Trung tâm viết Thành Nam giới thiệu
Bài tiểu luận tình huống quản lý nhà nước sô 01 dùng để tham khảo.
MỤC LỤC
Trang
|
|
Lời nói đầu
|
2
|
I. Mô tả tình huống
|
4
|
II. Mục tiêu cần đạt được khi giải
quyết tình huống
|
4
|
III. Phân tích xử lý tình huống
|
4
|
1. Mục tiêu của tình huống
|
4
|
2. Cơ sở lý luận
|
4
|
3. Nguyên nhân dẫn đến tình huống
|
5
|
4. Phân tích diễn biến tình huống
|
9
|
IV. Phương án giải quyết tình huống
|
10
|
1. Xây dựng phương án
|
10
|
2. Đánh giá ưu, nhược điểm của phương
án
|
10
|
V. Lựa chọn phương án tối ưu
|
12
|
Kết luận
|
14
|
Kiến nghị
|
14
|
LỜI NÓI ĐẦU
Công tác đền bù giải phóng
mặt bằng khi Nhà nước thu hồi đất là vấn đề phức tạp mang tính chất kinh tế -
xã hội tổng hợp, thể hiện bản chất kinh tế của các mối quan hệ về đất đai và
chính sách, xã hội của Nhà nước. Vì vậy, đây là vấn đề luôn nhận được sự quan
tâm của nhiều ngành, nhiều cấp, của các tổ chức và cá nhân có liên quan.
Trong thời gian qua, thực
hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển kinh tế, củng cố
quốc phòng, an ninh, kết hợp đảm bảo an sinh xã hội và lợi ích của nhân dân, tại
nhiều địa phương trên phạm vi cả nước diễn ra hoạt động thu hồi đất và đền bù
giải phóng mặt bằng để thực hiện các dự án phát triển. Vì lợi ích chung, đại bộ
phận người dân trong khu vực thu hồi đất đều đồng tình, ủng hộ và tự giác thực
hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, không ít người còn vì lợi
ích chung đã chịu một phần thiệt thòi, giúp chính quyền các địa phương đẩy
nhanh công tác giải phóng mặt bằng.
Tuy nhiên, mặc dù Nhà nước
đã có hàng loạt quy định về vấn đề bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi cá
nhân, tổ chức bị thu hồi đất nhưng trên thực tế quá trình thực hiện gặp rất
nhiều khó khăn, vướng mắc, chưa đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá. Thậm chí có lúc, có nơi xảy ra vụ việc phức tạp, kéo dài, làm chậm
tiến độ thực hiện dự án, gây tổn hại về kinh tế và ảnh hưởng trật tự trị an xã
hội, mất nhiều thời gian và công sức giải quyết. Nguyên nhân quan trọng nhất
dẫn đến hiện tượng này là người dân trong diện di dời, giải toả phải thay đổi
nghề nghiệp, điều kiện sống, học tập, thay đổi tập quán và các vấn đề tâm lý,
xã hội khác. Mặt khác, một số cán bộ thực hiện công tác đền bù, giải phóng mặt
bằng còn chưa thực hiện đúng các quy định pháp luật về bồi thường, hỗ trợ, tái
định cư khi Nhà nước thu hồi đất. Để góp phần giải quyết các đòi hỏi khách quan
cũng như tính cấp thiết của vấn đề này, tiểu luận xin đề cập đến một tình huống
phổ biến nảy sinh từ công tác đền bù, giải phóng mặt bằng tại nhiều địa phương
hiện nay, từ đó tìm ra phương án và kiến nghị biện pháp giải quyết, nhằm kết
hợp hài hoà giữa lợi ích của Nhà nước với lợi ích của cá nhân, tổ chức thuộc
diện Nhà nước thu hồi đất.
I. MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Ông Ngô Văn N, 71 tuổi, trú tại là người có mặt đầu tiên tại vùng đất này để khai
hoang, lấy đất canh tác và sinh sống ổn định từ đó đến nay. Đây là một khu đất
Tháng 20/4/2009, gia đình ông nhận được thông báo về lý do thu hồi, diện tích đất
bị thu hồi (gần 2 ha đất, tức là khoảng 70% diện tích đất nông nghiệp đang sử dụng),
nhưng ông không phản đối. và một ít phụ cấp khác
tổng cộng chưa đến 50.000 đồng/m2 (trong khi đó, với 1m2
đất, công ty này chỉ khai thác đất thịt thôi, chưa tính khai thác đất sét nằm
sâu 15m dưới lòng đất thịt thì tổng thu nhập đã hơn 600.000 đồng/m2),
gười dân đã không đồng tình với giá đền bù và cho
rằng việc áp giá khu đất quá thấp để phục vụ cho lợi ích kinh doanh của một công
ty, không tính đến lợi ích của dân. Trong khi đó, hiện tại, cũng là đất nông
nghiệp, bên cạnh diện tích đất của gia đình ông N bị giải tỏa (vẫn 12.000
đồng/m2) thì người ta bán giá thị trường được 400.000 đồng/m2.
