong những thách thức có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn xuất phát từ hiệu quả quản lý của nền hành chính công truyền thống ở nước ta hiện nay. Điều này đã tạo nên tính thụ động, ỷ lại, thiếu trách nhiệm và tính chịu trách nhiệm trong cơ chế của nền hành chính công truyền thống. Mặt khác, tính năng động của nền kinh tế không được bảo đảm đáp ứng với những quyết sách chính trị; chính sách; chiến lược; tổ chức bộ máy; đội ngũ cán bộ, công chức;… đã kìm hãm sự phát triển trong những năm gần đây. Đặc biệt, trong lĩnh vực quản lý nhà nước về lâm nghiệp, sự phát triển giữa tài nguyên thiên nhiên và nhu cầu khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên rừng để phát triển kinh tế là một ngịch lý trong quy hoạch và phát triển kinh tế-xã hội ở một quốc gia.
          Trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu mà Đảng, Nhà nước ta quan tâm phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên rừng theo đúng tính chất, vị trí của nó trong xây dựng và phát triển đất nước. Với mục đích vừa đảm bảo cân bằng hệ sinh thái, vừa là động lực để phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, của địa phương, nhất xoá đói, giảm nghèo cho các vùng đồng bào, dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, một thực trạng thường thấy hiện nay là việc khai thác quá mức; không chú ý đến phát triển bền vững; buông lỏng quản lý;… đã làm cho nhiều cánh rừng tự nhiên biến mất, vùng đất có tiềm năng phát triển rừng trở nên hoang hoá, cây công nghiệp lâu năm không có khả năng khai thác hiệu quả;... dẫn đến những hậu quả về thiên tai, môi trường sinh thái bị ô nhiễm;… tác động xấu đến đời sống của nhân dân. Điều này cho thấy, những bất cập về thể chế pháp luật, chính sách, chiến lược phát triển và khai thác rừng không hợp lý, trong đó nhất là chính quyền địa phương các cấp chưa thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ quản lý của mình đối với các diện tích rừng thuộc đơn vị hành chính lãnh thổ, nên đã để xảy ra tình trạng phá rừng, đốt rừng làm dẫy theo tập tục, cháy rừng,… thậm chí kể cả những trường hợp lợi dụng kẽ hở của các quy định của pháp luật nhằm khai thác trái phép thu lợi cho cá nhân;…
          Trước những thực trạng trên, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Chẳng hạn như: Nghị định số 5/2008/NĐ-CP ngày 14/1/2008 về quỹ bảo vệ và phát triển rừng; Quyết định số 144/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/09/2007 về một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007-2015; Chỉ thị số 334/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 10/03/2009 về tăng cường các biện pháp tổ chức thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng;… nhằm khôi phục, bảo vệ và quản lý nguồn tài nguyên thiên rừng phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Cùng với những kiến thức lý luận khoa học quản lý nhà nước đã được học, tiểu luận xác định vấn đề: “Quản lý nhà nước về lâm nghiệp ở chính quyền cấp tỉnh” làm nội dung cơ bản để nghiên cứu.
          I. TÌNH HUỐNG
            1. Hoàn cảnh ra đời
          Trước những diễn biến phức tạp của tình trạng phá rừng, nhiều người dân và cán bộ kiểm lâm có tinh thần trách nhiệm vẫn giữ thái độ, lập trường kiên quyết đấu tranh với loại tội phạm nguy hiểm này. Cuối tháng 03 năm 2009, nhận được thông tin tố cáo của các hộ dân sống tại xã Quảng Tân-huyện Tuy Đức-tỉnh Đắk Nông về tình trạng buông lỏng quản lý nhà nước về rừng ở tỉnh Đắk Nông, những kẻ xấu đã lợi dụng chính sách của Nhà nước về xã hội hoá công tác trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc để khai thác trái phép lâm sản. Tổng biên tập Báo nhân dân đã cử phóng viên Quang Anh đến địa bàn để xác minh và nắm tình hình ở địa phương này.
          2. Diễn biến tình huống
          Qua thập nhập thực tế trên địa bàn tỉnh Đắk Nông và làm việc với lãnh đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện, phóng viên Quang Anh đã thu thập được những chứng cứ xác định tình hình quản lý và khai thác rừng theo như đơn thư của bà con như sau: “… Ngày 15-8-2006, UBND tỉnh Đắk Nông đã ban hành Quyết định số 1007/QĐ-CTUBND, về việc cho Công ty Ngọc Thạch thuê 589,1 ha đất tại các Tiểu khu 1515, 1516 thuộc xã Quảng Tân (huyện Tuy Đức), trong đó có 535,4 ha rừng tự nhiên và 53,7 ha đất trống để thực hiện dự án bảo vệ rừng và trồng rừng nguyên liệu. Ngày 30-8-2006, UBND tỉnh Đắk Nông lại ban hành Quyết định số 1097/QĐ-CTUBND điều chỉnh, bổ sung một số điểm của Quyết định 1007. Theo hai quyết định này của UBND tỉnh Đắk Nông, thì hiện trạng khu đất giao cho Công ty TNHH Ngọc Thạch thuê đưa vào quản lý, khoanh nuôi bảo vệ rừng tập trung là 249,3 ha; khoanh nuôi làm giàu rừng là 124 ha và diện tích còn lại khoảng 116 ha để trồng rừng gồm cao su, keo, gió bầu… và trồng cây công nghiệp, đồng cỏ, và xây dựng cơ sở hạ tầng…
Đến tháng 2-2007, Công ty TNHH Ngọc Thạch chính thức nhận biên bản bàn giao thực địa với tổng diện tích là 451,9 ha đất và rừng, trong đó đất có rừng tự nhiên là 416,2 ha và đất không có rừng là 35,7 ha. Mặc dù được tỉnh và các cấp, các ngành ở địa phương tạo điều kiện cho thuê đất chiếm phần lớn là rừng, nhưng do không đủ năng lực và buông lỏng công tác quản lý, bảo vệ rừng, nên chỉ sau hai năm thực hiện dự án đã có 90 ha rừng thuộc lâm phận công ty quản lý bị lâm tặc xóa sổ, thay vào đó là những rẫy sắn của người dân địa phương.
Trước tình trạng rừng do công ty quản lý bị tàn phá nặng nề, sau một thời gian kiểm tra, ngày 20-1-2009 Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đắk Nông đã có báo cáo số 44/BC-KL về kết quả kiểm tra tình hình thực hiện công tác quản lý, bảo vệ rừng của Công ty TNHH Ngọc Thạch, báo cáo nêu rõ: “Công ty TNHH Ngọc Thạch đã không triển khai đúng các biện pháp quy định, để rừng bị phá 88,29 ha. Trong đó, tính đến đầu năm 2009, riêng Hạt kiểm lâm huyện Tuy Đức đã phát hiện 52,6 ha rừng bị phá mà công ty không có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Còn riêng Đoàn kiểm tra liên ngành của tỉnh do Chi cục kiểm lâm tỉnh chủ trì cũng đã phát hiện thêm 35,69 ha rừng bị chặt phá, chưa được công ty và các ngành chức năng địa phương thống kê báo cáo…”.  Điu đáng nói là sau khi có kết quả kiểm tra, các ngành chức năng của tỉnh đã thông báo về tình trạng rừng do Công ty nhận quản lý, bảo vệ bị tàn phá nặng nề, nhưng công ty vẫn không có biện pháp quản lý, bảo vệ hiệu quả. Vì vậy, chỉ hơn một tháng sau, đến ngày 23-2-2009, qua kiểm tra, Hạt kiểm lâm huyện Tuy Đức lại phát hiện đã có thêm gần 1,5 ha rừng bị chặt phá… Nguyên nhân chủ yếu để mất rừng là do Công ty Ngọc Thạch đã buông lỏng công tác quản lý, bảo vệ rừng.
Trong những ngày đầu tháng 3, chúng tôi được các cán bộ Hạt Kiểm lâm huyện Tuy Đức đưa đến tận các Tiểu khu 1515, 1516 thuộc lâm phận Công ty TNHH Ngọc Thạch quản lý, vừa đến nơi đã bắt gặp cảnh tượng hàng chục người dân ngang nhiên vào rừng phát, dọn, đốt cây chiếm đất sản xuất ngay trên khu vực rừng do công ty quản lý. Trong khi đó, không thấy bóng dáng lực lượng bảo vệ rừng của công ty ở đâu. Khi chúng tôi thắc mắc về việc buông lỏng công tác quản lý, bảo vệ rừng của công ty, thì được các anh ở Hạt Kiểm lâm huyện và cán bộ thôn dẫn đường cho biết: không phải bây giờ mà kể từ khi được tỉnh cho thuê đất triển khai thực hiện dự án bảo vệ rừng và trồng rừng nguyên liệu đến nay, có bao giờ thấy người của công ty đâu mà bảo vệ. Quả đúng như vậy, khi chúng tôi đến trạm bảo vệ rừng số 1 của Công ty đặt ở đầu thôn Đác M’rê thì thấy cửa đóng im ỉm, chung quanh cỏ dại mọc um tùm. Đi sâu thêm vào rừng, nhiều cánh rừng già hàng trăm năm tuổi nay chỉ còn lại vài cây thưa thớt, xen lẫn với các rẫy sắn. Còn những khoảnh rừng nằm sát mặt đường, địa thế bằng phẳng thì cây cối vừa bị chặt phá ngã ngổn ngang, thân cây bị đốt cháy đen lẹm. Vào sâu hơn nữa, sát cánh rừng già là trạm bảo vệ rừng số 2 của công ty. Nhưng cai quản cả khu vực này chỉ có một mình bà Bùi Thị Dung, năm nay đã 60 tuổi. Theo bà Dung thì lâu nay ở trạm bảo vệ rừng này chỉ có bà cùng với chồng là ông Phan Văn Thủy, đã 70 tuổi; ngoài ra còn có thêm hai thanh niên nữa được Công ty thuê giữ rừng, nhưng hiện nay họ đi đâu bà không biết…
Tìm hiểu thực tế tình hình sản xuất của Công ty TNHH Ngọc Thạch, chúng tôi được nhiều người dân sinh sống chung quanh khu vực đất của công ty cho biết: đến nay công ty chỉ mới trồng được khoảng 10 ha cao su, còn không thấy trồng thêm cây gì nữa. Ngay cả chính quyền địa phương cũng không biết công ty đã và đang triển khai những gì trên địa bàn. Chủ tịch UBND xã Quảng Tân Châu Phúc Dũng, cho biết: “Lâu nay xã không biết Công ty đã làm được những gì trên diện tích đất được cho thuê và hiện trụ sở đóng ở đâu xã cũng chịu. Trong thời gian qua, khi phát hiện những vụ phá rừng trên diện tích rừng của công ty, xã có điện thoại báo cho đại diện của công ty nhưng đâu có liên lạc được”. Thậm chí ngay cả vợ chồng bà Dung ông Thủy, người được công ty thuê giữ rừng cũng chỉ biết là có ông Hậu thuê, rồi trả tiền công cho hai vợ chồng với mức 3,4 triệu đồng/tháng. Theo bà Dung thì trước đây hàng tháng vợ chồng bà vẫn nhận tiền đầy đủ lương, còn hai tháng gần đây chỉ nhận được tiền tạm ứng mà thôi. 
Không chỉ buông lỏng công tác quản lý, bảo vệ rừng, Công ty TNHH Ngọc Thạch còn thiếu trách nhiệm phối hợp với các ngành chức năng địa phương để giải quyết công việc. Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Tuy Đức Lê Đình Vũ bức xúc: Để khách quan trong công tác kiểm tra tình hình quản lý, bảo vệ rừng của công ty, huyện đã thành lập đoàn công tác liên ngành và mời Công ty cử người tham gia, nhưng công ty cố tình không cử người tham gia đoàn. Nhiều trường hợp công ty còn bất hợp tác với ngành chức năng, chẳng hạn như trong chương trình phối hợp với Hạt kiểm lâm huyện để kiểm tra về tình trạng phá rừng trái phép, công ty không cử người đủ thầm quyền tham gia, và khi làm việc xong cán bộ của công ty còn không thèm ký vào biên bản. Không chỉ vậy, nhiều lúc Hạt Kiểm lâm huyện muốn làm việc với công ty nhưng không mấy khi liên lạc được.
Trong khi đó, tại quyết định cho thuê đất của UBND tỉnh Đắk Nông đã nêu rõ: “Công ty TNHH Ngọc Thạch có trách nhiệm sử dụng đúng mục đích, đúng ranh giới khu rừng cho thuê; chấp hành nghiêm chỉnh Luật Đất đai và Luật Bảo vệ rừng. Đối với diện tích rừng công ty được giao khoanh nuôi, phải quản lý, bảo vệ nghiêm ngặt, tuyệt đối không để xảy ra phá rừng trái phép, nếu để xảy ra tình trạng phá rừng trái phép thì UBND tỉnh sẽ thu hồi lại diện tích đã cho thuê…”. Thế nhưng với những gì mà Công ty TNHH Ngọc Thạch đã và đang làm dường như đi ngược lại với quyết định cho thuê đất của UBND tỉnh Đắk Nông. Cụ thể là chỉ sau hai năm được UBND tỉnh Đắk Nông cho thuê đất triển khai dự án quản lý, bảo vệ rừng thì đã có 90 ha rừng do công ty quản lý đã bị xóa sổ. Nhưng các ngành chức năng của tỉnh Đắk Nông vẫn chưa vào cuộc kiểm tra, xem xét trách nhiệm của công ty để có biện pháp xử lý. Nếu cứ để tình trạng này kéo dài thì không ai dám chắc hàng trăm ha rừng do công ty quản lý sẽ còn tồn tại.”
II. PHÂN TÍCH, XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Mục tiêu giải quyết tình huống
Quả thật, tình huống trên cho thấy những vấn đề đặt ra không chỉ đối với chính quyền địa phương các cấp của tỉnh Đắk Nông mà còn là trách nhiệm đối với các tổ chức chính trị-xã hội; tổ chức đoàn thể, quần chúng và nhân dân phải có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, tác dụng của rừng đối với môi trường, nguồn lực vật chất,... của Nhà nước và cộng đồng dân cư. Phải chăng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta hiện nay chưa đủ mạnh để trừng trị và quản lý nguồn tài nguyên rừng trước những hành vi hám lợi của lâm tặc, sự xuống cấp về đạo đức và yếu về kỹ năng, trình độ chuyên môn của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức có chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền trên địa bàn.
Là những câu hỏi không dễ có thể trả lời bằng một bản báo cáo, tờ trình,... mang tính thủ tục hành chính hay chỉ là những sự giải thích qua loa, đại khái của cơ quan chức năng về những khó khắn, vướng mắc của thể chế pháp luật, nguồn lực,... mà cần phải được nghiên cứu, đánh giá nhằm chỉ rõ những nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh những hiện tượng, biểu hiện thờ ơ, bàng quan, vô trách nhiệm,... của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hay của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức có liên quan,... Đồng thời, vạch rõ được những cơ sở lý luận vững chắc cho nền tảng của hoạt động quản lý nhằm đề ra phương hướng, giải pháp tối ưu cho việc giải quyết thực trạng của tình huống đã nêu. Có lẽ, đây cũng chính là mục tiêu chung của những địa phương có rừng cần phải quản lý, cần phải kịp thời chấn chỉnh để một mặt bảo vệ và phát triển rừng bền vững đáp ứng các yêu cầu về môi trường, cảnh quan thiên nhiên, tài nguyên,... Mặt khác, phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương, xoá đói giảm nghèo cho các gia đình dân tộc, thiểu số, vùng sâu, vùng xa theo chính sách xã hội phát triển rừng mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
2. Cơ sở lý luận
Những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng và đã thu được những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường, đời sống của đồng bào các dân tộc không ngừng được cải thiện về cả vật chất lẫn tinh thần. Trong bối cảnh hiện nay, đất nước đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng với mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế, diện tích rừng ở các dân tộc ở miền núi đang có nguy cơ bị tàn phá trong quá trình phát triển. Ở miền núi, mỗi năm có hàng ngàn héc-ta rừng bị phá huỷ, trong khi đó tốc độ trồng rừng, phát triển rừng còn chậm, hiện nay độ che phủ rừng mới chỉ đạt khoảng 30%. Do suy thoái môi trường sống, đặc biệt do mất rừng và do khai thác quá mức, nên nhiều loại động vật, thực vật đang bị đe doạ, có nguy cơ bị tuyệt chủng. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản chưa được kiểm soát chặt chẽ đã gây ra tình trạng ô nhiễm và làm biến đổi môi trờng sinh thái ở một số vùng miền núi. Năng lực quản lý và bảo vệ môi trường ở miền núi kém hiệu lực, ý thức giữ gìn bảo vệ môi trường chưa cao cũng là những thách thức to lớn đối với phát triển bền vững miền núi. Hiện nay, các cơ quan ra quyết định, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và đồng bào các dân tộc ở miền núi nhận thức về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững tài nguyên rừng còn chưa thật toàn diện và đầy đủ. Với mục tiêu phát triển bền vững tài nguyên rừng, cân đối giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội và bền vững môi trường. Để đạt được mục tiêu đó, quá trình phát triển miền núi cần phải bảo đảm được những yêu cầu cơ bản:
- Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, là phương tiện chủ yếu để nâng cao mức sống đồng bào dân tộc. Tăng trưởng kinh tế miền núi phải dựa trên nguyên tắc hài hoà xã hội, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường lâu bền.
- Thực hiện tốt công tác xã hội hoá rừng theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước nhằm động viên đồng bào các dân tộc, thiểu số tham gia phát triển rừng vừa đảm bảo ổn định kinh tế gia đình vừa bảo vệ và phát triển rừng bền vững.
- Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan chức năng, trong đó chính quyền cấp tỉnh cần chủ động tổ chức, quán triệt các quy định của pháp luật về quản lý và bảo vệ rừng; tiến hành tổ chức tập huấn kỹ năng, kỹ thuật cho cán bộ kiểm lâm, công chức chuyên môn để kịp thời chuyển giao kỹ thuật, máy móc cho bà con đồng bào dân tộc, thiểu số khi nhận phát triển và quản lý rừng.
Với những yêu cầu trên, là cơ sở lý luận quan trọng nhằm đảm bảo quản lý, sử dụng và phát triển bền vững nguồn tài nguyên rừng ở nước ta hiện nay.
3. Phân tích tình huống
Qua mô tả của tình huống cho thấy, những Quyết định giao đất, giao rừng của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông còn chưa thể hiện hết trách nhiệm; hiện tượng cố tình buông lỏng quản lý, không chấp hành các nội dung mà Công ty TNHH Ngọc Thạch đã cam kết với Uỷ ban nhân dân tỉnh;... vô hình dung đã tạo ra cơ hội cho những kẻ phá rừng tiến hành các hành vi của mình một cách ngang nhiên, đôi khi có phần được hợp pháp hoá. Để làm sáng tỏ các hành vi trên, tiểu luận đánh giá như sau:
- Xét về cơ cấu tổ chức chính quyền (Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông) và cơ quan chuyên môn Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh theo quy định tại các điều 88 và 102 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003; Điều 8, khoản 6 Nghị định số 13/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xác định cơ chế quản lý của Uỷ ban nhân dân tỉnh và Sở Nông nghiệp đối với các nhiệm vụ, thẩm quyền được giao trong quản lý rừng “(b) Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: nông nghiệp; lâm nghiệp; diêm nghiệp;…”[1]. Nếu theo các quy định này, cơ quan chuyên môn chỉ với tính cách là cơ quan tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện các hoạt động như lựa chọn tổ chức, cá nhân có khả năng để giao dự án trồng, quản lý và phát triển rừng; tham mưu xây dựng các chính sách; các văn bản pháp quy và xây dựng, tổ chức lực lượng quản lý được giao;… đã tạo ra tính khó xác định trách nhiệm và sự song trùng trực thuộc trong quan hệ cấp trên, cấp dưới. Trong tình huống trên, để xác định được trách nhiệm thuộc về ai khi lựa chọn Công ty TNHH Ngọc Thạch làm chủ đầu tư trong các dự án trồng rừng và bảo vệ rừng thì quả thật không đủ cơ sở xác định. Nếu cho rằng, Sở Nông nghiệp và phiển nông thôn tỉnh Đắk Nông thì Sở chỉ là cơ quan chuyên môn tham mưu không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định, còn nếu xác định Uỷ ban nhân dân tình trách nhiệm giữa tập thể Uỷ ban và cá nhân chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh là là một khoảng cách “xa vời” nên khó quy trách nhiệm và tính phải chịu trách nhiệm. Mặt khác, sự phân cấp hiện nay mới chỉ dừng lại ở phân cấp chức năng-tức là Chính phủ phân cấp cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh trên cơ sở đánh giá năng lực, thực tiễn của các quận, huyện, xã,… để tiếp tục phân cấp, nhưng trên thực tế sự phân cấp của tỉnh chỉ mang tính hình thức tức là phân cấp nhiệm vụ không gắn với phân cấp nguồn lực (ngân sách, tài chính, vật chất) hoặc chỉ là những phân cấp dè dặt chưa có sự mạnh dạn giao phó nên không tạo ra được tính đồng bộ trong việc xem xét, quy hoạch, lựa chọn tổ chức, cá nhân, bố trí lực lượng, phương tiện, trang thiết bị phục vụ quá trình phát triển và bảo vệ rừng bền vững. Một khía cạnh khác, sự mâu thuẫn quản lý giữa các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân như: Sở Nông nghiệp với sở Tài nguyên môi trường;… là nguyên nhân nảy sinh những tồn tại không đáng có về sự ỷ lại, cát cứ trong việc quản lý. Thông thường, các sở và các địa phương thường thực hiện theo nguyên tắc “việc ai nấy làm” nên cho dù có phát hiện vi phạm nhưng không thuộc chức năng của mình thì cũng bỏ mặc hoặc những vấn đề quản lý không xác định được danh giới trách nhiệm của cơ quan thì thường có ý thức “đùn đẩy” trách nhiệm;…
- Việc ra quyết định và bàn giao đất rừng của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông vào thời điểm thời điểm tháng 8/2006 cho Công ty TNHH Ngọc Thạch là không đúng thẩm quyền và đề án phát triển rừng mà Chính phủ giao cho Uỷ ban nhân dân. Bởi lẽ, căn cứ vào Quyết định số 66/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 15/7/2007 về việc phê duyệt đề án, sắp xếp đổi mới nông, lâm trường quốc doanh thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông xác định Công ty TNHH Ngọc Thạch không thuộc đối tượng được giao quản lý rừng tự nhiên. Như vậy, Nếu là rừng tự nhiên chỉ có lâm trường quốc doanh mới được nhận bảo vệ, còn với đất rừng dùng trồng cây dự án được phép giao cho cá nhân, tổ chức thực hiện dự án. Sự khác biệt về đất rừng tự nhiên và đất trồng rừng đã bị Sở Nông nghiệp và Uỷ ban nhân dân dân tỉnh “phù phép” trong Quyết định của mình là giao xen lẫn một số đất có rừng tự nhiên với đất dùng để trồng cây keo, gió bầu, cao xu của Công ty TNHH Ngọc Thạch. Như vậy, sự tắc trách trong phân loại rừng, đánh giá vị trí, tính chất rừng,… của Sở Nông nghiệp để tham mưu cho Uỷ ban ra các quyết định hợp lý, hợp pháp ở Đắk Nông không được làm triệt để và tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.
- Xét về chức năng nhiệm vụ, cơ chế phối hợp của cơ quan kiểm lâm trong việc bảo vệ rừng được phân công mà tình huống trên nêu cho thấy: Tính thụ động của các cấp, ngành trong tỉnh Đắk Nông ở việc để hành vi hoang hoá đất trồng rừng; phá rừng tự nhiên liên tiếp và ngang nhiên. Theo Quyết định số 22/2008/QĐ-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 28/01/2008 về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục kiểm lâm tại Điều 2, khoản 6: Về bảo vệ rừng: “(c) Chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc tổ chức thực hiện các biện pháp chống chặt, phá rừng trái phép và các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng và quản ý lâm sản;..” thì không hiểu sự chỉ đạo của Cục kiểm lâm đối với Chi cục tỉnh, hạt kiểm lâm huyện và chính quyền cơ sở trong việc bảo vệ số diện tích rừng bị phá thuộc quản lý của Công ty TNHH Ngọc Thạch. Mặc dù, đã có sự kiểm tra của Chi cục kiểm lâm; rồi đến những phát hiện của Hạt kiểm lâm huyện Tuy Đức,… trong 2 năm nhưng không thấy động thái của Cục kiểm lâm và Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông. Không lẽ, đất rừng và rừng đã giao cho Công ty TNHH Ngọc Thạch thì chính quyền không có quyền xử lý, can thiệp và đưa ra các biện pháp kịp thời để bảo vệ rừng ? Đây là một câu hỏi lớn đặt ra đối với chính quyền tỉnh ĐắK Nông trong chiến lược phát triển rừng ở Việt Nam hiện nay. Cơ chế phối hợp khi phát hiện ra sự lãng phí và thờ ơ của các cơ quan kiểm lâm và dân quân tự vệ không được tổ chức tiến thành theo đúng quy định của pháp luật nên tình trạng trên vẫn có thể tiếp tục xảy ra trong số diện tích rừng còn lại thuộc quản lý của Công ty TNHH Ngọc Thạch.
Mặt khác, những chế tài xử lý, trách nhiệm xử lý theo quy định tại Nghị định 159/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/10/2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản thì việc xử lý cá nhân, tổ chức vi phạm đến rừng nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự còn ở mức quá nhẹ. Chẳng hạn, mức cao nhất của hành vi phá rừng mới chỉ ở khoảng từ 1 triệu đồng đến 3 triệu đồng; hoặc đối với tổ chức tính 1000 đồng/1m2 rừng. Như vậy, biện pháp chính mà Nhà nước đưa ra không đủ sức để răn đe các hành vi vi phạm hành chính trong lâm nghiệp. Điều này đồng thời cũng khẳng định rằng, tại sao Công ty TNHH Ngọc Thạch sau khi nhận số diện tích rừng và đất trống trên lại chỉ thuê một vài người dân trông nom ? hay đằng sau những vụ phá rừng này là hành vi của “lâm tặc” hay của chính “Công ty” ? Sự mờ ám này là lý do lý giải tại sao Công ty cũng không có mặt hoặc chí ít có động thái tích cực trong ngăn chặn nạn phá rừng do Công ty quản lý. Rõ ràng, mục đích để hoang hoá và bị phá rừng của Công ty là có chủ đích trong việc lợi dụng chính sách, kẽ hở của pháp luật để trục lợi.
          4. Giải quyết tình huống
          Để giải quyết tình trạng trên có thể có nhiều cách xử lý và lựa chọn khác nhau tuỳ thuộc vào từng góc độ tiếp cận. Trên cơ sở lý luận về quản lý nhà nước và thực tiễn kinh nghiệm công tác của bản thân trong lĩnh vực lâm nghiệp, tiểu luận mạnh dạn đề xuất các phương án giải quyết như sau:
Phương án 1: Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết định yêu cầu Công ty TNHH Ngọc Thạch phải có biện pháp hữu hiện để quản lý và bảo vệ rừng. Phương án này có các ưu điểm như: phù hợp với chủ trương xã hội hoá lâm nghiệp trên địa bàn về chính sách ưu đãi đối với các cá nhân, tổ chức nhận đất trồng rừng; tuân thủ các thủ tục hành chính về quản lý và bảo vệ rừng;… Song, phương án này có nhiều hạn chế đối với trường hợp của Công ty TNHH Ngọc Thạch, bởi vì đã nhiều lần các cơ quan chức năng như Chi cục kiểm lâm tỉnh Đắk Nông; Hạt kiểm lâm huyện Tuy Đức yêu có biên bản vi phạm và yêu cầu Công ty có biện pháp quản lý nhưng thực tế tình trạng phá rừng, khai thác lâm sản trái phép vẫn không giảm và có chiều hướng tăng. Như vậy, nếu thực hiện phương án này thì sẽ mất nhiều thời gian để Công ty nghiên cứu, khảo sát và xây dựng biện pháp bảo vệ, quản lý hoặc các lý do mà Công ty có thể đưa ra lúc này là nguồn lực (bao gồm nhân lực và vật lực) để bao biện cho tình trạng khó kiểm soát và kiểm soát hiệu quả số rừng tự nhiên còn lại.
Phương án 2: Uỷ ban nhân dân tỉnh ĐắK Nông ra quyết định đình chỉ và thu hồi diện tích rừng và đất trồng rừng đã giao cho Công ty TNHH Ngọc Thạch. Đây là phương án có khả năng khắc phục được các nhược điểm của phương án trên như: thiếu chế tài nghiêm để xử lý; tránh tình trạng “vòng vo” của Công ty TNHH Ngọc Thạch. Đặc biệt, phương án này hạn chế tối đa sự phá hoại và hoang hoá số diện tích rừng tự nhiên và diện tích đất trồng rừng hiện đang cần được bảo vệ và quản lý; đảm bảo được mục đích phát triển và quản lý rừng mà nhà nước và chính quyền địa phương đặt ra;…
          Để thực hiện phương án này có hiệu quả cần có sự phối hợp và tiến hành các hoạt động cụ thể của nhiều cơ quan có liên quan. Đồng thời, tuân thủ triệt để các nguyên tắc khoa học và các yêu cầu đặt ra đối với quy trình, thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước về lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Các bước tiến hành cụ thể cần xác định:
          Bước 1: Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông cần họp thường trực Uỷ ban và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tiến hành ban hành Quyết định yêu cầu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiến hành xây dựng kế hoạch, dự kiến lực lượng chuyên ngành, phối hợp tiến hành thanh tra, kiểm tra đánh giá mức độ vi phạm của Công ty TNHH Ngọc Thạch đối với diện tích rừng và đất trồng rừng được giao. Hoặc cũng có thể ban hành Chỉ thị giao cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, tổ chức tiến hành và thực hiện theo yêu cầu.
          Căn cứ vào Quyết định này (hoặc Chỉ thị), Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiến hành ra Quyết định thành lập đoàn thanh tra do Chi cục kiểm lâm chủ trì, trong đó xác định sự tham gia của Hạt kiểm lâm các huyện; lực lượng dân quân tự vệ và cơ quan công an; các chuyên viên có chuyên môn được trưng tập; xác định ngày, giờ tiến hành thanh tra; địa điểm thanh tra; vật chất bảo đảm cho thanh tra nhằm đánh giá mức độ thực trạng diện tích rừng từ khi bàn giao cho Công ty TNHH Ngọc Thạch cho đến nay.
          Tiến hành thanh tra đánh giá mức độ, khi thanh tra cần xác minh, đánh giá thực trạng theo tiêu chí so sánh trước khi bàn giao và sau khi bàn giao; tỷ lệ phần trăm đất rừng tự nhiên bị mất; mức độ đất hoang hoá;… có sự chứng kiến và xác nhận của chính quyền địa phương cơ sở và Hạt kiểm lâm huyện và đại diện Công ty TNHH Ngọc Thạch. Biên bản thanh tra thể hiện đầy đủ các chứng cứ (kể cả ảnh chụp), ý kiến đánh giá mức độ của các chuyên gia được trưng tập; ý kiến của chính quyền cơ sở làm cơ sở cho việc đề xuất mức độ xử lý.
          Trên cơ sở biên bản thanh tra Giám đốc Sở Nông nghiệp căn cứ vào các điều kiện thực tế ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thành quy định hiện hiện và làm Tờ trình báo cáo với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắc Nông. Đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Giám đốc Sở Nông nghiệp yêu cầu Ban quản trị Công ty (Giám đốc Công ty) lên để giải quyết theo Quyết định xử phạt hành chính nếu 3 lần triệu tập không có mặt, Giám đốc Sở ban hành Quyết định cưỡng chế xử phạt vi phạm hành chính theo phương thức trừ tiền tại tài khoản của Công ty ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh.
          Bước 2: Chủ tịch Uỷ ban căn cứ vào các kết luận của biên bản thanh tra có thể tiến hành các thủ tục sau:
          Một là, tiến hành mời Ban quản trị (Giám đốc) Công ty TNHH Ngọc Thạch đến Uỷ ban nhân dân để làm việc về khả năng và năng lực nhận đầu tư theo quy hoạch và kế hoạch trước đây mà Công ty trình Uỷ ban nhân dân. Trên cơ sở đưa ra những chứng cứ chứng minh khả năng của Công ty TNHH Ngọc Thạch đối với dự án quản lý và bảo vệ rừng tự nhiên, quỹ đất trồng rừng. Nếu đại diện hợp pháp của Công ty không có mặt, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh có quyền ra Công văn thông báo đánh giá mức độ vi phạm, và khả năng của Công ty.
          Hai là, sau thời hạn 30 ngày nếu Công ty không giải trình về phương án, giải pháp của mình bằng văn bản cho Uỷ ban nhân dân thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh ra Quyết định đình chỉ việc quản lý, sử dụng, khai thác, quản lý và bảo vệ rừng đối với số diện tích mà Uỷ ban nhân dân đã giao theo Quyết định số 1007/QĐ-CTUBND ngày 15/8/2006 và Quyết định số 1097/QĐ-CTUBND ngày 30/8/2007 và ban hành Quyết định thu hồi số diện tích rừng và đất trồng rừng đã giao cho Công ty quản lý và sử dụng.
          Như vậy, số diện tích rừng sẽ được thu hồi. Song vấn đề đặt ra với Uỷ ban nhân dân tỉnh là phải đảm bảo để các diện tích đó được quản lý và bảo vệ tránh tình trạng phá rừng tiếp tục xảy ra. Để đáp ứng yêu cầu này, căn cứ vào các Nông trường lầm nghiệp và Công ty một thành viên theo đề án mà Chính phủ đã có quyết định phê duyệt để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết định giao quản lý và bảo vệ hoặc tiến hành đấu thầu để lựa chọn chủ đầu tư có năng lực theo quy định của pháp luật.
          III. KIẾN NGHỊ
          Qua phân tích đánh giá tình huống quản lý nhà nước về giao đất rừng và quản lý rừng theo chủ trương xã hội hoá chính sách phát triển rừng nhằm xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Đắk Nông, bản thân tôi nhận thấy còn nhiều vấn đề bất cập từ thể chế pháp luật, chính sách và năng lực quản lý hiện hành ở các chính quyền địa phương nói chung, trong đó có tỉnh Đắk Nông nói riêng. Để thực sự phát huy hiệu quả của hoạt động quản lý, tạo môi trường pháp lý ổn định và trở thành động lực để giúp các cá nhân, tổ chức thực hiện tốt các chương trình, dự án được giao, tiểu luận xin kiến nghị một số vấn đề như sau:
          Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật và chương trình khoa học kỹ thuật lâm nghiệp trên địa bàn địa phương, nhất là các vùng dân tộc thiểu số. Việc phổ biến chính sách, chủ trương và pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ, khai thác và phát triển rừng là kênh cung cấp thông tin hiệu quả giúp cá nhân, tổ chức có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về chủ trương, đường lối và ý nghĩa tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng nói chung và của địa phương nói riêng. Đồng thời, tổ chức triển khai tập huấn, hỗ trợ khoa học kỹ thuật giúp các gia đình có kinh nghiệm trong việc gây trồng, chăm sóc và bảo vệ những diện tích đất và rừng được chính quyền giao cho quản lý, sử dụng và khai thác. Tuy nhiên, việc tổ chức tuyên truyền phải tiến hành thường xuyên, thông qua nhiều kênh khác nhau như phát thanh, truyền hình tỉnh kết hợp với các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể; ấp, bản;… Nhằm làm chuyển biến về nhận thức của người dân đối với công tác quản lý, bảo vệ rừng, tài nguyên, môi trường sinh thái.
          Hai là, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm quy định về lâm nghiệp trên địa bàn. Việc “buông lỏng quản lý”, xử lý thiếu kiên quyết là nguyên nhân làm nảy sinh các hành vi vi phạm có tính dây chuyền. Do vậy, sự kiên quyết của chính quyền địa phương là biện pháp hữu hiệu để giáo dục, dăn đe những hành vi vi phạm và tư tưởng vi phạm của lâm tặc trên địa bàn.
          Ba là, đẩy mạnh công tác phối hợp lực lượng giữa lực lượng kiểm lâm và lực lượng dân quân tự vệ trong công tác bảo vệ rừng. Phối hợp lực lượng đòi hỏi phải được tiến hành, tổ chức thực hiện theo Quyết định số 39/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/03/2009 về việc ban hành quy chế phối hợp giữa lực lượng kiểm lâm và lực lượng dân quân tự vệ trong công tác bảo vệ rừng nhằm đảm bảo thường xuyên bám nắm, xử lý nhanh và hiệu quả các trường hợp vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng.
          Với những đề xuất trên, cùng với những phương án giải quyết chắc chắn tình trạng “buông lỏng quản lý rừng” ở tỉnh Đắk Nông sẽ không còn là nguyên nhân nảy sinh tình trạng phá rừng tràn lan và công khai, góp phần xây dựng địa phương tiến nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá dựa trên thế mạnh địa lý tự nhiên về tài nguyên thiên nhiên.
KẾT LUẬN
          Lâm nghiệp là một ngành kinh tế-kỹ thuật đặc thù bao gồm tất cả các hoạt động gắn liền với hoạt động sản xuất hàng hoá và dịch vụ từ rừng như: các hoạt động bảo vệ, gây trồng, khai thác, vận chuyển, sản xuất, chế biến lâm sản và các dịch vụ môi trường có liên quan đến rừng; đồng thời ngành lâm nghiệp có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, xoá đói, giảm nghèo, đặc biệt cho người dân miền núi góp phần ổn định xã hội và an ninh quốc phòng. Do vậy, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực lâm nghiệp là một nhu cầu tất yếu khách quan, một mặt vừa nhằm đảm bảo ổn định hoạt động của ngành lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh, mặt khác tạo ra động lực cho việc phát triển các thế mạnh của chính quyền địa phương, người dân địa phương tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước đối với sự phát triển các hoạt động, dịch vụ từ lâm nghiệp.
         









DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
Báo Nhân dân điện tử.
2.
Chỉ thị số 334/CT-TTg ngày 10/03/2009 về tăng cường các biện pháp tổ chức thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng.
3.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003.
4.
Nghị quyết số 17-NQ/TW, Hội nghị lần thứ  năm Ban chấp hành Trung ương Đảng  khoá X , ngày 1/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước.
5.
Nghị định 159/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/10/2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
6.
Nghị định số 13/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
7.
Nghị định số 5/2008/NĐ-CP ngày 14/1/2008 về quỹ bảo vệ và phát triển rừng.
8.
Quyết định số 66/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 15/7/2007 về việc phê duyệt đề án, sắp xếp đổi mới nông, lâm trường quốc doanh thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông.
9.
Quyết định số 144/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/09/2007 về một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007-2015.
10.
Quyết định số 22/2008/QĐ-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 28/01/2008 về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục kiểm lâm.
11.
Quyết định số 39/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/03/2009 về việc ban hành quy chế phối hợp giữa lực lượng kiểm lâm và lực lượng dân quân tự vệ trong công tác bảo vệ rừng.



[1] Trích Điều 8 khoản 6 điểm b Nghị định số 13/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 30



 

MỞ ĐẦU
Chính sách xã hội hoá giáo dục và những đổi mới trong phương thức quản lý nhà nước về giáo dục; cung ứng dịch vụ giáo dục cho xã hội công dân trong những năm qua đã đạt được những tiến bộ vượt bậc: Nhận được sự quan tâm đầu tư cho giáo dục từ nhiều phía, nhằm xây dựng nguồn nhân lực tri thức có chất lượng cao đáp ứng những đòi hỏi phát triển bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại những cơ hội và thách thức đối với hệ thống giáo dục nước ta hiện nay. Trong đó, sự chậm đổi mới, thay đổi cách thức, biện pháp quản lý nhà nước, nhất là về thể chế, cơ cấu tổ chức,... đã làm nảy sinh những nguy cơ về sự tụt hậu của giáo dục, các căn bệnh thành tích; các tiêu cực và sự xuống cấp về phẩm chất đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức ngành giáo dục ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả và môi trường giáo dục.
Thực tiễn cho thấy, những vụ tai tiếng của ngành Giáo dục và đào tạo trong thời gian qua khá phổ biến trên nhiều mặt, đặc biệt là các vi phạm liên quan đến chế độ thu phí, lệ phí,... và sử dụng quỹ có liên quan đến tài chính ở các trường tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân, như: những vụ tiêu cực liên quan đến cán bộ quản lý như vụ “chạy trường” ở trường THCS Lê Quý Đôn, thành phố Hồ Chí Minh; vụ thu quỹ không đúng quy định, chi sai mục đích ở trường THCS Gò Vấp; các tố cáo liên quan đến việc sử dụng và chi tiêu tiền không đúng quy định của Nhà nước, của Bộ, ngành Giáo dục hay tình trạng lộn xộn trong việc thu tiền đầu năm học ở nhiều trường học;... là những hiện tượng đang được dư luận và xã hội quan tâm. Điều này chứng tỏ, sự thụ động trong quản lý dẫn đến buông lỏng quản lý, bỏ mặc hay bàng quan,... trong quản lý nhà nước về giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng ở nước ta. Mặt khác, tính song trùng trực thuộc đã tạo ra những mâu thuẫn, kẽ hở,... trong việc xác định trách nhiệm quản lý và tính phải chịu trách nhiệm quản lý của một nền công vụ không rõ ràng với những trở ngại trong việc việc thanh tra, kiểm tra, xử lý những biểu hiện tiêu cực trên.
Để thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá giáo dục mà Đảng ta đã đề ra trong điều kiện hội nhập quốc tế và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan, theo tinh thần Nghị quyết số 17/NQ-TW ngày 1/8/2007 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước trong những năm tới, cùng với những kiến thức lý luận khoa học về quản lý nhà nước được học tập tại lớp chuyên viên chính và với khả năng thực tiễn công tác của bản thân, tiểu luận xác định vấn đề: “Trách nhiệm của quản lý nhà nước đối với việc thu sai phí, lệ phí,.... ở trường tiểu học” làm nội dung cơ bản để nghiên cứu.
I. TÌNH HUỐNG
1. Hoàn cảnh ra đời
Tình hình “lạm thu, loạn thu” năm học nào cũng tái diễn ở không ít các trường phổ thông, trong đó có tiểu học, gây khó khăn cho nhiều gia đình học sinh và gây bất bình trong dư luận. Năm học này, tình hình kinh tế khó khăn vì lạm phát, nhiều gia đình phải vất vả lắm mới lo được cho con đi học. Song, nỗi lo về những “khoản” phải đóng góp của các bậc phụ huynh khi đi đăng ký học cho con em họ, không phải là không có căn cứ khi các Hiệu trưởng nhà trường vẫn mạnh tay “chặt chém” với nhiều hình hình thức và thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn.
Câu chuyện xảy ra ngay trên địa bàn quận Thanh Xuân-Tp Hà Nội, khi cha mẹ học sinh đến Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng để đăng ký học cho con. Sự xuất hiện của hàng loạt những khoản thu về lệ phí, phí,... của các loại dịch vụ do Nhà trường đưa ra và kèm theo đó là những vật chất bắt buộc phải mua với giá cao ngất ngưởng so với giá thị trường, đã khiến nhiều phụ huynh không nén nổi sự bất bình của mình. Đi tìm sự giải thích, họ cũng chỉ nhận được những lời giải thích chiếu lệ, qua loa của Hiệu trưởng, thậm chí là loại khỏi danh sách lớp những học sinh khi cha mẹ không đóng đủ các khoản, loại phí,... mà Nhà trường đặt ra. Vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để phụ huynh học sinh có thể xác định được đâu là những khoản đóng góp đúng quy định ? và khi có biểu hiện vi phạm của Nhà trường thì ai, cơ quan nào sẽ có trách nhiệm bảo vệ, bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của người học, cha mẹ học sinh ?... là những câu hỏi đang đặt ra của các bậc phụ huynh học sinh Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng.
2. Diễn biến tình huống
Kể từ khi đạt chuẩn quốc gia (năm 1998), các khoản thu của trường tiểu học thị Đinh Tiên Hoàng, quận Thanh Xuân, Tp Hà Nội cứ tăng dần. Năm học này, phụ huynh đã hết chịu nổi vì Trường thu đến 12 loại phí, quỹ khác nhau. Trong đó, nhiều khoản thu quá ư “lem nhem” khiến phụ huynh kêu trời. Như mọi năm, trước khi khai giảng năm học mới, chị Lê Mỹ Ngọc (Khu tập thể Thanh Xuân Bắc) đã chuẩn bị vải may đồng phục cho con trai Trần Hoài Nam. Nhưng khi đến trường thì tá hỏa vì năm nay nhà trường có thông báo mới: tất cả học sinh phải mặc đồng phục có mác “Trường đạt chuẩn quốc gia”.
Chị Ngọc bức xúc: “Loại hàng này Hiệu trưởng đã chuẩn bị rồi, mua bên ngoài không có. Báo hại tôi phải bỏ hết số vải đã mua, còn phải mua lại đồng phục mới cho con với giá trên trời”. Bất bình, chị Ngọc quyết định không mua, giáo viên phụ trách bán đồng phục không ghi tên con chị. Chị tức giận, phản đối trực diện với Ban giám hiệu ngay cuộc họp phụ huynh đầu năm. Sau cuộc họp, Nhà trường bán chịu cho chị một bộ đồng phục, ghi tên cho con chị được học. Đến nay chị vẫn chưa chịu nộp tiền vì cho rằng Trường đã làm bậy.
Chị T., mẹ của học sinh Hồ Như Thủy, bức xúc nhưng vì con mình học ở trường nên cũng không muốn làm rùm beng. Chị đem biên nhận của nhà trường đến nộp cho cơ quan chức năng “để xem họ giải quyết thế nào”. Biên nhận chị đưa ra có ghi số tiền đã nộp lên đến 419.000 đồng, trong đó khoản mua đồng phục chiếm 65.000 đồng, trong khi con chị chỉ mới vào học lớp 1. Hàng trăm phụ huynh khác cũng bất bình về chuyện đồng phục.
Một số phụ huynh hành nghề bán vải, thợ may khẳng định Trường đã bán ép đồng phục với giá cao gấp đôi so với giá thực tế trên thị trường. Chị Ngọc đưa ra xấp vải mà mình đã mua với giá 12.000 đồng/m2 để so sánh với vải áo Nhà trường bán. Quả nhiên, vải của chị mua có màu trắng hơn, sớ mịn hơn và mặt vải bóng hơn. “Hàng của Nhà trường bán tối đa cũng chỉ cỡ 30.000 đồng, kể cả tiền công. Vậy mà trường nỡ bán cho con em chúng tôi với giá 65.000 đồng/bộ. Rõ ràng là rút ruột phụ huynh”, chị Ngọc bức xúc nói.
Trả lời xung quanh chuyện bán đồng phục, ông Huỳnh Văn Đức, Phó phòng Giáo dục quận Thanh Xuân, nói giá chỉ chênh lệch so với ngoài thị trường 1.000 đồng/bộ thôi, nhưng căn cứ để khẳng định như vậy cũng chỉ là “giải trình của Hiệu trưởng”. Trong khi đó, theo tìm hiểu, tất cả đồng phục đều do Hiệu trưởng tổ chức may tại nhà riêng của mình, hội phụ huynh không hay biết, phòng giáo dục cũng mù tịt.
Đầu năm học 2008-2009, Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng đã có thông báo về các khoản thu trong năm. Theo đó, có tất cả 12 loại phí, quỹ, bao gồm: quỹ xây dựng (30.000 đồng/năm), quỹ hội phí (20.000 đồng/năm), kế hoạch nhỏ (10.000 đồng/năm), thuê quét lớp (36.000 đồng/năm), bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn (cộng chung 75.000 đồng/năm), học phí hai buổi/ngày (10.000 đồng/tháng), phiếu liên lạc (2.000 đồng/tháng), hồ sơ lớp 1 (3.000 đồng), ghế ngồi sinh hoạt dưới cờ nhân các ngày lễ (10.000 đồng), đồ thể dục (26.000 đồng/bộ), đồng phục (65.000 đồng/bộ).
Với số lượng 585 học sinh, trừ các đối tượng miễn giảm, Nhà trường sẽ thu được số tiền lên đến khoảng: 18 triệu đồng tiền quỹ dùng để quét lớp; 9 triệu đồng tiền “bán” phiếu liên lạc;... Nhiều phụ huynh bức xúc về các khoản thu này nhưng nhà trường cũng giải thích trót lọt.
Giải thích về các khoản thu trên, ông Châu Văn Tính, Hiệu trưởng, cho biết: “Ngoài hai khoản thu bắt buộc là quỹ xây dựng và tiền quỹ học thêm hai buổi/ngày như bộ và Sở Giáo dục và Đào tạo Tp. Hà Nội cho phép, còn lại là các khoản thu tự nguyện, không bắt buộc, trường cũng đã có xin phép Uỷ ban nhân dân quận Thanh Xuân và phụ huynh cũng đồng tình.
Nhiều phụ huynh bức xúc nói: "Không biết tự nguyện kiểu nào mà hai trẻ mồ côi Nguyễn Thiện Tâm, Nguyễn Thiện Niệm suýt chút đã không được vào lớp học vì không đủ tiền đóng phí. Ông nội nuôi của hai cháu phải ba lần dắt hai cháu đến hội khuyến học huyện nhờ can thiệp mới xong. Chúng tôi không đồng tình kiểu loạn thu của trường. Ngay sau khi khai giảng năm học mới, các phụ huynh đã to nhỏ với nhau, rồi còn mang biên nhận đã nộp tiền đến các cơ quan chức năng của huyện nộp, yêu cầu xem xét"[1].
II. PHÂN TÍCH, XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Mục tiêu giải quyết tình huống
Quả thật, tình huống trên cho thấy những vấn đề mà lâu nay nhiều gia đình khá giả thường hay bỏ qua và ít quan tâm. Song, với số lượng học sinh lớn đã tạo ra một nguồn lợi khổng lồ cho những cá nhân có liên quan ở Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng. Mặt khác, không phải gia đình nào cũng đó đủ điều kiện kinh tế khá giả để đáp ứng nhanh các yêu cầu “ngoài luồng” từ phía nhà trường hay giáo viên nên đã dẫn tới sự phản ứng và bất bình trong số các phụ huynh học sinh có con em theo học tại Trường tiểu học ở những năm qua học.
Vấn đề mà tình huống đặt ra phải chăng là sự thanh tra, kiểm tra,... của các cơ quan chức năng không phát hiện được những sai phạm trong thu quỹ hay có mối dây liên hệ nào khác để dễ dàng có thể “bỏ qua” những vi phạm này; hay những vấn đề này không thuộc phạm vi, nội dung quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước chỉ mang tính chất quản lý nội bộ của trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng ? Nếu có thì trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước ở đâu ?;.... là hàng loạt những câu hỏi được đặt ra không chỉ của những phụ huynh học sinh mà còn là vấn đề đáng quan tâm của cộng đồng dư luận xã hội cần phải được làm sáng tỏ. Mục tiêu mà tình huống đặt ra là phải “giải toả” được những thắc mắc, triệt tiêu những tiêu cực,... nhằm góp phần xây dựng môi trường học đường lành mạnh, trong sạch nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương, đặc biệt là trách nhiệm trước nhân dân về những vấn đề thuộc quản lý nhà nước. Đồng thời, tìm ra những phương hướng xử lý có hiệu quả, tạo ra sự đồng bộ trong các biện pháp tác động của quản lý Nhà nước trên nhiều mặt của hoạt động giáo dục ở địa phương hiện nay.
2. Cơ sở lý luận
Tiến trình đổi mới giáo dục Việt Nam trong hơn hai mươi năm qua mang hai đặc trưng chủ yếu sau đây: một là,chuyển từ giáo dục phục vụ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang giáo dục vận hành trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hai là,chuyển từ giáo dục khép kín sang giáo dục mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế. Vì vậy, tổ chức và hoạt động giáo dục đã có sự thay đổi căn bản, hướng tới sự đa dạng hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá. Việt Nam cũng đã có những bước đi chủ động trong hội nhập giáo dục, tiếp nhận giáo dục xuyên biên giới theo cả hai cơ chế: không lợi nhuận và có lợi nhuận. Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong việc cung ứng giáo dục, nhưng sự bao cấp toàn bộ trước đây đã được thay thế bằng cơ chế chia sẻ chi phí với việc đóng góp bằng học phí của người học. Các nhà cung ứng mới trong giáo dục cũng đã xuất hiện: đó là các tổ chức, cá nhân trong nước đứng ra thành lập các trường bán công, dân lập, tư thục; các tổ chức, cá nhân ngoài nước đứng ra thành lập các cơ sở giáo dục nước ngoài.
Như thế, giáo dục Việt Nam đã chuyển từ mô hình độc quyền Nhà nước sang mô hình chuẩn độc quyền. Tình thế cạnh tranh chưa được thiết lập trong khu vực giáo dục công lập. Nó cũng không được khuyến khích và không xuất hiện như nhau ở các cấp học và trình độ đào tạo của giáo dục ngoài công lập. Đối với giáo dục trung học phổ thông và giáo dục đại học, về cơ bản chưa có cạnh tranh do cung không đáp ứng cầu; các cơ sở giáo dục ngoài công lập chỉ có tác dụng tạo thêm cơ hội cho người học trong việc tiếp tục học lên. Ở các cấp học còn lại, đặc biệt đối với giáo dục phổ cập (tiểu học và trung học cơ sở), đã dần dần hình thành tình thế người học được lựa chọn trường học, vì vậy đã có sự cạnh tranh rõ nét giữa các trường ngoài công lập trong việc thu hút người học. Như vậy, có thể nói, trước khi vào WTO, trong bối cảnh chung của chuẩn độc quyền giáo dục Việt Nam, đã có sự hình thành chuẩn thị trường giáo dục ở một số cấp học, tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị.
Với tư cách là nước đi sau trong việc gia nhập WTO, Việt Nam phải chịu sức ép lớn hơn về cam kết trong lĩnh vực giáo dục. Trên thực tế, khi đưa ra bản chào dịch vụ đa phương, mức cam kết của Việt Nam về dịch vụ giáo dục là khá sâu và rộng, về cơ bản không khác nhiều so với Hiệp định thương mại song phương BTA đã ký với Hoa Kỳ. Theo đó, ta mở cửa đối với hầu hết các lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật, nghiên cứu và quản lý doanh nghiệp, kinh tế, kế toán, ngôn ngữ và luật quốc tế. Tuy nhiên, việc mở cửa là khác nhau giữa các cấp học và các phương thức cung ứng giáo dục. Giáo dục tiểu học không có cam kết gì. Giáo dục trung học chỉ có cam kết "không hạn chế" đối với phương thức tiêu thụ ngoài nước. Đối với giáo dục đại học, giáo dục người lớn và các dịch vụ giáo dục khác, chúng ta chưa cam kết về phương thức 1 (cung ứng xuyên biên giới), cam kết "không hạn chế" với phương thức 2 (tiêu thụ ngoài nước) và phương thức 3 (hiện diện thương mại), chưa cam kết, trừ các cam kết chung, với phương thức 4 (hiện diện thể nhân).
Nhờ sự quan tâm của Đảng, của nhân dân nền giáo dục nước ta đã đạt được những thành quả đáng kể trong thời gian qua. Những thành tựu đó là: Sự phát triển vượt bậc về quy mô ở tất cả các cấp học và đã góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, tăng trưởng kinh tế. Giáo dục, đào tạo đã đào tạo được một lực lượng lao động có chuyên môn, kỹ thuật, khoảng 8 triệu người chiếm 18,3% trong tổng số 43,8 triệu lao động hiện nay; hệ thống giáo dục nghề nghiệp được phát triển từ thấp đến cao; dạy nghề sau phổ thông cơ sở, Trung học chuyên nghiệp. Một xã hội học tập đang hình thành và mở rộng ở khắp tất cả các địa phương. Quy mô học sinh, sinh viên tăng nhanh, số cơ sở giáo dục đào tạo cũng được mở rộng.
Tuy nguồn ngân sách hạn hẹp, ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục đào tạo ngày một tăng, năm 1998 chi cho giáo dục là 13,6% ngân sách, năm 2000 là 15%, năm 2009 dự toán phân bổ là 47,1%[2]. Ngoài ngân sách thường xuyên, Nhà nước đã tăng cường đầu tư cho giáo dục đào tạo bằng các chương trình mục tiêu quốc gia, huy động trái phiếu và chủ động vay tiền nước ngoài đầu tư cho giáo dục, đào tạo. Nhiều nước đã viện trợ không hoàn lại cho giáo dục, đào tạo Việt Nam. Nhân dân đóng góp cho giáo dục, đào tạo bằng học phí, xây dựng trường sở cũng rất đáng kể. Nhờ huy động đầu tư cho giáo dục, đào tạo từ nhiều nguồn, cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học một số trường đã được sửa chữa, tu bổ, mở rộng xây dựng mới.
Những vấn đề giáo dục trên chỉ phát huy được hiệu quả, có môi trường phát triển và động lực tích cực khi cơ chế quản lý và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có năng lực và phẩm chất đạo đức “xứng tầm” với những yêu cầu mà giáo dục đặt ra. Quản lý mà không nắm chắc các quy luật thì quản lý sẽ trở thành lực cản. Cũng như trồng cây cũng vậy. Cây mọc giữa rừng, chả ai chăm sóc nếu gặp mưa thuận gió hòa, nó sẽ phát triển tươi tốt theo các quy luật sinh lý, sinh thái của nó. Cây mọc trong vườn, nếu giao cho người không hiểu sinh lý, sinh thái của nó chăm sóc thì ông ta có thể làm cho nó còi cọc, thậm chí chết yểu. Trong đó, cơ cấu tổ chức và phân cấp chức năng, nhiệm vụ đòi hỏi phải phù hợp và rõ ràng về trách nhiệm và chịu trách nhiệm trên nền tảng của hoạt động công vụ. Nếu sự phân cấp trách nhiệm, chức năng không đồng bộ, phù hợp với cơ cấu tổ chức và năng lực sẽ là những rào cản cho việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục ở địa phương.
Như vậy, tính tất yếu biện chứng khách quan giữa cơ chế, phương thức, cách thức biện pháp tác động của quản lý nhà nước với chất lượng giáo dục là một nhu cầu không thể thiếu và nằm trong một chỉnh thể thống nhất với các điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Nếu, lựa chọn đúng phương thức, biện pháp quản lý nhà nước sẽ là điều kiện để thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển, xây dựng được nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho sự phát triển kinh tế bền vững và ngược lại nếu các hình thức, biện pháp không phù hợp với những biến đổi khách quan của giáo dục sẽ tạo ra những hậu quả khôn lường đối với cả hệ thống giáo dục nói chung.
3. Phân tích tình huống
Hàng loạt các hành vi mà tình huống nêu lên, cần phải được đánh giá theo những quy định hiện hành của Nhà nước và tình hình thực tiễn của quận Thanh Xuân, Tp.Hà Nội. Về cơ bản có thể thấy những biểu hiện sau:
Một là, sự mâu thuẫn và chồng chéo trong phân cấp chức năng quản lý nhà nước về giáo dục trên địa bàn Tp. Hà Nội. Theo quy định hiện hành tại Điều 88, 104 và 109 Luật tổ chức Hội đồng nhân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003 và khoản 7, Điều 7 Nghị định số 14/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xác định việc phân cấp quản lý giáo dục được tiến hành theo cấp học-tức Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Phòng Giáo dục quản lý các trường trung học cơ sở, tiểu học trên địa bàn và cấp xã quản lý bậc mầm non. Như vậy, việc phân cấp này vô hình dung đã tạo ra khoảng cách và sự cản trở trong quản lý, kiểm tra những sai phạm của các trường tiểu học trên địa bàn quản lý của chính quyền phường. Nếu, việc phân cấp được tiến hành trên cơ sở phân loại các hoạt động quản lý (hoạt động công vụ) thì những hiện tượng “vô trách nhiệm”, “buông lỏng quản lý”,... sẽ không xảy ra. Thực tiễn tình huống trên cho thấy, Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng tự đặt ra và thu quá mức các loại phí, lệ phí,... nhưng không được các cấp có thẩm quyền tiến hành ngăn chặn, xử lý kịp thời. Điều này chứng tỏ, chính quyền cơ sở không được phân cấp quản lý nên “không có thẩm quyền” để can thiệp, đình chỉ việc thu trái pháp luật để chờ cơ quan có thẩm quyền quyết định. Đây là tình trạng chung trong việc phân cấp quản lý không khoa học, theo lối mòn “cấp dưới làm ít, cấp trên làm nhiều”,...
Hai là, hành vi thu phí, bán đồng phục trái pháp luật của Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng. Tình huống nêu 12 loại phí với các mức đóng góp khác nhau, trong đó có cả việc may đồng phục không theo đơn đặt hàng (tự may) theo quy định nên dẫn đến tình trạng tự định giá bán cho các mẫu đồng phục của Ban giám hiệu Nhà trường. Mặc dù, pháp luật đã có những chế tài đủ mạnh như: Điều 105 Luật Giáo dục 2005 qui định: “Ngoài học phí và lệ phí tuyển sinh, người học hoặc gia đình người học không phải đóng góp khoản tiền nào khác”. Như vậy, 12 khoản thu kia Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố căn cứ vào đâu để cho phép trường tiểu học thu. Vì vậy, mọi khoản thu bắt buộc khác trong nhà trường đều là vi phạm pháp luật (hiện một số địa phương vẫn cho phép thu tiền xây dựng trường). Trong 02/12 khoản thu mà tình huống nêu là tiền xây dựng trường và tiền học thêm 02 buổi/tuần đối với trường đạt chuẩn quốc gia mà Sở Giáo dục-Đào  tạo Tp.Hà Nội cho phép các trường tiến hành là những quy định riêng của địa phương là phù hợp với quy định của pháp luật. Nhưng liệu những khoản thu do Sở đặt ra như thu học thêm đối với lớp chọn, trường chuẩn đã phù hợp với đạo lý và pháp luật hiện hành của Việt Nam. Điều khó lý giải là tại sao lớp chọn, trường chuẩn phải bắt buộc học thêm 02/tuần và 08 buổi/tháng, ? Hiện Sở Giáo dục cũng không lý giải nổi tại sao đi kèm với danh hiệu trường chuẩn, lớp chọn học sinh phải học thêm, và điều quan trọng hơn là mức thu của Nhà trường sẽ như thế nào trong tình hình loạn thu, lạm chi như trên. Đối với 10/12 khoản thu khác do Ban giám hiệu Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng tự đặt ra và với những lý do hết sức đơn giản: “chỉ để phục vụ các em là chính”. Từ những phân tích này cho thấy, năng lực về cụ thể hoá Luật giáo dục và triển khai tổ chức thực hiện của Sở Giáo dục còn yếu và có nhiều hạn chế nên đã tạo ra những điều kiện tốt cho cấp dưới “tự tung, tự tác”... Mặt khác, sự hám lợi đã làm cho tính chất vi phạm pháp luật của hành vi ngày càng lớn hơn.
Điều 5 Nghị định của Chính phủ số 57/2002/NĐ-CP ngày 03 tháng 6 năm 2002 “Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí” qui định chỉ có Chính phủ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Bộ Tài chính là có thẩm quyền qui định mức phí và lệ phí. Thế nhưng hiệu trưởng nhiều trường đã rất “hồn nhiên” khi “lộng quyền” tự đặt ra các khoản thu thêm như: phí giữ xe đạp, phí bảo vệ, phí điện nước… trong khu vực trường. Sự lộng quyền của Hiệu trưởng còn được thể hiện rõ trong hành vi tự cung cấp đồng phục cho học sinh (do gia đình Hiệu trưởng may) và tự định giá bán. Đối với hành vi vi phạm về thu phí, lệ phí trái pháp luật đã có chế tài quy định xử lý, theo Điều 9, Nghị định 106/2003/NĐ-CP của Chính phủ: “Vi phạm quy định về thẩm quyền quy định về phí, lệ phí”: sẽ bị “Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi không có thẩm quyền mà tự đặt ra quy định về: danh mục phí, lệ phí; mức thu phí, lệ phí; quản lý, sử dụng tiền phí, lệ phí; miễn, giảm phí, lệ phí”. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân vi phạm còn phải bị áp dụng các hình phạt bổ sung, khắc phục hậu quả… Song, chế tài thì đã có, chức năng phân cấp quản lý đã được xác định, nhưng Phòng Giáo dục và đào tạo quận Thanh Xuân cũng không có động thái gì trước những tố cáo của phụ huynh học sinh. Phải chăng, đã có sự “ngầm hiểu” trong mối quan hệ có liên quan giữa cấp quản lý và Ban giám hiệu trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng ? Hay, sự né tránh xử lý của Phòng Giáo dục đối với các hiện tượng tiêu cực của Nhà trường là do thiếu cán bộ, công chức, địa bàn quản lý rộng không đủ sức để tiến hành thanh tra đột xuất,... ? Đây là những biểu hiện thường thấy về tính thụ động của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý các lĩnh vực được giao. Nếu Phòng Giáo dục kiên quyết, cán bộ, công chức công tâm thì đâu đến mức để xảy ra tình trạng nhiều năm liền các phụ huynh học sinh bị một số cán bộ, công chức, viên chức “rút ruột” những đồng tiền chính đáng của họ.
Ba là, xét và đạo đức của hành vi lợi dụng sự phụ thuộc của phụ huynh học sinh để thực hiện hành vi rút tiền của cha mẹ học sinh. Trong khi toàn Đảng, toàn dân đang sôi nổi thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Nguyên lý của nền giáo dục chúng ta là nhân đạo, vì thế hệ tương lai của đất nước. Nhà trường cũng đã treo những câu khẩu hiệu thể hiện điều đó: “Tất cả vì học sinh thân yêu”, “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, “Dân chủ, kỉ cương, tình thương, trách nhiệm” và hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đang phát động xây dựng mô hình “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” với hạt nhân là lí tưởng nhân văn vì thế hệ tương lai của dân tộc. Môi trường giáo dục là môi trường văn hóa, nhân văn, hình tượng nhà giáo là mẫu mực về đạo đức, lối sống cho học sinh noi theo.Vì vậy, việc tổ chức “loạn thu, lạm thu” của Nhà trường khiến cho mọi lời rao giảng về đạo đức, lẽ công bằng của thầy cô trở nên vô nghĩa, là hành vi hoàn toàn trái với đạo lý. Làm vậy, vô hình trung chúng ta đang tàn phá môi trường giáo dục, cái gốc để giáo dục nhân cách, lối sống cho học sinh và tương lai xã hội sẽ phải trả một giá đắt. Học sinh và nhân dân sẽ mất niềm tin vào nhà trường, thầy cô và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Liệu tương lai các em sẽ suy nghĩ gì trước cách ứng xử thiếu trung thực, “nói một đàng, làm một nẻo”, vi phạm pháp luật của thầy cô.                                                                        
          Bên cạnh đó, những nguyên nhân từ phía chủ quan phụ huynh học sinh cũng đã góp phần tạo điều kiện để cho những hành vi trái pháp luật trên phát triển. Bởi lẽ, sự lựa chọn về môi trường giáo dục giữa trường công và trường tư trên địa bàn là không có. Mặt khác, các gia đình khá giả thì thường bỏ qua những khoản thu không đáng là gì so với 01 học sinh/năm; hay sự lệ thuộc quá lớn của học sinh với cô giáo, Ban giám hiệu Nhà trường;.... là những vỏ bọc lý tưởng để các hành vi trên tự hoành hành, tự tác,...
          4. Giải quyết tình huống
Như vậy, vấn đề “lạm thu, loạn thu” của Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng là quá rõ ràng, song vấn đề xử lý, giải quyết các hiện tượng trên như thế nào nhằm một mặt vừa xử lý được hành vi vi phạm, vừa bảo đảm quyền, lợi ích và môi trường giáo dục cho con em họ. Đây là vấn đề khó, cần phải có thời gian tiến hành và sự tham gia của nhiều cấp, ngành và đặc biệt của là nhân dân. Song, tiểu luận cũng nêu lên các xử lý tình huống cụ thể như sau:
Trên cơ sở các phiếu thu mà Phòng Giáo dục và Đào tạo quận nhận được từ phía phụ huynh học sinh, Trưởng phòng Giáo dục quận cần tiến hành:
Bước 1, tiến thanh tra đột xuất những sai phạm ở Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng
Một là, tiến hành làm công văn báo cáo Uỷ ban nhân dân quận Thanh Xuân về những loại phí, mức thu,... của Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng đã tiến hành thu của phụ huynh học sinh. Trong Công văn cần chỉ rõ những sai phạm theo từng hành vi cụ thể và đề nghị Uỷ ban nhân dân quận ra Quyết định thanh tra đột xuất về những vi phạm ở Trường tiểu học.
Hai là, trên cơ sở Công Văn của Trưởng Phòng Giáo dục, Thường trực Uỷ ban nhân dân quận họp và ra Quyết định thanh tra đột xuất. Trong quyết định thanh tra đột xuất cần xác định thanh tra giáo dục (chủ trì), công an quận, người bị hại ( những người nộp phiếu thu tố cáo) và trưng tập cộng tác viên chuyên môn nếu thấy cần thiết; thời gian tiến hành thanh tra; nội dung thanh tra; và những điều kiện vật chất bảo đảm cho thanh tra;....
Ba là, thanh tra giáo dục huyện tiến hành thanh tra theo quy định của Quyết định. Khi thanh tra đột xuất cần làm rõ những sai phạm thông qua giấy tờ, sổ sách, của nhà trường; đối chiếu với những phiếu chi mà phụ huynh học sinh cung cấp,... thu, giữ những sổ sách, giấy tờ có liên quan đến những sai phạm. Buổi thanh tra có thể tiến hành trong 01 ngày hoặc 02 ngày song, cuối mỗi buổi thanh tra đều có biên bản ghi chép tiến hành thanh tra có sự chứng kiến của Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch phường; công an; người bị hại (phụ huynh học sinh); Ban giám hiệu; Ban đại diện học sinh;.... và biên bản thanh tra cuối cùng phải đưa ra những đề xuất cần thiết xử lý cụ thể.
Bốn là, sau khi có biên bản thanh tra, Trưởng phòng Giáo dục quận căn cứ vào những chứng cứ được xác định thông qua thanh tra đột xuất và mời Ban giám hiệu đến để giải quyết vụ việc. Sau buổi làm việc có thê ban hành Quyết định kết luận thanh tra. Trong kết luận thanh tra phải xác định rõ tính chất, mức độ sai phạm trong từng khoản phí, lệ phí,... làm căn cứ để làm Báo cáo Uỷ ban nhân dân ra quyết định xử phạt hành chính hoặc giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu là xử phạt hành chính thì Uỷ ban nhân dân ra quyết định xử phạt hành chính theo quy định của Nghị định số 106/2003/NĐ-CP và kèm theo là trách nhiệm hoàn trả lại những số tiền mà Nhà trường đã thu trái quy định pháp luật trong những năm qua.
Bước 2, tiến hành xác định trách nhiệm, xử lý kỷ luật giáo viên, thành viên trong Ban giám hiệu
Căn cứ vào những sai phạm trong Quyết định thanh tra đột xuất, Hội đồng trường tiến hành họp đột xuất xác định mức độ sai phạm của từng cá nhân và đề xuất những kiến nghị xử lý lên Phòng Giáo dục và Đào tạo. Trên cơ sở đó, Phòng Giáo dục và Đào tạo tiến hành họp đánh giá mức độ vi phạm của từng cá nhân làm cơ sở để làm Tờ trình Uỷ ban nhân dân quận ra quyết định cách chức, sa thải, chuyển công tác đối với những cá nhân cụ thể. Báo cáo Uỷ ban nhân dân Tp. Hà Nội về việc xử lý vụ việc.
III. KIẾN NGHỊ
Xu hướng phát triển giáo dục và gia tăng trách nhiệm trong quá trình quản lý và hoạt động giáo dục của Nhà trường, dưới sự quản lý, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhân dân là một trong những yêu cầu quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, tính minh bạch, dân chủ,... trong mọi hoạt động của bậc tiểu học. Do vậy, tiểu luận mạnh dạn nêu lên một số kiến nghị cơ bản như:
Thứ nhất, cần thiết trao quyền tự chủ cho các trường tiểu học. Bởi lẽ, tự chủ có vai trò quan trọng trong công tác quản lý giáo dục để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền giáo dục Việt Nam nhằm đáp ứng được yêu cầu của hiện tại cũng như trong tương lai. Cần trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các cơ sở giáo dục nói chung, trong đó có bậc tiểu học nói riêng vì đây là một xu thế chung của thế giới trong việc phát triển giáo dục và là con đường tối ưu để giải phóng nguồn lực của các cơ sở giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, trao quyền tự chủ về tài chính để Nhà trường chủ động sử dụng nguồn tài chính phục vụ các hoạt động của nhà trường. Trong mỗi nhà trường, đội ngũ giáo viên - công nhân viên và học sinh cũng cần thấy vai trò tự chủ của mình, phải có ý thức làm chủ, có thói quen tôn trọng dân chủ, và biết tự khẳng định mình trong tập thể thông qua chất lượng giảng dạy, giáo dục và các nhiệm vụ được giao. Mặt khác, "tự chủ" không có nghĩa là buông lỏng mà vẫn cần có sự kiểm soát chặt chẽ. Vì vậy, các cơ quan quản lý giáo dục phải đủ năng lực quản lý, phải thiết kế cơ chế kiểm soát được quyền lực, kiểm soát được chất lượng và buộc các trường phải có trách nhiệm đối với người học, đối với xã hội.
Thứ hai, thực hiện tốt quy chế dân chủ, nhất là sự tham gia giám sát, chất vấn và đánh giá chất lượng của Hội đồng trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp. Dân chủ trong bàn bạc, thảo luận những vấn đề liên quan đến xây dựng, mua sắm các trang thiết bị dạy học, xây dựng cơ sở vật chất, sử dụng quỹ,... giữa Ban giám hiệu với Hội phụ huynh học sinh, Ban đại diện học sinh là cơ sở để kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của Nhà trường trong quá trình tổ chức, thực hiện nhiệm vụ. Nếu không có sự bình đẳng, không có sự giám sát, đặc biệt là sự giải trình của Ban giám hiệu trước những hội đại diện học sinh ở trường thì những việc làm “mờ ám”, “khuất tất”,... sẽ có điều kiện và cơ hội để phát sinh trong môi trường giáo dục tiểu học.
Thứ ba, cần tiến hành phân cấp nhiệm vụ quản lý các lĩnh vực liên quan đến môi trường giáo dục; đạo đức, phẩm chất nhà giáo,... cho chính quyền cơ sở quản lý. Vì, những nhiệm vụ này hoàn toàn phù hợp và có hiệu quả khi được Uỷ ban nhân dân cấp xã phối hợp với các tổ chức chính trị-xã hội; các Ban đại diện học sinh để phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm môi trường giáo dục, vi phạm đạo đức nhà giáo,...