Chắc chắn chính quyền biết rõ giá đất như thế, nhưng vẫn áp giá đền bù thấp hơn
giá thị trường quá nhiều. Đây cũng là giá chung do Uỷ ban nhân dân tỉnh quy định
và Uỷ ban nhân dân huyện phải chấp hành. Vì vậy, ngày 15/5, ông N và một số hộ
dân đã đi khiếu nại đến UBND huyện T.T, thấu
đáo (chưa nhận được văn bản nào về việc giải quyết khiếu nại)
bị UBND huyện mang xe, lực lượng đến cày ủi, san bằng tất cả vườn tược, tức là
sau có 3 ngày (ngày 15/6) UBND tỉnh có công văn yêu cầu Thanh tra tỉnh kiểm tra
toàn bộ khiếu nại của các hộ dân. Những vườn cây trái xum xuê giờ chỉ còn là
những thân cây khô, trơ gốc. Riêng gia đình ông N vốn sinh sống nhờ cây điều,
tràm, mai cảnh... trong vườn giờ không còn phương tiện để sinh sống. Cho đến
khi bị cưỡng chế, gia đình ông N và các hộ dân ở đây chưa hề được ký vào bất kỳ
một văn bản nào liên quan đến đền bù, giải tỏa, chưa ký nhận tiền. Việc cưỡng
chế trên có sự đồng ý của Uỷ ban nhân dân tỉnh.
II. MỤC TIÊU CẦN ĐẠT ĐƯỢC KHI GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Mục
tiêu cần đạt được khi giải quyết tình huống là tìm ra phương án tối ưu và kiến
nghị biện pháp giải quyết tình huống trên cơ sở các quy định của pháp luật về đất
đai, nhất là quy định về thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất
hiện nay.
III. PHÂN TÍCH XỬ LÝ TÌNH
HUỐNG
1. Mục tiêu của tình huống
Mục
tiêu của tình huống là xác định các hiện tượng phổ biến nảy sinh trong lĩnh vực
đền bù, giải toả đất đai để thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế
của Nhà nước và của các địa phương trên thực tế hiện nay đã và đang còn nhiều vướng
mắc và phức tạp trong quá trình thực hiện từ phía các cơ quan chức năng, dẫn đến
không ít bức xúc trong nhân dân.
2. Cơ sở lý luận
Kể từ năm 2003 đến nay, thực hiện Nghị
quyết Hội nghị lần thứ VII Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục đổi
mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước, Nhà nước đã ban hành rất nhiều quy định về lĩnh vực này, đặc
biệt là ban hành Luật đất đai năm 2003, thay thế Luật đất đai năm 1993; Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật đất đai năm 1998; Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật đất đai năm 2001. Luật đất đai năm 2003 đã dành riêng một mục với
8 điều luật quy định một số vấn đề cơ bản nhất về thu hồi đất. Tiếp đó, tại Nghị
định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 về thi hành Luật đất đai cũng đã
có hướng dẫn về vấn đề này. Trên cơ sở các văn bản trên, Chính phủ ban hành các
nghị định chuyên biệt về vấn đề này như Nghị định số 197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng
12 năm 2004 quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất;
Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 quy định bổ sung về việc cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình
tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải
quyết khiếu nại về đất đai. Qua nhiều năm thực hiện, các nghị định trên đã được
bổ sung theo Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ
quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ
trợ và tái định cư;
Để thực hiện thống nhất các quy định
của Chính phủ, Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ban hành nhiều thông tư hướng dẫn
như Thông tư số 01/2005/TT-BTNMT ngày 13 tháng 4 năm 2005 hướng dẫn thực hiện một
số điều của Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ
về thi hành Luật đất đai; Thông tư liên tịch số 14/2008/TTLT-BTC-BTNMT ngày 31
tháng 01 năm 2008 và Thông tư số 06/2007/TT-BTNMT ngày 15 tháng 6 năm 2007 hướng
dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm
2007 quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất,
thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai…Ngoài ra, các quy định
về thu hồi đất và bồi thường, hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất còn được đề cập đến
trong một số văn bản pháp lý khác. Đây chính là các cơ sở pháp lý cần thiết cho
hoạt động của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, đồng thời xác định trách nhiệm
tuân thủ các nghĩa vụ pháp lý của người dân khi bị thu hồi đất.