KẾT LUẬN
          Tóm lại, hoạt động giáo dục và quản lý giáo dục luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau và thống nhất trong mục tiêu mà giáo dục đặt ra. Nếu, hoạt động quản lý được tiến hành thường xuyên, công tâm và kiên quyết thì hoạt động giáo dục sẽ đi vào nề nếp, trật tự và ổn định và mục tiêu của giáo dục sẽ đạt được với chất lượng cao. Ngược lại, nếu hoạt động quản lý buông lỏng, thiếu trách nhiệm,... thì hoạt động giáo dục sẽ nảy sinh những hiện tượng tiêu cực, vi phạm, tuỳ tiện,... làm cho giáo dục không những không đạt được chỉ tiêu đặt ra mà còn làm cho môi trường giáo dục bị “xấu đi” ảnh hưởng trực tiếp đến sản phẩm giáo dục, đến sự ổn định và phát triển của kinh tế-xã hội. Do vậy, để giáo dục Việt Nam thích ứng nhanh với những kinh nghiệm và đòi hỏi quá quá trình hội nhập quốc tế; nhu cầu phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao-nhân lực tri thức góp phần phát triển ổn định và bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thay thế cho nguồn nhân công giá rẻ hiện nay,...thì điều quan trọng và trước hết cần thay đổi cơ chế quản lý, thể chế pháp luật phù hợp và bố trí đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt. Điều này có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn hoạt động quản lý giáo dục; hoạt động giáo dục nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ở nước ta hiện nay.



























DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.
Báo Tuổi trẻ online ngày 31/12/2008.
2.
Luật tổ chức Hội đồng nhân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003.
3.
Luật Giáo dục 2005 số 38/2005/QH11 của Quốc hội ban hành ngày 14/07/2005.
4.
Nghị quyết số 17/NQ-TW ngày 1/8/2007 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
5.
Nghị định của Chính phủ số 57/2002/NĐ-CP ngày 03 tháng 6 năm 2002 “Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí”.
6.
Nghị định 106/2003/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phí, lệ phí.
7.
Nghị định số 14/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
8.
Ngân hàng Thế giới: Phân cấp ở Đông Á-để chính quyền địa phương phát huy tác dụng, Nxb. Văn hoá-Thông tin, Hà Nội, 2005.




[1] Theo Báo Tuổi trẻ online ngày 31/12/2008
[2] Ngân hàng thế giới: Phân cấp ở Đông Á- để chính quyền địa phương phát huy tác dụng, Nxb. Văn Hoá-Thông tin, Hà Nội, tr.146-164.