3. Nguyên nhân dẫn đến tình
huống
Các nguyên nhân dẫn đến tình huống phát
sinh trong lĩnh vực thu hồi đất và bồi thường giá trị quyền sử dụng đất của gia
đình ông N và nhiều hộ dân khác tại địa bàn ấp
197/2004/NĐ-CP ngày 03 tháng 12 năm 2004 về bồi thường, hỗ trợ
và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất thì vấn đề pháp lý này còn được quy định
rải rác trong nhiều văn bản pháp lý khác số 69/2009/NĐ-CP để bổ sung, nhưng bản thân
Nghị định này cũng vẫn rất chung chung và về mặt kỹ thuật lập quy còn chưa đáp ứng
được yêu cầu ( số 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 xác định khung giá tối
thiểu và tối đa quá rộng và kể cả mức tối đa cũng đã không còn phù hợp với thực
tế tại nhiều địa phương, trong đó có địa bàn tỉnh BR-VT.
số 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về phương
pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất. Tuy nhiên, việc xác định giá đất,
giá tính hỗ trợ phải trên cơ sở phương pháp so sánh, phương pháp thu nhập mà UBND
tỉnh BR-VT đã không dựa trên cơ sở đó để xác định. Sự phát triển kinh tế của địa
phương không chỉ ưu tiên cho các công ty lớn (công ty kinh doanh bất động sản
P.M) mà còn phải tính đến quyền lợi của nhân dân. Mất đất kéo theo việc mất nguồn
thu nhập ổn định mà ông N và nhiều người dân đã tạo lập trong nhiều năm, mất đi
phương tiện để nuôi sống bản thân và gia đình trong khi việc chuyển đổi nghề
nghiệp hay gây dựng lại “cơ nghiệp” không thể “một sớm, một chiều”.
Sự thiếu quan tâm đến lợi ích của người
dân trong đó có gia đình ông N của chính quyền địa phương tỉnh BR-VT thể hiện
quan điểm đặt lợi ích của thiểu số lên trên lợi ích của đa số, khiến người dân
bị thu hồi đất bất mãn, không ủng hộ kế hoạch và phương án bồi thường, hỗ trợ của
chính quyền. Điều này bắt nguồn từ sự thiếu trách nhiệm với dân của lãnh đạo và
cán bộ Ban đền bù giải toả huyện TT, lãnh đạo UBND huyện TT và UBND tỉnh BR-VT,
bởi số tiền bồi thường, hỗ trợ cho gia đình ông N do Công ty P.M chi trả trước,
sau đó được trừ vào số tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp theo quy định tại
Nghị định số 197/2004/NĐ-CP. Khi xây dựng khung giá đất ở địa phương và quy hoạch
đất đai để xây dựng khu đô thị P.M đã không thực hiện cơ chế dân chủ lấy ý kiến
nhân dân.
4. Phân tích diễn biến tình
huống
Việc
chính quyền địa phương quy hoạch đất của gia đình ông N và nhiều hộ dân ấp ấp
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29
tháng 10 năm 2004 về thi hành Luật đất đai và các quy định của Luật Khiếu nại,
tố cáo hiện hành trước khi tiến hành cưỡng chế. Mặt khác, việc khiếu nại và cưỡng
chế đều có
IV. PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT
TÌNH HUỐNG
1. Xây dựng phương án
Để giải quyết tình huống trên, tiểu
luận đề xuất hai phương án sau:
Phương án 1: Bồi thường giá trị quyền sử dụng đất theo
giá thị trường và hỗ trợ để ổn định đời sống, đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố
trí việc làm mới.
Phương
án 2: Xác định giá bồi thường và mức hỗ trợ theo hướng có lợi nhất theo quy định
của pháp luật.