Thursday, April 7, 2016

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 31

>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 30




MỤC LỤC



Trang
Lời nói đầu
2
I. Tình huống
3
1. Hoàn cảnh ra đời
3
2. Diễn biến tình huống
3
II. Phân tích, xử lý tình huống
7
1. Mục tiêu giải quyết tình huống
7
2. Cơ sở lý luận
8
3. Phân tích tình huống
9
4. Giải quyết tình huống
13
III. Kiến nghị
16
Kết luận
17
Danh mục tài liệu tham khảo
18













LỜI NÓI ĐẦU
          Hơn 20 năm thực hiện nền kinh tế chuyển đổi: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và mới đây là hội nhập kinh tế quốc tế (thành viên của Tổ chức Thương mại Quốc tế-WTO) đã tạo ra nhiểu tiềm năng to lớn cho sự phát triển kinh tế-xã hội ổn định và bền vững; an ninh chính trị, trật tự an toàn được đảm bảo; đời sống của nhân dân ngày càng được nâng cao cả về vật chất và tinh thần;…. Song, những thách thức mang tính nguy cơ luôn tiềm ẩn, đe doạ đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế, truyền thống văn hoá, an ninh chính trị của dân tộc. Một trong những thách thức có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn xuất phát từ hiệu quả quản lý của nền hành chính công truyền thống ở nước ta hiện nay. Điều này đã tạo nên tính thụ động, ỷ lại, thiếu trách nhiệm và tính chịu trách nhiệm trong cơ chế của nền hành chính công truyền thống. Mặt khác, tính năng động của nền kinh tế không được bảo đảm đáp ứng với những quyết sách chính trị; chính sách; chiến lược; tổ chức bộ máy; đội ngũ cán bộ, công chức;… đã kìm hãm sự phát triển trong những năm gần đây. Đặc biệt, trong lĩnh vực quản lý nhà nước về lâm nghiệp, sự phát triển giữa tài nguyên thiên nhiên và nhu cầu khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên rừng để phát triển kinh tế là một ngịch lý trong quy hoạch và phát triển kinh tế-xã hội ở một quốc gia.
          Trong những năm qua, bên cạnh những thành tựu mà Đảng, Nhà nước ta quan tâm phát triển nguồn tài nguyên thiên nhiên rừng theo đúng tính chất, vị trí của nó trong xây dựng và phát triển đất nước. Với mục đích vừa đảm bảo cân bằng hệ sinh thái, vừa là động lực để phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, của địa phương, nhất xoá đói, giảm nghèo cho các vùng đồng bào, dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, một thực trạng thường thấy hiện nay là việc khai thác quá mức; không chú ý đến phát triển bền vững; buông lỏng quản lý;… đã làm cho nhiều cánh rừng tự nhiên biến mất, vùng đất có tiềm năng phát triển rừng trở nên hoang hoá, cây công nghiệp lâu năm không có khả năng khai thác hiệu quả;... dẫn đến những hậu quả về thiên tai, môi trường sinh thái bị ô nhiễm;… tác động xấu đến đời sống của nhân dân. Điều này cho thấy, những bất cập về thể chế pháp luật, chính sách, chiến lược phát triển và khai thác rừng không hợp lý, trong đó nhất là chính quyền địa phương các cấp chưa thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ quản lý của mình đối với các diện tích rừng thuộc đơn vị hành chính lãnh thổ, nên đã để xảy ra tình trạng phá rừng, đốt rừng làm dẫy theo tập tục, cháy rừng,… thậm chí kể cả những trường hợp lợi dụng kẽ hở của các quy định của pháp luật nhằm khai thác trái phép thu lợi cho cá nhân;…
          Trước những thực trạng trên, Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng. Chẳng hạn như: Nghị định số 5/2008/NĐ-CP ngày 14/1/2008 về quỹ bảo vệ và phát triển rừng; Quyết định số 144/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/09/2007 về một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007-2015; Chỉ thị số 334/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 10/03/2009 về tăng cường các biện pháp tổ chức thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng;… nhằm khôi phục, bảo vệ và quản lý nguồn tài nguyên thiên rừng phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường sinh thái. Cùng với những kiến thức lý luận khoa học quản lý nhà nước đã được học, tiểu luận xác định vấn đề: “Quản lý nhà nước về lâm nghiệp ở chính quyền cấp tỉnh” làm nội dung cơ bản để nghiên cứu.
          I. TÌNH HUỐNG
            1. Hoàn cảnh ra đời
          Trước những diễn biến phức tạp của tình trạng phá rừng, nhiều người dân và cán bộ kiểm lâm có tinh thần trách nhiệm vẫn giữ thái độ, lập trường kiên quyết đấu tranh với loại tội phạm nguy hiểm này. Cuối tháng 03 năm 2009, nhận được thông tin tố cáo của các hộ dân sống tại xã Quảng Tân-huyện Tuy Đức-tỉnh Đắk Nông về tình trạng buông lỏng quản lý nhà nước về rừng ở tỉnh Đắk Nông, những kẻ xấu đã lợi dụng chính sách của Nhà nước về xã hội hoá công tác trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc để khai thác trái phép lâm sản. Tổng biên tập Báo nhân dân đã cử phóng viên Quang Anh đến địa bàn để xác minh và nắm tình hình ở địa phương này.
          2. Diễn biến tình huống
          Qua thập nhập thực tế trên địa bàn tỉnh Đắk Nông và làm việc với lãnh đạo Uỷ ban nhân dân tỉnh, huyện, phóng viên Quang Anh đã thu thập được những chứng cứ xác định tình hình quản lý và khai thác rừng theo như đơn thư của bà con như sau: “… Ngày 15-8-2006, UBND tỉnh Đắk Nông đã ban hành Quyết định số 1007/QĐ-CTUBND, về việc cho Công ty Ngọc Thạch thuê 589,1 ha đất tại các Tiểu khu 1515, 1516 thuộc xã Quảng Tân (huyện Tuy Đức), trong đó có 535,4 ha rừng tự nhiên và 53,7 ha đất trống để thực hiện dự án bảo vệ rừng và trồng rừng nguyên liệu. Ngày 30-8-2006, UBND tỉnh Đắk Nông lại ban hành Quyết định số 1097/QĐ-CTUBND điều chỉnh, bổ sung một số điểm của Quyết định 1007. Theo hai quyết định này của UBND tỉnh Đắk Nông, thì hiện trạng khu đất giao cho Công ty TNHH Ngọc Thạch thuê đưa vào quản lý, khoanh nuôi bảo vệ rừng tập trung là 249,3 ha; khoanh nuôi làm giàu rừng là 124 ha và diện tích còn lại khoảng 116 ha để trồng rừng gồm cao su, keo, gió bầu… và trồng cây công nghiệp, đồng cỏ, và xây dựng cơ sở hạ tầng…
Đến tháng 2-2007, Công ty TNHH Ngọc Thạch chính thức nhận biên bản bàn giao thực địa với tổng diện tích là 451,9 ha đất và rừng, trong đó đất có rừng tự nhiên là 416,2 ha và đất không có rừng là 35,7 ha. Mặc dù được tỉnh và các cấp, các ngành ở địa phương tạo điều kiện cho thuê đất chiếm phần lớn là rừng, nhưng do không đủ năng lực và buông lỏng công tác quản lý, bảo vệ rừng, nên chỉ sau hai năm thực hiện dự án đã có 90 ha rừng thuộc lâm phận công ty quản lý bị lâm tặc xóa sổ, thay vào đó là những rẫy sắn của người dân địa phương.
Trước tình trạng rừng do công ty quản lý bị tàn phá nặng nề, sau một thời gian kiểm tra, ngày 20-1-2009 Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đắk Nông đã có báo cáo số 44/BC-KL về kết quả kiểm tra tình hình thực hiện công tác quản lý, bảo vệ rừng của Công ty TNHH Ngọc Thạch, báo cáo nêu rõ: “Công ty TNHH Ngọc Thạch đã không triển khai đúng các biện pháp quy định, để rừng bị phá 88,29 ha. Trong đó, tính đến đầu năm 2009, riêng Hạt kiểm lâm huyện Tuy Đức đã phát hiện 52,6 ha rừng bị phá mà công ty không có biện pháp ngăn chặn kịp thời. Còn riêng Đoàn kiểm tra liên ngành của tỉnh do Chi cục kiểm lâm tỉnh chủ trì cũng đã phát hiện thêm 35,69 ha rừng bị chặt phá, chưa được công ty và các ngành chức năng địa phương thống kê báo cáo…”.  Điu đáng nói là sau khi có kết quả kiểm tra, các ngành chức năng của tỉnh đã thông báo về tình trạng rừng do Công ty nhận quản lý, bảo vệ bị tàn phá nặng nề, nhưng công ty vẫn không có biện pháp quản lý, bảo vệ hiệu quả. Vì vậy, chỉ hơn một tháng sau, đến ngày 23-2-2009, qua kiểm tra, Hạt kiểm lâm huyện Tuy Đức lại phát hiện đã có thêm gần 1,5 ha rừng bị chặt phá… Nguyên nhân chủ yếu để mất rừng là do Công ty Ngọc Thạch đã buông lỏng công tác quản lý, bảo vệ rừng.
Trong những ngày đầu tháng 3, chúng tôi được các cán bộ Hạt Kiểm lâm huyện Tuy Đức đưa đến tận các Tiểu khu 1515, 1516 thuộc lâm phận Công ty TNHH Ngọc Thạch quản lý, vừa đến nơi đã bắt gặp cảnh tượng hàng chục người dân ngang nhiên vào rừng phát, dọn, đốt cây chiếm đất sản xuất ngay trên khu vực rừng do công ty quản lý. Trong khi đó, không thấy bóng dáng lực lượng bảo vệ rừng của công ty ở đâu. Khi chúng tôi thắc mắc về việc buông lỏng công tác quản lý, bảo vệ rừng của công ty, thì được các anh ở Hạt Kiểm lâm huyện và cán bộ thôn dẫn đường cho biết: không phải bây giờ mà kể từ khi được tỉnh cho thuê đất triển khai thực hiện dự án bảo vệ rừng và trồng rừng nguyên liệu đến nay, có bao giờ thấy người của công ty đâu mà bảo vệ. Quả đúng như vậy, khi chúng tôi đến trạm bảo vệ rừng số 1 của Công ty đặt ở đầu thôn Đác M’rê thì thấy cửa đóng im ỉm, chung quanh cỏ dại mọc um tùm. Đi sâu thêm vào rừng, nhiều cánh rừng già hàng trăm năm tuổi nay chỉ còn lại vài cây thưa thớt, xen lẫn với các rẫy sắn. Còn những khoảnh rừng nằm sát mặt đường, địa thế bằng phẳng thì cây cối vừa bị chặt phá ngã ngổn ngang, thân cây bị đốt cháy đen lẹm. Vào sâu hơn nữa, sát cánh rừng già là trạm bảo vệ rừng số 2 của công ty. Nhưng cai quản cả khu vực này chỉ có một mình bà Bùi Thị Dung, năm nay đã 60 tuổi. Theo bà Dung thì lâu nay ở trạm bảo vệ rừng này chỉ có bà cùng với chồng là ông Phan Văn Thủy, đã 70 tuổi; ngoài ra còn có thêm hai thanh niên nữa được Công ty thuê giữ rừng, nhưng hiện nay họ đi đâu bà không biết…
Tìm hiểu thực tế tình hình sản xuất của Công ty TNHH Ngọc Thạch, chúng tôi được nhiều người dân sinh sống chung quanh khu vực đất của công ty cho biết: đến nay công ty chỉ mới trồng được khoảng 10 ha cao su, còn không thấy trồng thêm cây gì nữa. Ngay cả chính quyền địa phương cũng không biết công ty đã và đang triển khai những gì trên địa bàn. Chủ tịch UBND xã Quảng Tân Châu Phúc Dũng, cho biết: “Lâu nay xã không biết Công ty đã làm được những gì trên diện tích đất được cho thuê và hiện trụ sở đóng ở đâu xã cũng chịu. Trong thời gian qua, khi phát hiện những vụ phá rừng trên diện tích rừng của công ty, xã có điện thoại báo cho đại diện của công ty nhưng đâu có liên lạc được”. Thậm chí ngay cả vợ chồng bà Dung ông Thủy, người được công ty thuê giữ rừng cũng chỉ biết là có ông Hậu thuê, rồi trả tiền công cho hai vợ chồng với mức 3,4 triệu đồng/tháng. Theo bà Dung thì trước đây hàng tháng vợ chồng bà vẫn nhận tiền đầy đủ lương, còn hai tháng gần đây chỉ nhận được tiền tạm ứng mà thôi. 
Không chỉ buông lỏng công tác quản lý, bảo vệ rừng, Công ty TNHH Ngọc Thạch còn thiếu trách nhiệm phối hợp với các ngành chức năng địa phương để giải quyết công việc. Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm huyện Tuy Đức Lê Đình Vũ bức xúc: Để khách quan trong công tác kiểm tra tình hình quản lý, bảo vệ rừng của công ty, huyện đã thành lập đoàn công tác liên ngành và mời Công ty cử người tham gia, nhưng công ty cố tình không cử người tham gia đoàn. Nhiều trường hợp công ty còn bất hợp tác với ngành chức năng, chẳng hạn như trong chương trình phối hợp với Hạt kiểm lâm huyện để kiểm tra về tình trạng phá rừng trái phép, công ty không cử người đủ thầm quyền tham gia, và khi làm việc xong cán bộ của công ty còn không thèm ký vào biên bản. Không chỉ vậy, nhiều lúc Hạt Kiểm lâm huyện muốn làm việc với công ty nhưng không mấy khi liên lạc được.
Trong khi đó, tại quyết định cho thuê đất của UBND tỉnh Đắk Nông đã nêu rõ: “Công ty TNHH Ngọc Thạch có trách nhiệm sử dụng đúng mục đích, đúng ranh giới khu rừng cho thuê; chấp hành nghiêm chỉnh Luật Đất đai và Luật Bảo vệ rừng. Đối với diện tích rừng công ty được giao khoanh nuôi, phải quản lý, bảo vệ nghiêm ngặt, tuyệt đối không để xảy ra phá rừng trái phép, nếu để xảy ra tình trạng phá rừng trái phép thì UBND tỉnh sẽ thu hồi lại diện tích đã cho thuê…”. Thế nhưng với những gì mà Công ty TNHH Ngọc Thạch đã và đang làm dường như đi ngược lại với quyết định cho thuê đất của UBND tỉnh Đắk Nông. Cụ thể là chỉ sau hai năm được UBND tỉnh Đắk Nông cho thuê đất triển khai dự án quản lý, bảo vệ rừng thì đã có 90 ha rừng do công ty quản lý đã bị xóa sổ. Nhưng các ngành chức năng của tỉnh Đắk Nông vẫn chưa vào cuộc kiểm tra, xem xét trách nhiệm của công ty để có biện pháp xử lý. Nếu cứ để tình trạng này kéo dài thì không ai dám chắc hàng trăm ha rừng do công ty quản lý sẽ còn tồn tại.”
II. PHÂN TÍCH, XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Mục tiêu giải quyết tình huống
Quả thật, tình huống trên cho thấy những vấn đề đặt ra không chỉ đối với chính quyền địa phương các cấp của tỉnh Đắk Nông mà còn là trách nhiệm đối với các tổ chức chính trị-xã hội; tổ chức đoàn thể, quần chúng và nhân dân phải có nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò, tác dụng của rừng đối với môi trường, nguồn lực vật chất,... của Nhà nước và cộng đồng dân cư. Phải chăng, chính sách pháp luật của Nhà nước ta hiện nay chưa đủ mạnh để trừng trị và quản lý nguồn tài nguyên rừng trước những hành vi hám lợi của lâm tặc, sự xuống cấp về đạo đức và yếu về kỹ năng, trình độ chuyên môn của một bộ phận cán bộ, công chức, viên chức có chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền trên địa bàn.
Là những câu hỏi không dễ có thể trả lời bằng một bản báo cáo, tờ trình,... mang tính thủ tục hành chính hay chỉ là những sự giải thích qua loa, đại khái của cơ quan chức năng về những khó khắn, vướng mắc của thể chế pháp luật, nguồn lực,... mà cần phải được nghiên cứu, đánh giá nhằm chỉ rõ những nguyên nhân cơ bản làm nảy sinh những hiện tượng, biểu hiện thờ ơ, bàng quan, vô trách nhiệm,... của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền hay của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức có liên quan,... Đồng thời, vạch rõ được những cơ sở lý luận vững chắc cho nền tảng của hoạt động quản lý nhằm đề ra phương hướng, giải pháp tối ưu cho việc giải quyết thực trạng của tình huống đã nêu. Có lẽ, đây cũng chính là mục tiêu chung của những địa phương có rừng cần phải quản lý, cần phải kịp thời chấn chỉnh để một mặt bảo vệ và phát triển rừng bền vững đáp ứng các yêu cầu về môi trường, cảnh quan thiên nhiên, tài nguyên,... Mặt khác, phục vụ cho nhu cầu phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương, xoá đói giảm nghèo cho các gia đình dân tộc, thiểu số, vùng sâu, vùng xa theo chính sách xã hội phát triển rừng mà Đảng và Nhà nước ta đã đề ra.
2. Cơ sở lý luận
Những năm qua Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng và đã thu được những thành tựu đáng kể trong phát triển kinh tế-xã hội và bảo vệ môi trường, đời sống của đồng bào các dân tộc không ngừng được cải thiện về cả vật chất lẫn tinh thần. Trong bối cảnh hiện nay, đất nước đang thực hiện nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, cùng với mở rộng giao lưu hội nhập quốc tế, diện tích rừng ở các dân tộc ở miền núi đang có nguy cơ bị tàn phá trong quá trình phát triển. Ở miền núi, mỗi năm có hàng ngàn héc-ta rừng bị phá huỷ, trong khi đó tốc độ trồng rừng, phát triển rừng còn chậm, hiện nay độ che phủ rừng mới chỉ đạt khoảng 30%. Do suy thoái môi trường sống, đặc biệt do mất rừng và do khai thác quá mức, nên nhiều loại động vật, thực vật đang bị đe doạ, có nguy cơ bị tuyệt chủng. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên khoáng sản chưa được kiểm soát chặt chẽ đã gây ra tình trạng ô nhiễm và làm biến đổi môi trờng sinh thái ở một số vùng miền núi. Năng lực quản lý và bảo vệ môi trường ở miền núi kém hiệu lực, ý thức giữ gìn bảo vệ môi trường chưa cao cũng là những thách thức to lớn đối với phát triển bền vững miền núi. Hiện nay, các cơ quan ra quyết định, các nhà quản lý, các doanh nghiệp và đồng bào các dân tộc ở miền núi nhận thức về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững tài nguyên rừng còn chưa thật toàn diện và đầy đủ. Với mục tiêu phát triển bền vững tài nguyên rừng, cân đối giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội và bền vững môi trường. Để đạt được mục tiêu đó, quá trình phát triển miền núi cần phải bảo đảm được những yêu cầu cơ bản:
- Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm, là phương tiện chủ yếu để nâng cao mức sống đồng bào dân tộc. Tăng trưởng kinh tế miền núi phải dựa trên nguyên tắc hài hoà xã hội, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và bảo vệ môi trường lâu bền.
- Thực hiện tốt công tác xã hội hoá rừng theo đúng chủ trương, chính sách của Đảng, Pháp luật của Nhà nước nhằm động viên đồng bào các dân tộc, thiểu số tham gia phát triển rừng vừa đảm bảo ổn định kinh tế gia đình vừa bảo vệ và phát triển rừng bền vững.
- Nâng cao năng lực quản lý của cơ quan chức năng, trong đó chính quyền cấp tỉnh cần chủ động tổ chức, quán triệt các quy định của pháp luật về quản lý và bảo vệ rừng; tiến hành tổ chức tập huấn kỹ năng, kỹ thuật cho cán bộ kiểm lâm, công chức chuyên môn để kịp thời chuyển giao kỹ thuật, máy móc cho bà con đồng bào dân tộc, thiểu số khi nhận phát triển và quản lý rừng.
Với những yêu cầu trên, là cơ sở lý luận quan trọng nhằm đảm bảo quản lý, sử dụng và phát triển bền vững nguồn tài nguyên rừng ở nước ta hiện nay.
3. Phân tích tình huống
Qua mô tả của tình huống cho thấy, những Quyết định giao đất, giao rừng của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông còn chưa thể hiện hết trách nhiệm; hiện tượng cố tình buông lỏng quản lý, không chấp hành các nội dung mà Công ty TNHH Ngọc Thạch đã cam kết với Uỷ ban nhân dân tỉnh;... vô hình dung đã tạo ra cơ hội cho những kẻ phá rừng tiến hành các hành vi của mình một cách ngang nhiên, đôi khi có phần được hợp pháp hoá. Để làm sáng tỏ các hành vi trên, tiểu luận đánh giá như sau:
- Xét về cơ cấu tổ chức chính quyền (Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông) và cơ quan chuyên môn Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh theo quy định tại các điều 88 và 102 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003; Điều 8, khoản 6 Nghị định số 13/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã xác định cơ chế quản lý của Uỷ ban nhân dân tỉnh và Sở Nông nghiệp đối với các nhiệm vụ, thẩm quyền được giao trong quản lý rừng “(b) Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản lý nhà nước về: nông nghiệp; lâm nghiệp; diêm nghiệp;…”[1]. Nếu theo các quy định này, cơ quan chuyên môn chỉ với tính cách là cơ quan tham mưu giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện các hoạt động như lựa chọn tổ chức, cá nhân có khả năng để giao dự án trồng, quản lý và phát triển rừng; tham mưu xây dựng các chính sách; các văn bản pháp quy và xây dựng, tổ chức lực lượng quản lý được giao;… đã tạo ra tính khó xác định trách nhiệm và sự song trùng trực thuộc trong quan hệ cấp trên, cấp dưới. Trong tình huống trên, để xác định được trách nhiệm thuộc về ai khi lựa chọn Công ty TNHH Ngọc Thạch làm chủ đầu tư trong các dự án trồng rừng và bảo vệ rừng thì quả thật không đủ cơ sở xác định. Nếu cho rằng, Sở Nông nghiệp và phiển nông thôn tỉnh Đắk Nông thì Sở chỉ là cơ quan chuyên môn tham mưu không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định, còn nếu xác định Uỷ ban nhân dân tình trách nhiệm giữa tập thể Uỷ ban và cá nhân chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh là là một khoảng cách “xa vời” nên khó quy trách nhiệm và tính phải chịu trách nhiệm. Mặt khác, sự phân cấp hiện nay mới chỉ dừng lại ở phân cấp chức năng-tức là Chính phủ phân cấp cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh trên cơ sở đánh giá năng lực, thực tiễn của các quận, huyện, xã,… để tiếp tục phân cấp, nhưng trên thực tế sự phân cấp của tỉnh chỉ mang tính hình thức tức là phân cấp nhiệm vụ không gắn với phân cấp nguồn lực (ngân sách, tài chính, vật chất) hoặc chỉ là những phân cấp dè dặt chưa có sự mạnh dạn giao phó nên không tạo ra được tính đồng bộ trong việc xem xét, quy hoạch, lựa chọn tổ chức, cá nhân, bố trí lực lượng, phương tiện, trang thiết bị phục vụ quá trình phát triển và bảo vệ rừng bền vững. Một khía cạnh khác, sự mâu thuẫn quản lý giữa các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân như: Sở Nông nghiệp với sở Tài nguyên môi trường;… là nguyên nhân nảy sinh những tồn tại không đáng có về sự ỷ lại, cát cứ trong việc quản lý. Thông thường, các sở và các địa phương thường thực hiện theo nguyên tắc “việc ai nấy làm” nên cho dù có phát hiện vi phạm nhưng không thuộc chức năng của mình thì cũng bỏ mặc hoặc những vấn đề quản lý không xác định được danh giới trách nhiệm của cơ quan thì thường có ý thức “đùn đẩy” trách nhiệm;…
- Việc ra quyết định và bàn giao đất rừng của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông vào thời điểm thời điểm tháng 8/2006 cho Công ty TNHH Ngọc Thạch là không đúng thẩm quyền và đề án phát triển rừng mà Chính phủ giao cho Uỷ ban nhân dân. Bởi lẽ, căn cứ vào Quyết định số 66/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 15/7/2007 về việc phê duyệt đề án, sắp xếp đổi mới nông, lâm trường quốc doanh thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông xác định Công ty TNHH Ngọc Thạch không thuộc đối tượng được giao quản lý rừng tự nhiên. Như vậy, Nếu là rừng tự nhiên chỉ có lâm trường quốc doanh mới được nhận bảo vệ, còn với đất rừng dùng trồng cây dự án được phép giao cho cá nhân, tổ chức thực hiện dự án. Sự khác biệt về đất rừng tự nhiên và đất trồng rừng đã bị Sở Nông nghiệp và Uỷ ban nhân dân dân tỉnh “phù phép” trong Quyết định của mình là giao xen lẫn một số đất có rừng tự nhiên với đất dùng để trồng cây keo, gió bầu, cao xu của Công ty TNHH Ngọc Thạch. Như vậy, sự tắc trách trong phân loại rừng, đánh giá vị trí, tính chất rừng,… của Sở Nông nghiệp để tham mưu cho Uỷ ban ra các quyết định hợp lý, hợp pháp ở Đắk Nông không được làm triệt để và tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.
- Xét về chức năng nhiệm vụ, cơ chế phối hợp của cơ quan kiểm lâm trong việc bảo vệ rừng được phân công mà tình huống trên nêu cho thấy: Tính thụ động của các cấp, ngành trong tỉnh Đắk Nông ở việc để hành vi hoang hoá đất trồng rừng; phá rừng tự nhiên liên tiếp và ngang nhiên. Theo Quyết định số 22/2008/QĐ-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 28/01/2008 về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục kiểm lâm tại Điều 2, khoản 6: Về bảo vệ rừng: “(c) Chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc tổ chức thực hiện các biện pháp chống chặt, phá rừng trái phép và các hành vi vi phạm pháp luật trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng và quản ý lâm sản;..” thì không hiểu sự chỉ đạo của Cục kiểm lâm đối với Chi cục tỉnh, hạt kiểm lâm huyện và chính quyền cơ sở trong việc bảo vệ số diện tích rừng bị phá thuộc quản lý của Công ty TNHH Ngọc Thạch. Mặc dù, đã có sự kiểm tra của Chi cục kiểm lâm; rồi đến những phát hiện của Hạt kiểm lâm huyện Tuy Đức,… trong 2 năm nhưng không thấy động thái của Cục kiểm lâm và Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông. Không lẽ, đất rừng và rừng đã giao cho Công ty TNHH Ngọc Thạch thì chính quyền không có quyền xử lý, can thiệp và đưa ra các biện pháp kịp thời để bảo vệ rừng ? Đây là một câu hỏi lớn đặt ra đối với chính quyền tỉnh ĐắK Nông trong chiến lược phát triển rừng ở Việt Nam hiện nay. Cơ chế phối hợp khi phát hiện ra sự lãng phí và thờ ơ của các cơ quan kiểm lâm và dân quân tự vệ không được tổ chức tiến thành theo đúng quy định của pháp luật nên tình trạng trên vẫn có thể tiếp tục xảy ra trong số diện tích rừng còn lại thuộc quản lý của Công ty TNHH Ngọc Thạch.
Mặt khác, những chế tài xử lý, trách nhiệm xử lý theo quy định tại Nghị định 159/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/10/2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản thì việc xử lý cá nhân, tổ chức vi phạm đến rừng nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự còn ở mức quá nhẹ. Chẳng hạn, mức cao nhất của hành vi phá rừng mới chỉ ở khoảng từ 1 triệu đồng đến 3 triệu đồng; hoặc đối với tổ chức tính 1000 đồng/1m2 rừng. Như vậy, biện pháp chính mà Nhà nước đưa ra không đủ sức để răn đe các hành vi vi phạm hành chính trong lâm nghiệp. Điều này đồng thời cũng khẳng định rằng, tại sao Công ty TNHH Ngọc Thạch sau khi nhận số diện tích rừng và đất trống trên lại chỉ thuê một vài người dân trông nom ? hay đằng sau những vụ phá rừng này là hành vi của “lâm tặc” hay của chính “Công ty” ? Sự mờ ám này là lý do lý giải tại sao Công ty cũng không có mặt hoặc chí ít có động thái tích cực trong ngăn chặn nạn phá rừng do Công ty quản lý. Rõ ràng, mục đích để hoang hoá và bị phá rừng của Công ty là có chủ đích trong việc lợi dụng chính sách, kẽ hở của pháp luật để trục lợi.
          4. Giải quyết tình huống
          Để giải quyết tình trạng trên có thể có nhiều cách xử lý và lựa chọn khác nhau tuỳ thuộc vào từng góc độ tiếp cận. Trên cơ sở lý luận về quản lý nhà nước và thực tiễn kinh nghiệm công tác của bản thân trong lĩnh vực lâm nghiệp, tiểu luận mạnh dạn đề xuất các phương án giải quyết như sau:
Phương án 1: Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết định yêu cầu Công ty TNHH Ngọc Thạch phải có biện pháp hữu hiện để quản lý và bảo vệ rừng. Phương án này có các ưu điểm như: phù hợp với chủ trương xã hội hoá lâm nghiệp trên địa bàn về chính sách ưu đãi đối với các cá nhân, tổ chức nhận đất trồng rừng; tuân thủ các thủ tục hành chính về quản lý và bảo vệ rừng;… Song, phương án này có nhiều hạn chế đối với trường hợp của Công ty TNHH Ngọc Thạch, bởi vì đã nhiều lần các cơ quan chức năng như Chi cục kiểm lâm tỉnh Đắk Nông; Hạt kiểm lâm huyện Tuy Đức yêu có biên bản vi phạm và yêu cầu Công ty có biện pháp quản lý nhưng thực tế tình trạng phá rừng, khai thác lâm sản trái phép vẫn không giảm và có chiều hướng tăng. Như vậy, nếu thực hiện phương án này thì sẽ mất nhiều thời gian để Công ty nghiên cứu, khảo sát và xây dựng biện pháp bảo vệ, quản lý hoặc các lý do mà Công ty có thể đưa ra lúc này là nguồn lực (bao gồm nhân lực và vật lực) để bao biện cho tình trạng khó kiểm soát và kiểm soát hiệu quả số rừng tự nhiên còn lại.
Phương án 2: Uỷ ban nhân dân tỉnh ĐắK Nông ra quyết định đình chỉ và thu hồi diện tích rừng và đất trồng rừng đã giao cho Công ty TNHH Ngọc Thạch. Đây là phương án có khả năng khắc phục được các nhược điểm của phương án trên như: thiếu chế tài nghiêm để xử lý; tránh tình trạng “vòng vo” của Công ty TNHH Ngọc Thạch. Đặc biệt, phương án này hạn chế tối đa sự phá hoại và hoang hoá số diện tích rừng tự nhiên và diện tích đất trồng rừng hiện đang cần được bảo vệ và quản lý; đảm bảo được mục đích phát triển và quản lý rừng mà nhà nước và chính quyền địa phương đặt ra;…
          Để thực hiện phương án này có hiệu quả cần có sự phối hợp và tiến hành các hoạt động cụ thể của nhiều cơ quan có liên quan. Đồng thời, tuân thủ triệt để các nguyên tắc khoa học và các yêu cầu đặt ra đối với quy trình, thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý nhà nước về lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Các bước tiến hành cụ thể cần xác định:
          Bước 1: Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông cần họp thường trực Uỷ ban và Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tiến hành ban hành Quyết định yêu cầu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiến hành xây dựng kế hoạch, dự kiến lực lượng chuyên ngành, phối hợp tiến hành thanh tra, kiểm tra đánh giá mức độ vi phạm của Công ty TNHH Ngọc Thạch đối với diện tích rừng và đất trồng rừng được giao. Hoặc cũng có thể ban hành Chỉ thị giao cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, tổ chức tiến hành và thực hiện theo yêu cầu.
          Căn cứ vào Quyết định này (hoặc Chỉ thị), Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tiến hành ra Quyết định thành lập đoàn thanh tra do Chi cục kiểm lâm chủ trì, trong đó xác định sự tham gia của Hạt kiểm lâm các huyện; lực lượng dân quân tự vệ và cơ quan công an; các chuyên viên có chuyên môn được trưng tập; xác định ngày, giờ tiến hành thanh tra; địa điểm thanh tra; vật chất bảo đảm cho thanh tra nhằm đánh giá mức độ thực trạng diện tích rừng từ khi bàn giao cho Công ty TNHH Ngọc Thạch cho đến nay.
          Tiến hành thanh tra đánh giá mức độ, khi thanh tra cần xác minh, đánh giá thực trạng theo tiêu chí so sánh trước khi bàn giao và sau khi bàn giao; tỷ lệ phần trăm đất rừng tự nhiên bị mất; mức độ đất hoang hoá;… có sự chứng kiến và xác nhận của chính quyền địa phương cơ sở và Hạt kiểm lâm huyện và đại diện Công ty TNHH Ngọc Thạch. Biên bản thanh tra thể hiện đầy đủ các chứng cứ (kể cả ảnh chụp), ý kiến đánh giá mức độ của các chuyên gia được trưng tập; ý kiến của chính quyền cơ sở làm cơ sở cho việc đề xuất mức độ xử lý.
          Trên cơ sở biên bản thanh tra Giám đốc Sở Nông nghiệp căn cứ vào các điều kiện thực tế ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thành quy định hiện hiện và làm Tờ trình báo cáo với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắc Nông. Đối với quyết định xử phạt vi phạm hành chính, Giám đốc Sở Nông nghiệp yêu cầu Ban quản trị Công ty (Giám đốc Công ty) lên để giải quyết theo Quyết định xử phạt hành chính nếu 3 lần triệu tập không có mặt, Giám đốc Sở ban hành Quyết định cưỡng chế xử phạt vi phạm hành chính theo phương thức trừ tiền tại tài khoản của Công ty ở Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh.
          Bước 2: Chủ tịch Uỷ ban căn cứ vào các kết luận của biên bản thanh tra có thể tiến hành các thủ tục sau:
          Một là, tiến hành mời Ban quản trị (Giám đốc) Công ty TNHH Ngọc Thạch đến Uỷ ban nhân dân để làm việc về khả năng và năng lực nhận đầu tư theo quy hoạch và kế hoạch trước đây mà Công ty trình Uỷ ban nhân dân. Trên cơ sở đưa ra những chứng cứ chứng minh khả năng của Công ty TNHH Ngọc Thạch đối với dự án quản lý và bảo vệ rừng tự nhiên, quỹ đất trồng rừng. Nếu đại diện hợp pháp của Công ty không có mặt, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh có quyền ra Công văn thông báo đánh giá mức độ vi phạm, và khả năng của Công ty.
          Hai là, sau thời hạn 30 ngày nếu Công ty không giải trình về phương án, giải pháp của mình bằng văn bản cho Uỷ ban nhân dân thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh ra Quyết định đình chỉ việc quản lý, sử dụng, khai thác, quản lý và bảo vệ rừng đối với số diện tích mà Uỷ ban nhân dân đã giao theo Quyết định số 1007/QĐ-CTUBND ngày 15/8/2006 và Quyết định số 1097/QĐ-CTUBND ngày 30/8/2007 và ban hành Quyết định thu hồi số diện tích rừng và đất trồng rừng đã giao cho Công ty quản lý và sử dụng.
          Như vậy, số diện tích rừng sẽ được thu hồi. Song vấn đề đặt ra với Uỷ ban nhân dân tỉnh là phải đảm bảo để các diện tích đó được quản lý và bảo vệ tránh tình trạng phá rừng tiếp tục xảy ra. Để đáp ứng yêu cầu này, căn cứ vào các Nông trường lầm nghiệp và Công ty một thành viên theo đề án mà Chính phủ đã có quyết định phê duyệt để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết định giao quản lý và bảo vệ hoặc tiến hành đấu thầu để lựa chọn chủ đầu tư có năng lực theo quy định của pháp luật.
          III. KIẾN NGHỊ
          Qua phân tích đánh giá tình huống quản lý nhà nước về giao đất rừng và quản lý rừng theo chủ trương xã hội hoá chính sách phát triển rừng nhằm xoá đói giảm nghèo ở tỉnh Đắk Nông, bản thân tôi nhận thấy còn nhiều vấn đề bất cập từ thể chế pháp luật, chính sách và năng lực quản lý hiện hành ở các chính quyền địa phương nói chung, trong đó có tỉnh Đắk Nông nói riêng. Để thực sự phát huy hiệu quả của hoạt động quản lý, tạo môi trường pháp lý ổn định và trở thành động lực để giúp các cá nhân, tổ chức thực hiện tốt các chương trình, dự án được giao, tiểu luận xin kiến nghị một số vấn đề như sau:
          Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật và chương trình khoa học kỹ thuật lâm nghiệp trên địa bàn địa phương, nhất là các vùng dân tộc thiểu số. Việc phổ biến chính sách, chủ trương và pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ, khai thác và phát triển rừng là kênh cung cấp thông tin hiệu quả giúp cá nhân, tổ chức có nhận thức đúng đắn, đầy đủ về chủ trương, đường lối và ý nghĩa tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát triển tài nguyên rừng nói chung và của địa phương nói riêng. Đồng thời, tổ chức triển khai tập huấn, hỗ trợ khoa học kỹ thuật giúp các gia đình có kinh nghiệm trong việc gây trồng, chăm sóc và bảo vệ những diện tích đất và rừng được chính quyền giao cho quản lý, sử dụng và khai thác. Tuy nhiên, việc tổ chức tuyên truyền phải tiến hành thường xuyên, thông qua nhiều kênh khác nhau như phát thanh, truyền hình tỉnh kết hợp với các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể; ấp, bản;… Nhằm làm chuyển biến về nhận thức của người dân đối với công tác quản lý, bảo vệ rừng, tài nguyên, môi trường sinh thái.
          Hai là, kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm quy định về lâm nghiệp trên địa bàn. Việc “buông lỏng quản lý”, xử lý thiếu kiên quyết là nguyên nhân làm nảy sinh các hành vi vi phạm có tính dây chuyền. Do vậy, sự kiên quyết của chính quyền địa phương là biện pháp hữu hiệu để giáo dục, dăn đe những hành vi vi phạm và tư tưởng vi phạm của lâm tặc trên địa bàn.
          Ba là, đẩy mạnh công tác phối hợp lực lượng giữa lực lượng kiểm lâm và lực lượng dân quân tự vệ trong công tác bảo vệ rừng. Phối hợp lực lượng đòi hỏi phải được tiến hành, tổ chức thực hiện theo Quyết định số 39/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/03/2009 về việc ban hành quy chế phối hợp giữa lực lượng kiểm lâm và lực lượng dân quân tự vệ trong công tác bảo vệ rừng nhằm đảm bảo thường xuyên bám nắm, xử lý nhanh và hiệu quả các trường hợp vi phạm các quy định về quản lý và bảo vệ rừng.
          Với những đề xuất trên, cùng với những phương án giải quyết chắc chắn tình trạng “buông lỏng quản lý rừng” ở tỉnh Đắk Nông sẽ không còn là nguyên nhân nảy sinh tình trạng phá rừng tràn lan và công khai, góp phần xây dựng địa phương tiến nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá dựa trên thế mạnh địa lý tự nhiên về tài nguyên thiên nhiên.
KẾT LUẬN
          Lâm nghiệp là một ngành kinh tế-kỹ thuật đặc thù bao gồm tất cả các hoạt động gắn liền với hoạt động sản xuất hàng hoá và dịch vụ từ rừng như: các hoạt động bảo vệ, gây trồng, khai thác, vận chuyển, sản xuất, chế biến lâm sản và các dịch vụ môi trường có liên quan đến rừng; đồng thời ngành lâm nghiệp có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, bảo tồn đa dạng sinh học, xoá đói, giảm nghèo, đặc biệt cho người dân miền núi góp phần ổn định xã hội và an ninh quốc phòng. Do vậy, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực lâm nghiệp là một nhu cầu tất yếu khách quan, một mặt vừa nhằm đảm bảo ổn định hoạt động của ngành lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh, mặt khác tạo ra động lực cho việc phát triển các thế mạnh của chính quyền địa phương, người dân địa phương tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước đối với sự phát triển các hoạt động, dịch vụ từ lâm nghiệp.
         









DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.
Báo Nhân dân điện tử.
2.
Chỉ thị số 334/CT-TTg ngày 10/03/2009 về tăng cường các biện pháp tổ chức thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng.
3.
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003.
4.
Nghị quyết số 17-NQ/TW, Hội nghị lần thứ  năm Ban chấp hành Trung ương Đảng  khoá X , ngày 1/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước.
5.
Nghị định 159/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/10/2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản.
6.
Nghị định số 13/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
7.
Nghị định số 5/2008/NĐ-CP ngày 14/1/2008 về quỹ bảo vệ và phát triển rừng.
8.
Quyết định số 66/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 15/7/2007 về việc phê duyệt đề án, sắp xếp đổi mới nông, lâm trường quốc doanh thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông.
9.
Quyết định số 144/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 10/09/2007 về một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007-2015.
10.
Quyết định số 22/2008/QĐ-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 28/01/2008 về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục kiểm lâm.
11.
Quyết định số 39/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 09/03/2009 về việc ban hành quy chế phối hợp giữa lực lượng kiểm lâm và lực lượng dân quân tự vệ trong công tác bảo vệ rừng.



[1] Trích Điều 8 khoản 6 điểm b Nghị định số 13/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 30



 

MỞ ĐẦU
Chính sách xã hội hoá giáo dục và những đổi mới trong phương thức quản lý nhà nước về giáo dục; cung ứng dịch vụ giáo dục cho xã hội công dân trong những năm qua đã đạt được những tiến bộ vượt bậc: Nhận được sự quan tâm đầu tư cho giáo dục từ nhiều phía, nhằm xây dựng nguồn nhân lực tri thức có chất lượng cao đáp ứng những đòi hỏi phát triển bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Bên cạnh đó, vẫn còn tồn tại những cơ hội và thách thức đối với hệ thống giáo dục nước ta hiện nay. Trong đó, sự chậm đổi mới, thay đổi cách thức, biện pháp quản lý nhà nước, nhất là về thể chế, cơ cấu tổ chức,... đã làm nảy sinh những nguy cơ về sự tụt hậu của giáo dục, các căn bệnh thành tích; các tiêu cực và sự xuống cấp về phẩm chất đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, viên chức ngành giáo dục ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả và môi trường giáo dục.
Thực tiễn cho thấy, những vụ tai tiếng của ngành Giáo dục và đào tạo trong thời gian qua khá phổ biến trên nhiều mặt, đặc biệt là các vi phạm liên quan đến chế độ thu phí, lệ phí,... và sử dụng quỹ có liên quan đến tài chính ở các trường tiểu học trong hệ thống giáo dục quốc dân, như: những vụ tiêu cực liên quan đến cán bộ quản lý như vụ “chạy trường” ở trường THCS Lê Quý Đôn, thành phố Hồ Chí Minh; vụ thu quỹ không đúng quy định, chi sai mục đích ở trường THCS Gò Vấp; các tố cáo liên quan đến việc sử dụng và chi tiêu tiền không đúng quy định của Nhà nước, của Bộ, ngành Giáo dục hay tình trạng lộn xộn trong việc thu tiền đầu năm học ở nhiều trường học;... là những hiện tượng đang được dư luận và xã hội quan tâm. Điều này chứng tỏ, sự thụ động trong quản lý dẫn đến buông lỏng quản lý, bỏ mặc hay bàng quan,... trong quản lý nhà nước về giáo dục nói chung và giáo dục tiểu học nói riêng ở nước ta. Mặt khác, tính song trùng trực thuộc đã tạo ra những mâu thuẫn, kẽ hở,... trong việc xác định trách nhiệm quản lý và tính phải chịu trách nhiệm quản lý của một nền công vụ không rõ ràng với những trở ngại trong việc việc thanh tra, kiểm tra, xử lý những biểu hiện tiêu cực trên.
Để thực hiện tốt chủ trương xã hội hoá giáo dục mà Đảng ta đã đề ra trong điều kiện hội nhập quốc tế và nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý nhà nước là một đòi hỏi mang tính tất yếu khách quan, theo tinh thần Nghị quyết số 17/NQ-TW ngày 1/8/2007 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước trong những năm tới, cùng với những kiến thức lý luận khoa học về quản lý nhà nước được học tập tại lớp chuyên viên chính và với khả năng thực tiễn công tác của bản thân, tiểu luận xác định vấn đề: “Trách nhiệm của quản lý nhà nước đối với việc thu sai phí, lệ phí,.... ở trường tiểu học” làm nội dung cơ bản để nghiên cứu.
I. TÌNH HUỐNG
1. Hoàn cảnh ra đời
Tình hình “lạm thu, loạn thu” năm học nào cũng tái diễn ở không ít các trường phổ thông, trong đó có tiểu học, gây khó khăn cho nhiều gia đình học sinh và gây bất bình trong dư luận. Năm học này, tình hình kinh tế khó khăn vì lạm phát, nhiều gia đình phải vất vả lắm mới lo được cho con đi học. Song, nỗi lo về những “khoản” phải đóng góp của các bậc phụ huynh khi đi đăng ký học cho con em họ, không phải là không có căn cứ khi các Hiệu trưởng nhà trường vẫn mạnh tay “chặt chém” với nhiều hình hình thức và thủ đoạn ngày càng tinh vi hơn.
Câu chuyện xảy ra ngay trên địa bàn quận Thanh Xuân-Tp Hà Nội, khi cha mẹ học sinh đến Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng để đăng ký học cho con. Sự xuất hiện của hàng loạt những khoản thu về lệ phí, phí,... của các loại dịch vụ do Nhà trường đưa ra và kèm theo đó là những vật chất bắt buộc phải mua với giá cao ngất ngưởng so với giá thị trường, đã khiến nhiều phụ huynh không nén nổi sự bất bình của mình. Đi tìm sự giải thích, họ cũng chỉ nhận được những lời giải thích chiếu lệ, qua loa của Hiệu trưởng, thậm chí là loại khỏi danh sách lớp những học sinh khi cha mẹ không đóng đủ các khoản, loại phí,... mà Nhà trường đặt ra. Vậy, vấn đề đặt ra là làm thế nào để phụ huynh học sinh có thể xác định được đâu là những khoản đóng góp đúng quy định ? và khi có biểu hiện vi phạm của Nhà trường thì ai, cơ quan nào sẽ có trách nhiệm bảo vệ, bảo đảm các quyền, lợi ích hợp pháp của người học, cha mẹ học sinh ?... là những câu hỏi đang đặt ra của các bậc phụ huynh học sinh Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng.
2. Diễn biến tình huống
Kể từ khi đạt chuẩn quốc gia (năm 1998), các khoản thu của trường tiểu học thị Đinh Tiên Hoàng, quận Thanh Xuân, Tp Hà Nội cứ tăng dần. Năm học này, phụ huynh đã hết chịu nổi vì Trường thu đến 12 loại phí, quỹ khác nhau. Trong đó, nhiều khoản thu quá ư “lem nhem” khiến phụ huynh kêu trời. Như mọi năm, trước khi khai giảng năm học mới, chị Lê Mỹ Ngọc (Khu tập thể Thanh Xuân Bắc) đã chuẩn bị vải may đồng phục cho con trai Trần Hoài Nam. Nhưng khi đến trường thì tá hỏa vì năm nay nhà trường có thông báo mới: tất cả học sinh phải mặc đồng phục có mác “Trường đạt chuẩn quốc gia”.
Chị Ngọc bức xúc: “Loại hàng này Hiệu trưởng đã chuẩn bị rồi, mua bên ngoài không có. Báo hại tôi phải bỏ hết số vải đã mua, còn phải mua lại đồng phục mới cho con với giá trên trời”. Bất bình, chị Ngọc quyết định không mua, giáo viên phụ trách bán đồng phục không ghi tên con chị. Chị tức giận, phản đối trực diện với Ban giám hiệu ngay cuộc họp phụ huynh đầu năm. Sau cuộc họp, Nhà trường bán chịu cho chị một bộ đồng phục, ghi tên cho con chị được học. Đến nay chị vẫn chưa chịu nộp tiền vì cho rằng Trường đã làm bậy.
Chị T., mẹ của học sinh Hồ Như Thủy, bức xúc nhưng vì con mình học ở trường nên cũng không muốn làm rùm beng. Chị đem biên nhận của nhà trường đến nộp cho cơ quan chức năng “để xem họ giải quyết thế nào”. Biên nhận chị đưa ra có ghi số tiền đã nộp lên đến 419.000 đồng, trong đó khoản mua đồng phục chiếm 65.000 đồng, trong khi con chị chỉ mới vào học lớp 1. Hàng trăm phụ huynh khác cũng bất bình về chuyện đồng phục.
Một số phụ huynh hành nghề bán vải, thợ may khẳng định Trường đã bán ép đồng phục với giá cao gấp đôi so với giá thực tế trên thị trường. Chị Ngọc đưa ra xấp vải mà mình đã mua với giá 12.000 đồng/m2 để so sánh với vải áo Nhà trường bán. Quả nhiên, vải của chị mua có màu trắng hơn, sớ mịn hơn và mặt vải bóng hơn. “Hàng của Nhà trường bán tối đa cũng chỉ cỡ 30.000 đồng, kể cả tiền công. Vậy mà trường nỡ bán cho con em chúng tôi với giá 65.000 đồng/bộ. Rõ ràng là rút ruột phụ huynh”, chị Ngọc bức xúc nói.
Trả lời xung quanh chuyện bán đồng phục, ông Huỳnh Văn Đức, Phó phòng Giáo dục quận Thanh Xuân, nói giá chỉ chênh lệch so với ngoài thị trường 1.000 đồng/bộ thôi, nhưng căn cứ để khẳng định như vậy cũng chỉ là “giải trình của Hiệu trưởng”. Trong khi đó, theo tìm hiểu, tất cả đồng phục đều do Hiệu trưởng tổ chức may tại nhà riêng của mình, hội phụ huynh không hay biết, phòng giáo dục cũng mù tịt.
Đầu năm học 2008-2009, Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng đã có thông báo về các khoản thu trong năm. Theo đó, có tất cả 12 loại phí, quỹ, bao gồm: quỹ xây dựng (30.000 đồng/năm), quỹ hội phí (20.000 đồng/năm), kế hoạch nhỏ (10.000 đồng/năm), thuê quét lớp (36.000 đồng/năm), bảo hiểm y tế, bảo hiểm tai nạn (cộng chung 75.000 đồng/năm), học phí hai buổi/ngày (10.000 đồng/tháng), phiếu liên lạc (2.000 đồng/tháng), hồ sơ lớp 1 (3.000 đồng), ghế ngồi sinh hoạt dưới cờ nhân các ngày lễ (10.000 đồng), đồ thể dục (26.000 đồng/bộ), đồng phục (65.000 đồng/bộ).
Với số lượng 585 học sinh, trừ các đối tượng miễn giảm, Nhà trường sẽ thu được số tiền lên đến khoảng: 18 triệu đồng tiền quỹ dùng để quét lớp; 9 triệu đồng tiền “bán” phiếu liên lạc;... Nhiều phụ huynh bức xúc về các khoản thu này nhưng nhà trường cũng giải thích trót lọt.
Giải thích về các khoản thu trên, ông Châu Văn Tính, Hiệu trưởng, cho biết: “Ngoài hai khoản thu bắt buộc là quỹ xây dựng và tiền quỹ học thêm hai buổi/ngày như bộ và Sở Giáo dục và Đào tạo Tp. Hà Nội cho phép, còn lại là các khoản thu tự nguyện, không bắt buộc, trường cũng đã có xin phép Uỷ ban nhân dân quận Thanh Xuân và phụ huynh cũng đồng tình.
Nhiều phụ huynh bức xúc nói: "Không biết tự nguyện kiểu nào mà hai trẻ mồ côi Nguyễn Thiện Tâm, Nguyễn Thiện Niệm suýt chút đã không được vào lớp học vì không đủ tiền đóng phí. Ông nội nuôi của hai cháu phải ba lần dắt hai cháu đến hội khuyến học huyện nhờ can thiệp mới xong. Chúng tôi không đồng tình kiểu loạn thu của trường. Ngay sau khi khai giảng năm học mới, các phụ huynh đã to nhỏ với nhau, rồi còn mang biên nhận đã nộp tiền đến các cơ quan chức năng của huyện nộp, yêu cầu xem xét"[1].
II. PHÂN TÍCH, XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Mục tiêu giải quyết tình huống
Quả thật, tình huống trên cho thấy những vấn đề mà lâu nay nhiều gia đình khá giả thường hay bỏ qua và ít quan tâm. Song, với số lượng học sinh lớn đã tạo ra một nguồn lợi khổng lồ cho những cá nhân có liên quan ở Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng. Mặt khác, không phải gia đình nào cũng đó đủ điều kiện kinh tế khá giả để đáp ứng nhanh các yêu cầu “ngoài luồng” từ phía nhà trường hay giáo viên nên đã dẫn tới sự phản ứng và bất bình trong số các phụ huynh học sinh có con em theo học tại Trường tiểu học ở những năm qua học.
Vấn đề mà tình huống đặt ra phải chăng là sự thanh tra, kiểm tra,... của các cơ quan chức năng không phát hiện được những sai phạm trong thu quỹ hay có mối dây liên hệ nào khác để dễ dàng có thể “bỏ qua” những vi phạm này; hay những vấn đề này không thuộc phạm vi, nội dung quản lý của các cơ quan quản lý nhà nước chỉ mang tính chất quản lý nội bộ của trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng ? Nếu có thì trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước ở đâu ?;.... là hàng loạt những câu hỏi được đặt ra không chỉ của những phụ huynh học sinh mà còn là vấn đề đáng quan tâm của cộng đồng dư luận xã hội cần phải được làm sáng tỏ. Mục tiêu mà tình huống đặt ra là phải “giải toả” được những thắc mắc, triệt tiêu những tiêu cực,... nhằm góp phần xây dựng môi trường học đường lành mạnh, trong sạch nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương, đặc biệt là trách nhiệm trước nhân dân về những vấn đề thuộc quản lý nhà nước. Đồng thời, tìm ra những phương hướng xử lý có hiệu quả, tạo ra sự đồng bộ trong các biện pháp tác động của quản lý Nhà nước trên nhiều mặt của hoạt động giáo dục ở địa phương hiện nay.
2. Cơ sở lý luận
Tiến trình đổi mới giáo dục Việt Nam trong hơn hai mươi năm qua mang hai đặc trưng chủ yếu sau đây: một là,chuyển từ giáo dục phục vụ kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang giáo dục vận hành trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; hai là,chuyển từ giáo dục khép kín sang giáo dục mở cửa, chủ động hội nhập quốc tế. Vì vậy, tổ chức và hoạt động giáo dục đã có sự thay đổi căn bản, hướng tới sự đa dạng hoá, chuẩn hoá, hiện đại hoá và xã hội hoá. Việt Nam cũng đã có những bước đi chủ động trong hội nhập giáo dục, tiếp nhận giáo dục xuyên biên giới theo cả hai cơ chế: không lợi nhuận và có lợi nhuận. Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong việc cung ứng giáo dục, nhưng sự bao cấp toàn bộ trước đây đã được thay thế bằng cơ chế chia sẻ chi phí với việc đóng góp bằng học phí của người học. Các nhà cung ứng mới trong giáo dục cũng đã xuất hiện: đó là các tổ chức, cá nhân trong nước đứng ra thành lập các trường bán công, dân lập, tư thục; các tổ chức, cá nhân ngoài nước đứng ra thành lập các cơ sở giáo dục nước ngoài.
Như thế, giáo dục Việt Nam đã chuyển từ mô hình độc quyền Nhà nước sang mô hình chuẩn độc quyền. Tình thế cạnh tranh chưa được thiết lập trong khu vực giáo dục công lập. Nó cũng không được khuyến khích và không xuất hiện như nhau ở các cấp học và trình độ đào tạo của giáo dục ngoài công lập. Đối với giáo dục trung học phổ thông và giáo dục đại học, về cơ bản chưa có cạnh tranh do cung không đáp ứng cầu; các cơ sở giáo dục ngoài công lập chỉ có tác dụng tạo thêm cơ hội cho người học trong việc tiếp tục học lên. Ở các cấp học còn lại, đặc biệt đối với giáo dục phổ cập (tiểu học và trung học cơ sở), đã dần dần hình thành tình thế người học được lựa chọn trường học, vì vậy đã có sự cạnh tranh rõ nét giữa các trường ngoài công lập trong việc thu hút người học. Như vậy, có thể nói, trước khi vào WTO, trong bối cảnh chung của chuẩn độc quyền giáo dục Việt Nam, đã có sự hình thành chuẩn thị trường giáo dục ở một số cấp học, tập trung chủ yếu ở khu vực thành thị.
Với tư cách là nước đi sau trong việc gia nhập WTO, Việt Nam phải chịu sức ép lớn hơn về cam kết trong lĩnh vực giáo dục. Trên thực tế, khi đưa ra bản chào dịch vụ đa phương, mức cam kết của Việt Nam về dịch vụ giáo dục là khá sâu và rộng, về cơ bản không khác nhiều so với Hiệp định thương mại song phương BTA đã ký với Hoa Kỳ. Theo đó, ta mở cửa đối với hầu hết các lĩnh vực khoa học tự nhiên và kỹ thuật, nghiên cứu và quản lý doanh nghiệp, kinh tế, kế toán, ngôn ngữ và luật quốc tế. Tuy nhiên, việc mở cửa là khác nhau giữa các cấp học và các phương thức cung ứng giáo dục. Giáo dục tiểu học không có cam kết gì. Giáo dục trung học chỉ có cam kết "không hạn chế" đối với phương thức tiêu thụ ngoài nước. Đối với giáo dục đại học, giáo dục người lớn và các dịch vụ giáo dục khác, chúng ta chưa cam kết về phương thức 1 (cung ứng xuyên biên giới), cam kết "không hạn chế" với phương thức 2 (tiêu thụ ngoài nước) và phương thức 3 (hiện diện thương mại), chưa cam kết, trừ các cam kết chung, với phương thức 4 (hiện diện thể nhân).
Nhờ sự quan tâm của Đảng, của nhân dân nền giáo dục nước ta đã đạt được những thành quả đáng kể trong thời gian qua. Những thành tựu đó là: Sự phát triển vượt bậc về quy mô ở tất cả các cấp học và đã góp phần nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, tăng trưởng kinh tế. Giáo dục, đào tạo đã đào tạo được một lực lượng lao động có chuyên môn, kỹ thuật, khoảng 8 triệu người chiếm 18,3% trong tổng số 43,8 triệu lao động hiện nay; hệ thống giáo dục nghề nghiệp được phát triển từ thấp đến cao; dạy nghề sau phổ thông cơ sở, Trung học chuyên nghiệp. Một xã hội học tập đang hình thành và mở rộng ở khắp tất cả các địa phương. Quy mô học sinh, sinh viên tăng nhanh, số cơ sở giáo dục đào tạo cũng được mở rộng.
Tuy nguồn ngân sách hạn hẹp, ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục đào tạo ngày một tăng, năm 1998 chi cho giáo dục là 13,6% ngân sách, năm 2000 là 15%, năm 2009 dự toán phân bổ là 47,1%[2]. Ngoài ngân sách thường xuyên, Nhà nước đã tăng cường đầu tư cho giáo dục đào tạo bằng các chương trình mục tiêu quốc gia, huy động trái phiếu và chủ động vay tiền nước ngoài đầu tư cho giáo dục, đào tạo. Nhiều nước đã viện trợ không hoàn lại cho giáo dục, đào tạo Việt Nam. Nhân dân đóng góp cho giáo dục, đào tạo bằng học phí, xây dựng trường sở cũng rất đáng kể. Nhờ huy động đầu tư cho giáo dục, đào tạo từ nhiều nguồn, cơ sở vật chất, trang thiết bị, đồ dùng dạy học một số trường đã được sửa chữa, tu bổ, mở rộng xây dựng mới.