2. Đánh giá ưu, nhược điểm
của phương án
Nội dung
|
Ưu điểm
|
Nhược điểm
|
Phương án 1
|
Đạt được sự đồng thuận từ phía người
dân bị thu hồi đất. Thể hiện sự quan tâm của chính quyền với lợi ích của nhân
dân địa phương.
|
- Không đảm
bảo được sự kết hợp hài hoà giữa lợi ích của chính quyền địa phương với nhân
dân và công ty P.M, thậm chí, không nhận được sự đồng thuận từ phía Công ty
P.M, bởi Công ty này sẽ phải ứng trước tiền bồi thường, hỗ trợ, tái định cư
và kinh phí tổ chức thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng theo phương án
đã được xét duyệt (sau này được ngân sách nhà nước hoàn trả bằng hình thức
trừ vào tiền sử dụng đất, tiền thuê đất phải nộp). Đây là một khoản kinh phí
lớn và có ảnh hưởng không nhỏ đến kinh phí thực hiện dự án. Như vậy, dự án
phát triển kinh tế có thể sẽ không thực hiện được do điều kiện đầu tư không
thuận lợi, kinh phí ban đầu quá cao. Trong trường hợp kinh phí chi trả bồi
thường, hỗ trợ quá lớn thì nguồn thu vào ngân sách nhà nước cũng sẽ không
còn.
- Không phù
hợp với các quy định pháp luật hiện hành về bồi thường, hỗ trợ khi nhà nước
thu hồi đất.
|
Phương án 2
|
Đảm bảo được
sự hài hoà giữa lợi ích của người dân, của chính quyền địa phương và của Công
ty P.M, giải quyết tốt mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và ổn định an
ninh, trật tự tại địa phương. Đồng thời phù hợp với các quy định pháp luật
hiện hành.
|
Các quy định pháp luật hiện hành về
bồi thường giá trị quyền sử dụng đất và hỗ trợ bằng tiền để ổn định đời sống,
đào tạo chuyển đổi ngành nghề, bố trí việc làm mới hiện nay chưa phù hợp với
thực tế, thiếu cơ chế hữu hiệu để thực hiện.
|
V. LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN TỐI ƯU
Từ sự phân tích các ưu, nhược điểm của
hai phương án trên, phương án thứ hai tối ưu hơn cả, bởi nó giúp đạt được các mục
tiêu là đảm bảo được tính khả thi của dự án và đạt được đồng thuận từ phía người
dân, công ty P.M trong việc bồi thường, hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất.
Để thực hiện phương án này, chính quyền
địa phương cần thực hiện đúng các thủ tục pháp lý về thu hồi đất và bồi thường,
hỗ trợ người bị thu hồi đất theo quy định của pháp luật. Cụ thể như sau:
Bước 1: UBND tỉnh phối hợp với Hội đồng
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện T.T, Sở Tài chính để thẩm định lại phương án bồi thường, hỗ trợ cho những người
bị thu hồi đất ở ấp P.T, trong đó có gia đình ông N trong thời gian tối đa là
15 ngày làm việc.
Bước 2. UBND huyện T.T giải quyết khiếu nại của ông N và
các hộ dân về bồi thường, hỗ trợ theo quy định tại Điều 138 Luật đất đai; Điều 63 và Điều 64 Nghị định số 84/2007/NĐ-CP; các quy định pháp luật hiện
hành về khiếu nại, tố cáo. Đồng thời, giải thích rõ cho ông N theo quy định tại
khoản 2 Điều 40 Nghị định số 169/2009/NĐ-CP thì trong khi chưa có quyết định giải quyết khiếu nại, ông N vẫn phải tiếp tục
thực hiện quyết định thu hồi đất. Sau này, nếu cơ quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có kết luận việc thu
hồi đất là trái pháp luật thì sẽ dừng thực hiện
quyết định thu hồi đất; UBND huyện T.T sẽ ban hành quyết định hủy bỏ quyết định thu hồi đất đã ban hành và
bồi thường thiệt hại do quyết định thu hồi đất gây ra (nếu có). Trường hợp cơ
quan nhà nước có thẩm quyền giải quyết khiếu nại có kết luận việc thu hồi đất
là đúng pháp luật thì ông N phải chấp hành
quyết định thu hồi đất.
Bước 3.UBND tỉnh phân cấp cho UBND huyện T.T thông qua Hội
đồng bồi thường, hỗ trợ và tái định cư huyện để thuyết phục các bên: người dân
và Công ty P.M chấp nhận một phương án bồi thường, hỗ trợ theo hướng kết hợp hài
hoà lợi ích của các bên, cụ thể như:
- Bồi thường theo hướng tăng thêm không quá 20% so với mức
giá tối đa của khung giá đất cùng loại (Phù hợp với quy định tại Điều 5 Nghị định
của Chính phủ số 188/2004/NĐ-CP).