Những vấn đề giáo dục trên chỉ phát huy được hiệu quả, có môi trường phát triển và động lực tích cực khi cơ chế quản lý và đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có năng lực và phẩm chất đạo đức “xứng tầm” với những yêu cầu mà giáo dục đặt ra. Quản lý mà không nắm chắc các quy luật thì quản lý sẽ trở thành lực cản. Cũng như trồng cây cũng vậy. Cây mọc giữa rừng, chả ai chăm sóc nếu gặp mưa thuận gió hòa, nó sẽ phát triển tươi tốt theo các quy luật sinh lý, sinh thái của nó. Cây mọc trong vườn, nếu giao cho người không hiểu sinh lý, sinh thái của nó chăm sóc thì ông ta có thể làm cho nó còi cọc, thậm chí chết yểu. Trong đó, cơ cấu tổ chức và phân cấp chức năng, nhiệm vụ đòi hỏi phải phù hợp và rõ ràng về trách nhiệm và chịu trách nhiệm trên nền tảng của hoạt động công vụ. Nếu sự phân cấp trách nhiệm, chức năng không đồng bộ, phù hợp với cơ cấu tổ chức và năng lực sẽ là những rào cản cho việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về giáo dục ở địa phương.
Như vậy, tính tất yếu biện chứng khách quan giữa cơ chế, phương thức, cách thức biện pháp tác động của quản lý nhà nước với chất lượng giáo dục là một nhu cầu không thể thiếu và nằm trong một chỉnh thể thống nhất với các điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ở Việt Nam hiện nay. Nếu, lựa chọn đúng phương thức, biện pháp quản lý nhà nước sẽ là điều kiện để thúc đẩy sự nghiệp giáo dục phát triển, xây dựng được nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho sự phát triển kinh tế bền vững và ngược lại nếu các hình thức, biện pháp không phù hợp với những biến đổi khách quan của giáo dục sẽ tạo ra những hậu quả khôn lường đối với cả hệ thống giáo dục nói chung.
3. Phân tích tình huống
Hàng loạt các hành vi mà tình huống nêu lên, cần phải được đánh giá theo những quy định hiện hành của Nhà nước và tình hình thực tiễn của quận Thanh Xuân, Tp.Hà Nội. Về cơ bản có thể thấy những biểu hiện sau:
Một là, sự mâu thuẫn và chồng chéo trong phân cấp chức năng quản lý nhà nước về giáo dục trên địa bàn Tp. Hà Nội. Theo quy định hiện hành tại Điều 88, 104 và 109 Luật tổ chức Hội đồng nhân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003 và khoản 7, Điều 7 Nghị định số 14/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh xác định việc phân cấp quản lý giáo dục được tiến hành theo cấp học-tức Uỷ ban nhân dân cấp huyện, Phòng Giáo dục quản lý các trường trung học cơ sở, tiểu học trên địa bàn và cấp xã quản lý bậc mầm non. Như vậy, việc phân cấp này vô hình dung đã tạo ra khoảng cách và sự cản trở trong quản lý, kiểm tra những sai phạm của các trường tiểu học trên địa bàn quản lý của chính quyền phường. Nếu, việc phân cấp được tiến hành trên cơ sở phân loại các hoạt động quản lý (hoạt động công vụ) thì những hiện tượng “vô trách nhiệm”, “buông lỏng quản lý”,... sẽ không xảy ra. Thực tiễn tình huống trên cho thấy, Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng tự đặt ra và thu quá mức các loại phí, lệ phí,... nhưng không được các cấp có thẩm quyền tiến hành ngăn chặn, xử lý kịp thời. Điều này chứng tỏ, chính quyền cơ sở không được phân cấp quản lý nên “không có thẩm quyền” để can thiệp, đình chỉ việc thu trái pháp luật để chờ cơ quan có thẩm quyền quyết định. Đây là tình trạng chung trong việc phân cấp quản lý không khoa học, theo lối mòn “cấp dưới làm ít, cấp trên làm nhiều”,...
Hai là, hành vi thu phí, bán đồng phục trái pháp luật của Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng. Tình huống nêu 12 loại phí với các mức đóng góp khác nhau, trong đó có cả việc may đồng phục không theo đơn đặt hàng (tự may) theo quy định nên dẫn đến tình trạng tự định giá bán cho các mẫu đồng phục của Ban giám hiệu Nhà trường. Mặc dù, pháp luật đã có những chế tài đủ mạnh như: Điều 105 Luật Giáo dục 2005 qui định: “Ngoài học phí và lệ phí tuyển sinh, người học hoặc gia đình người học không phải đóng góp khoản tiền nào khác”. Như vậy, 12 khoản thu kia Sở Giáo dục và Đào tạo Thành phố căn cứ vào đâu để cho phép trường tiểu học thu. Vì vậy, mọi khoản thu bắt buộc khác trong nhà trường đều là vi phạm pháp luật (hiện một số địa phương vẫn cho phép thu tiền xây dựng trường). Trong 02/12 khoản thu mà tình huống nêu là tiền xây dựng trường và tiền học thêm 02 buổi/tuần đối với trường đạt chuẩn quốc gia mà Sở Giáo dục-Đào  tạo Tp.Hà Nội cho phép các trường tiến hành là những quy định riêng của địa phương là phù hợp với quy định của pháp luật. Nhưng liệu những khoản thu do Sở đặt ra như thu học thêm đối với lớp chọn, trường chuẩn đã phù hợp với đạo lý và pháp luật hiện hành của Việt Nam. Điều khó lý giải là tại sao lớp chọn, trường chuẩn phải bắt buộc học thêm 02/tuần và 08 buổi/tháng, ? Hiện Sở Giáo dục cũng không lý giải nổi tại sao đi kèm với danh hiệu trường chuẩn, lớp chọn học sinh phải học thêm, và điều quan trọng hơn là mức thu của Nhà trường sẽ như thế nào trong tình hình loạn thu, lạm chi như trên. Đối với 10/12 khoản thu khác do Ban giám hiệu Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng tự đặt ra và với những lý do hết sức đơn giản: “chỉ để phục vụ các em là chính”. Từ những phân tích này cho thấy, năng lực về cụ thể hoá Luật giáo dục và triển khai tổ chức thực hiện của Sở Giáo dục còn yếu và có nhiều hạn chế nên đã tạo ra những điều kiện tốt cho cấp dưới “tự tung, tự tác”... Mặt khác, sự hám lợi đã làm cho tính chất vi phạm pháp luật của hành vi ngày càng lớn hơn.
Điều 5 Nghị định của Chính phủ số 57/2002/NĐ-CP ngày 03 tháng 6 năm 2002 “Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí” qui định chỉ có Chính phủ, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương và Bộ Tài chính là có thẩm quyền qui định mức phí và lệ phí. Thế nhưng hiệu trưởng nhiều trường đã rất “hồn nhiên” khi “lộng quyền” tự đặt ra các khoản thu thêm như: phí giữ xe đạp, phí bảo vệ, phí điện nước… trong khu vực trường. Sự lộng quyền của Hiệu trưởng còn được thể hiện rõ trong hành vi tự cung cấp đồng phục cho học sinh (do gia đình Hiệu trưởng may) và tự định giá bán. Đối với hành vi vi phạm về thu phí, lệ phí trái pháp luật đã có chế tài quy định xử lý, theo Điều 9, Nghị định 106/2003/NĐ-CP của Chính phủ: “Vi phạm quy định về thẩm quyền quy định về phí, lệ phí”: sẽ bị “Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng đối với hành vi không có thẩm quyền mà tự đặt ra quy định về: danh mục phí, lệ phí; mức thu phí, lệ phí; quản lý, sử dụng tiền phí, lệ phí; miễn, giảm phí, lệ phí”. Ngoài ra, các tổ chức, cá nhân vi phạm còn phải bị áp dụng các hình phạt bổ sung, khắc phục hậu quả… Song, chế tài thì đã có, chức năng phân cấp quản lý đã được xác định, nhưng Phòng Giáo dục và đào tạo quận Thanh Xuân cũng không có động thái gì trước những tố cáo của phụ huynh học sinh. Phải chăng, đã có sự “ngầm hiểu” trong mối quan hệ có liên quan giữa cấp quản lý và Ban giám hiệu trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng ? Hay, sự né tránh xử lý của Phòng Giáo dục đối với các hiện tượng tiêu cực của Nhà trường là do thiếu cán bộ, công chức, địa bàn quản lý rộng không đủ sức để tiến hành thanh tra đột xuất,... ? Đây là những biểu hiện thường thấy về tính thụ động của các cơ quan quản lý nhà nước trong việc quản lý các lĩnh vực được giao. Nếu Phòng Giáo dục kiên quyết, cán bộ, công chức công tâm thì đâu đến mức để xảy ra tình trạng nhiều năm liền các phụ huynh học sinh bị một số cán bộ, công chức, viên chức “rút ruột” những đồng tiền chính đáng của họ.
Ba là, xét và đạo đức của hành vi lợi dụng sự phụ thuộc của phụ huynh học sinh để thực hiện hành vi rút tiền của cha mẹ học sinh. Trong khi toàn Đảng, toàn dân đang sôi nổi thực hiện cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Nguyên lý của nền giáo dục chúng ta là nhân đạo, vì thế hệ tương lai của đất nước. Nhà trường cũng đã treo những câu khẩu hiệu thể hiện điều đó: “Tất cả vì học sinh thân yêu”, “Mỗi ngày đến trường là một ngày vui”, “Dân chủ, kỉ cương, tình thương, trách nhiệm” và hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo đang phát động xây dựng mô hình “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” với hạt nhân là lí tưởng nhân văn vì thế hệ tương lai của dân tộc. Môi trường giáo dục là môi trường văn hóa, nhân văn, hình tượng nhà giáo là mẫu mực về đạo đức, lối sống cho học sinh noi theo.Vì vậy, việc tổ chức “loạn thu, lạm thu” của Nhà trường khiến cho mọi lời rao giảng về đạo đức, lẽ công bằng của thầy cô trở nên vô nghĩa, là hành vi hoàn toàn trái với đạo lý. Làm vậy, vô hình trung chúng ta đang tàn phá môi trường giáo dục, cái gốc để giáo dục nhân cách, lối sống cho học sinh và tương lai xã hội sẽ phải trả một giá đắt. Học sinh và nhân dân sẽ mất niềm tin vào nhà trường, thầy cô và những điều tốt đẹp trong cuộc sống. Liệu tương lai các em sẽ suy nghĩ gì trước cách ứng xử thiếu trung thực, “nói một đàng, làm một nẻo”, vi phạm pháp luật của thầy cô.                                                                        
          Bên cạnh đó, những nguyên nhân từ phía chủ quan phụ huynh học sinh cũng đã góp phần tạo điều kiện để cho những hành vi trái pháp luật trên phát triển. Bởi lẽ, sự lựa chọn về môi trường giáo dục giữa trường công và trường tư trên địa bàn là không có. Mặt khác, các gia đình khá giả thì thường bỏ qua những khoản thu không đáng là gì so với 01 học sinh/năm; hay sự lệ thuộc quá lớn của học sinh với cô giáo, Ban giám hiệu Nhà trường;.... là những vỏ bọc lý tưởng để các hành vi trên tự hoành hành, tự tác,...
          4. Giải quyết tình huống
Như vậy, vấn đề “lạm thu, loạn thu” của Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng là quá rõ ràng, song vấn đề xử lý, giải quyết các hiện tượng trên như thế nào nhằm một mặt vừa xử lý được hành vi vi phạm, vừa bảo đảm quyền, lợi ích và môi trường giáo dục cho con em họ. Đây là vấn đề khó, cần phải có thời gian tiến hành và sự tham gia của nhiều cấp, ngành và đặc biệt của là nhân dân. Song, tiểu luận cũng nêu lên các xử lý tình huống cụ thể như sau:
Trên cơ sở các phiếu thu mà Phòng Giáo dục và Đào tạo quận nhận được từ phía phụ huynh học sinh, Trưởng phòng Giáo dục quận cần tiến hành:
Bước 1, tiến thanh tra đột xuất những sai phạm ở Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng
Một là, tiến hành làm công văn báo cáo Uỷ ban nhân dân quận Thanh Xuân về những loại phí, mức thu,... của Trường tiểu học Đinh Tiên Hoàng đã tiến hành thu của phụ huynh học sinh. Trong Công văn cần chỉ rõ những sai phạm theo từng hành vi cụ thể và đề nghị Uỷ ban nhân dân quận ra Quyết định thanh tra đột xuất về những vi phạm ở Trường tiểu học.
Hai là, trên cơ sở Công Văn của Trưởng Phòng Giáo dục, Thường trực Uỷ ban nhân dân quận họp và ra Quyết định thanh tra đột xuất. Trong quyết định thanh tra đột xuất cần xác định thanh tra giáo dục (chủ trì), công an quận, người bị hại ( những người nộp phiếu thu tố cáo) và trưng tập cộng tác viên chuyên môn nếu thấy cần thiết; thời gian tiến hành thanh tra; nội dung thanh tra; và những điều kiện vật chất bảo đảm cho thanh tra;....
Ba là, thanh tra giáo dục huyện tiến hành thanh tra theo quy định của Quyết định. Khi thanh tra đột xuất cần làm rõ những sai phạm thông qua giấy tờ, sổ sách, của nhà trường; đối chiếu với những phiếu chi mà phụ huynh học sinh cung cấp,... thu, giữ những sổ sách, giấy tờ có liên quan đến những sai phạm. Buổi thanh tra có thể tiến hành trong 01 ngày hoặc 02 ngày song, cuối mỗi buổi thanh tra đều có biên bản ghi chép tiến hành thanh tra có sự chứng kiến của Chủ tịch hoặc Phó chủ tịch phường; công an; người bị hại (phụ huynh học sinh); Ban giám hiệu; Ban đại diện học sinh;.... và biên bản thanh tra cuối cùng phải đưa ra những đề xuất cần thiết xử lý cụ thể.
Bốn là, sau khi có biên bản thanh tra, Trưởng phòng Giáo dục quận căn cứ vào những chứng cứ được xác định thông qua thanh tra đột xuất và mời Ban giám hiệu đến để giải quyết vụ việc. Sau buổi làm việc có thê ban hành Quyết định kết luận thanh tra. Trong kết luận thanh tra phải xác định rõ tính chất, mức độ sai phạm trong từng khoản phí, lệ phí,... làm căn cứ để làm Báo cáo Uỷ ban nhân dân ra quyết định xử phạt hành chính hoặc giao cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nếu là xử phạt hành chính thì Uỷ ban nhân dân ra quyết định xử phạt hành chính theo quy định của Nghị định số 106/2003/NĐ-CP và kèm theo là trách nhiệm hoàn trả lại những số tiền mà Nhà trường đã thu trái quy định pháp luật trong những năm qua.
Bước 2, tiến hành xác định trách nhiệm, xử lý kỷ luật giáo viên, thành viên trong Ban giám hiệu
Căn cứ vào những sai phạm trong Quyết định thanh tra đột xuất, Hội đồng trường tiến hành họp đột xuất xác định mức độ sai phạm của từng cá nhân và đề xuất những kiến nghị xử lý lên Phòng Giáo dục và Đào tạo. Trên cơ sở đó, Phòng Giáo dục và Đào tạo tiến hành họp đánh giá mức độ vi phạm của từng cá nhân làm cơ sở để làm Tờ trình Uỷ ban nhân dân quận ra quyết định cách chức, sa thải, chuyển công tác đối với những cá nhân cụ thể. Báo cáo Uỷ ban nhân dân Tp. Hà Nội về việc xử lý vụ việc.
III. KIẾN NGHỊ
Xu hướng phát triển giáo dục và gia tăng trách nhiệm trong quá trình quản lý và hoạt động giáo dục của Nhà trường, dưới sự quản lý, giám sát của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhân dân là một trong những yêu cầu quan trọng trong việc nâng cao chất lượng, tính minh bạch, dân chủ,... trong mọi hoạt động của bậc tiểu học. Do vậy, tiểu luận mạnh dạn nêu lên một số kiến nghị cơ bản như:
Thứ nhất, cần thiết trao quyền tự chủ cho các trường tiểu học. Bởi lẽ, tự chủ có vai trò quan trọng trong công tác quản lý giáo dục để thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của nền giáo dục Việt Nam nhằm đáp ứng được yêu cầu của hiện tại cũng như trong tương lai. Cần trao quyền tự chủ nhiều hơn cho các cơ sở giáo dục nói chung, trong đó có bậc tiểu học nói riêng vì đây là một xu thế chung của thế giới trong việc phát triển giáo dục và là con đường tối ưu để giải phóng nguồn lực của các cơ sở giáo dục ở Việt Nam hiện nay. Đặc biệt, trao quyền tự chủ về tài chính để Nhà trường chủ động sử dụng nguồn tài chính phục vụ các hoạt động của nhà trường. Trong mỗi nhà trường, đội ngũ giáo viên - công nhân viên và học sinh cũng cần thấy vai trò tự chủ của mình, phải có ý thức làm chủ, có thói quen tôn trọng dân chủ, và biết tự khẳng định mình trong tập thể thông qua chất lượng giảng dạy, giáo dục và các nhiệm vụ được giao. Mặt khác, "tự chủ" không có nghĩa là buông lỏng mà vẫn cần có sự kiểm soát chặt chẽ. Vì vậy, các cơ quan quản lý giáo dục phải đủ năng lực quản lý, phải thiết kế cơ chế kiểm soát được quyền lực, kiểm soát được chất lượng và buộc các trường phải có trách nhiệm đối với người học, đối với xã hội.
Thứ hai, thực hiện tốt quy chế dân chủ, nhất là sự tham gia giám sát, chất vấn và đánh giá chất lượng của Hội đồng trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp. Dân chủ trong bàn bạc, thảo luận những vấn đề liên quan đến xây dựng, mua sắm các trang thiết bị dạy học, xây dựng cơ sở vật chất, sử dụng quỹ,... giữa Ban giám hiệu với Hội phụ huynh học sinh, Ban đại diện học sinh là cơ sở để kiểm soát chặt chẽ mọi hoạt động của Nhà trường trong quá trình tổ chức, thực hiện nhiệm vụ. Nếu không có sự bình đẳng, không có sự giám sát, đặc biệt là sự giải trình của Ban giám hiệu trước những hội đại diện học sinh ở trường thì những việc làm “mờ ám”, “khuất tất”,... sẽ có điều kiện và cơ hội để phát sinh trong môi trường giáo dục tiểu học.
Thứ ba, cần tiến hành phân cấp nhiệm vụ quản lý các lĩnh vực liên quan đến môi trường giáo dục; đạo đức, phẩm chất nhà giáo,... cho chính quyền cơ sở quản lý. Vì, những nhiệm vụ này hoàn toàn phù hợp và có hiệu quả khi được Uỷ ban nhân dân cấp xã phối hợp với các tổ chức chính trị-xã hội; các Ban đại diện học sinh để phát hiện, ngăn chặn và xử lý các hành vi vi phạm môi trường giáo dục, vi phạm đạo đức nhà giáo,...