- Tiến hành hỗ trợ ổn định đời sống và ổn định sản xuất
cho gia đình ông N theo quy định tại Điều 20 Nghị định số 69/2009/NĐ-CP. Cụ thể
là hỗ trợ ổn định đời sống trong thời gian 6 tháng (vì không phải di chuyển chỗ
ở). Mức hỗ trợ cho một nhân khẩu của gia đình ông N được tính bằng tiền tương đương
30 kg gạo trong 01 tháng theo thời giá trung bình tại thời điểm hỗ trợ của địa
phương.
Bước 4. UBND huyện T.T phân cấp cho UBND xã M.X phối hợp
với các tổ chức chính trị-xã hội, đoàn thể trên địa bàn tổ chức, tuyên truyền,
vận động về chính sách bồi thường, hỗ trợ, thực hiện giải phóng mặt bằng theo
đúng quyết định thu hồi đất. Đồng thời, chỉ đạo Hội đồng bồi thường, hỗ trợ và
tái định cư lập và tổ chức thực hiện phương án bồi thường, hỗ trợ đã được phê
duyệt (UBND huyện T.T phê duyệt theo phân cấp của UBND tỉnh hoặc trình UBND tỉnh
phê duyệt).
Bước 5. UBND huyện T.T nhanh chóng chi trả tiền bồi thường,
hỗ trợ để gia đình ông N và các hộ dân khác ổn định cuộc sống. Đồng thời, phối
hợp với các doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh trên địa bàn để hỗ trợ tạo nghề và
việc làm cho người dân.
KẾT LUẬN
Thu
hồi đất và bồi thường, hỗ trợ cho người dân bị thu hồi đất là vấn đề phức tạp
không chỉ của tỉnh BR-VT mà còn của nhiều địa phương khác trên phạm vi cả nước.
Phần lớn các dự án, chương trình phát triển kinh tế cần thu hồi đất của người dân
để thực hiện thành công thì đều cần đến sự đồng tình, ủng hộ từ phía nhân dân, đặc
biệt là những người bị thu hồi đất. Muốn vậy, chính quyền các địa phương phải
thực sự quan tâm đến lợi ích của người dân bị thu hồi đất, thể hiện ở việc bồi
thường thoả đáng và hỗ trợ cho họ ổn định đời sống, tạo điều kiện chuyển đổi
nghề nghiệp, hỗ trợ thông tin để họ tự tạo công ăn việc làm cho mình. Không nên
vì lợi ích của thiểu số mà ảnh hưởng đến lợi ích chung của cộng đồng dân cư hoặc
vì lợi ích kinh tế trước mắt mà quên đi những tác động xấu về mặt xã hội như trực
tiếp làm cho một bộ phận người nông dân mất đất sản xuất, thất nghiệp, thu hẹp
diện tích đất canh tác..., đồng thời tiềm ẩn các nguyên nhân dẫn đến các hiện tượng
tiêu cực và tệ nạn trong xã hội, đặc biệt là sự mất niềm tin vào chính quyền của
nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
KIẾN NGHỊ
Để thực hiện phương án tối ưu nêu trên,
tiểu luận kiến nghị một số biện pháp cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với Trung ương: Chính
phủ cần nhanh chóng nhất thể hoá các quy định về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi nhà nước thu hồi đất trong một văn bản pháp lý, tránh để lĩnh vực này được
quy định rải rác trong nhiều văn bản như hiện nay, rất khó khăn cho quá trình tổ
chức thực hiện. Đồng thời, sửa đổi khung giá các loại đất cho phù hợp với tình
hình thực tế.
Thứ hai, đối với địa phương:
- UBND tỉnh BR-VT cần nắm bắt chính xác
thông tin về giá trị quyền sử dụng đất nông nghiệp được chuyển nhượng trên thực
tế để xác định khung giá đất trên địa bàn cho phù hợp, làm cơ sở để tính giá đất
bồi thường trong trường hợp phải thu hồi đất của cá nhân để phát triển kinh tế.
Khi phê duyệt các phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư cần nắm bắt tâm tư,
nguyện vọng của người dân để kịp thời thực hiện các biện pháp động viên, giải
thích, tuyên truyền. Với các phương án phân cấp cho UBND huyện T.T phê duyệt và
thực hiện thì cần theo dõi, kiểm tra để kịp thời chỉ đạo điều chỉnh cho phù hợp.
Trường hợp nảy sinh khiếu nại, tố cáo thì cần chỉ đạo cấp dưới giải quyết nhanh
chóng, triệt để, tránh gây bức xúc cho nhân dân.