KẾT LUẬN
          Tóm lại, hoạt động giáo dục và quản lý giáo dục luôn có mối quan hệ biện chứng với nhau và thống nhất trong mục tiêu mà giáo dục đặt ra. Nếu, hoạt động quản lý được tiến hành thường xuyên, công tâm và kiên quyết thì hoạt động giáo dục sẽ đi vào nề nếp, trật tự và ổn định và mục tiêu của giáo dục sẽ đạt được với chất lượng cao. Ngược lại, nếu hoạt động quản lý buông lỏng, thiếu trách nhiệm,... thì hoạt động giáo dục sẽ nảy sinh những hiện tượng tiêu cực, vi phạm, tuỳ tiện,... làm cho giáo dục không những không đạt được chỉ tiêu đặt ra mà còn làm cho môi trường giáo dục bị “xấu đi” ảnh hưởng trực tiếp đến sản phẩm giáo dục, đến sự ổn định và phát triển của kinh tế-xã hội. Do vậy, để giáo dục Việt Nam thích ứng nhanh với những kinh nghiệm và đòi hỏi quá quá trình hội nhập quốc tế; nhu cầu phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao-nhân lực tri thức góp phần phát triển ổn định và bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thay thế cho nguồn nhân công giá rẻ hiện nay,...thì điều quan trọng và trước hết cần thay đổi cơ chế quản lý, thể chế pháp luật phù hợp và bố trí đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có năng lực, có phẩm chất đạo đức tốt. Điều này có ý nghĩa to lớn cả về lý luận và thực tiễn hoạt động quản lý giáo dục; hoạt động giáo dục nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ở nước ta hiện nay.



























DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


1.
Báo Tuổi trẻ online ngày 31/12/2008.
2.
Luật tổ chức Hội đồng nhân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003.
3.
Luật Giáo dục 2005 số 38/2005/QH11 của Quốc hội ban hành ngày 14/07/2005.
4.
Nghị quyết số 17/NQ-TW ngày 1/8/2007 Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
5.
Nghị định của Chính phủ số 57/2002/NĐ-CP ngày 03 tháng 6 năm 2002 “Quy định chi tiết thi hành Pháp lệnh phí và lệ phí”.
6.
Nghị định 106/2003/NĐ-CP của Chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực phí, lệ phí.
7.
Nghị định số 14/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy định về tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
8.
Ngân hàng Thế giới: Phân cấp ở Đông Á-để chính quyền địa phương phát huy tác dụng, Nxb. Văn hoá-Thông tin, Hà Nội, 2005.




[1] Theo Báo Tuổi trẻ online ngày 31/12/2008
[2] Ngân hàng thế giới: Phân cấp ở Đông Á- để chính quyền địa phương phát huy tác dụng, Nxb. Văn Hoá-Thông tin, Hà Nội, tr.146-164.