- UBND huyện T.T cần tích cực, chủ động
tham mưu cho cấp trên trong xây dựng quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất và xây dựng
phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi thu hồi đất của người dân một cách
hợp lý, đảm bảo kết hợp hài hoà lợi ích của người bị thu hồi đất với việc thực
hiện có hiệu quả các dự án, chương trình phát triển kinh tế, củng cố quốc phòng,
an ninh trên phạm vi địa phương. Tăng cường mối quan hệ với chính quyền các xã để
kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân, đặc biệt là giải quyết thoả
đáng theo đúng quy định pháp luật các khiếu nại, tố cáo của người dân khi phải
thực hiện quyết định thu hồi đất.
- UBND xã M.X cần phát huy vai trò là
cấp chính quyền cơ sở gần dân nhất, nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của người dân bị
thu hồi đất để kịp thời phản ánh với cấp trên. Phát huy vai trò trong kiến nghị,
đề xuất cấp trên xây dựng phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư phù hợp với
đặc thù cuộc sống và sản xuất của các hộ dân bị thu hồi đất.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính - Bộ Tài nguyên và Môi
trường, Thông tư liên tịch số 14/2008/TTLT-BTC-BTNMT ngày 31 tháng 01 năm 2008
hướng dẫn thực hiện một số điều của Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5
năm 2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng
đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ
trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;
2. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông tư
số 06/2007/TT-BTNMT ngày 15 tháng 6 năm 2007 hướng dẫn thực hiện một số điều của
Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25 tháng 5 năm 2007 quy định bổ sung về việc cấp
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình
tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải
quyết khiếu nại về đất đai;
3. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Thông tư
số 01/2005/TT-BTNMT ngày 13 tháng 4 năm 2005 hướng dẫn thực hiện một số điều của
Nghị định số 181/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 của Chính phủ về thi hành
Luật đất đai;
4. Bộ Tài chính, Thông tư số
116/2004/TT-BTC ngày 07 tháng 12 năm 2004 về hướng dẫn thực hiện Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
ngày 03 tháng 12 năm 2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất;
5. Chính phủ, Nghị định số 181/2004/NĐ-CP
ngày 29 tháng 10 năm 2004 về thi hành Luật đất đai;
6. Chính phủ, Nghị định số 69/2009/NĐ-CP
ngày 13 tháng 8 năm 2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất,
giá đất, thu hồi đất, bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;
7. Chính phủ, Nghị định số 84/2007/NĐ-CP
ngày 25 tháng 5 năm 2007 quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường,
hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai;
8. Chính phủ, Nghị định số 197/2004/NĐ-CP
ngày 03 tháng 12 năm 2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu
hồi đất;
9. Chính phủ, Đính chính số 181/ĐC-CP ngày
23 tháng 10 năm 2009 đính chính Nghị định số 69/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 8 năm
2009 của Chính phủ quy định bổ sung về quy hoạch sử dụng đất, giá đất, thu hồi đất,
bồi thường, hỗ trợ và tái định cư;
10.
Chính
phủ, Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2004 về phương pháp xác định
giá đất và khung giá các loại đất;
11.
Chính
phủ, Nghị định số 182/2004/NĐ-CP ngày 29 tháng 10 năm 2004 về xử phạt vi phạm hành
chính trong lĩnh vực đất đai;
12.
Chính
phủ, Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27 tháng 01 năm 2006 về sửa đổi, bổ sung một
số điều của các nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai và Nghị định số
187/2004/NĐ-CP về việc chuyển công ty nhà nước thành công ty cổ phần;
Quốc hội nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Luật
số 13/2003/QH11 ngày 26 tháng 11 năm 2003 về đất đai;
Nhận làm chuyên đề tốt nghiệp, luận văn tốt nghiệp, báo cáo thực tập tốt nghiệp, khóa luận, đề án, tiểu luận các trường khối kinh tế trung cấp, cao đẳng, đại học, cao học
ReplyDeleteGiá luận văn, báo cáo, chuyên đề các trường TC, CĐ, ĐH ( giá từ 200K – 1 triệu) tùy mức độ khó dễ của từng trường
Tiểu luận cao đẳng, đại học ( 200K – 500K)
Tiểu luận cao học ( 500K – 1tr)
Luận văn Cao học ( Từ 2 triệu – 5triệu)
Liên hệ nick: lvkinhte
Email: lvkinhte@gmail.com
Điện thoại: 098.513.0242
Zalo: 0985 130 242