TIN LIÊN QUAN
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 16
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 16
MỤC LỤC
Trang
|
|
Lời nói đầu
|
|
1. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
|
|
1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tình huống
|
|
1.2. Mô tả tình huống
|
|
2. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
|
|
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống
|
|
2.2. Cơ sở lý luận
|
|
2.3. Phân tích diễn biến tình huống
|
|
2.4. Nguyên nhân xảy ra tình huống
|
|
2.5. Hậu quả của tình huống
|
|
3. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
|
|
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
|
|
3.2. Đề xuất phương án xử lý tình huống
|
|
3.3. Lựa chọn và tổ chức thực hiện phương án xử lý
tình huống
|
|
4. KIẾN NGHỊ
|
|
4.1. Kiến nghị đối với Đảng, Nhà nước
|
|
4.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng
|
|
5. KẾT LUẬN
|
|
TÀI LIỆU THAM KHẢO
|
LỜI NÓI ĐẦU
Theo thống kê của các địa phương trong cả nước, toàn quốc có
trên 12,9 triệu hécta rừng, bao gồm: 10,35 triệu hécta rừng tự nhiên và trên
2,55 triệu hécta rừng trồng; độ che phủ đạt 38,27%. Từ năm 1991 đến nay (sau
khi Luật bảo vệ và phát triển rừng được ban hành), hoạt động bảo vệ rừng và
thực thi pháp luật lâm nghiệp có nhiều chuyển biến tích cực, nhưng do nhiều
nguyên nhân mà diện tích rừng bị mất hiện nay vẫn còn ở mức cao (bình quân
57.019ha/năm). Trong đó, diện tích mất chủ yếu do được phép chuyển đổi mục đích sử dụng và khai
thác theo kế hoạch chiếm 76%; diện tích rừng bị thiệt hại do các hành vi vi
phạm các quy định của Nhà nước về quản lý bảo vệ rừng tuy có giảm, nhưng vẫn ở
mức cao làm mất 94.055ha rừng, chiếm 23,5% trong tổng diện tích rừng mất trong
7 năm qua, bình quân thiệt hại 13.436ha/năm. Đấu tranh với các vi phạm này, từ
năm 1999 đến tháng 10 năm 2009, cả nước đã phát hiện, xử lý 494.875 vụ vi phạm
các quy định của Nhà nước về quản lý, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Mặc dù
tình trạng vi phạm giảm qua các năm, nhưng số vụ vi phạm còn lớn, diễn ra phổ
biến ở nhiều nơi, với tính chất, mức độ ngày càng nghiêm trọng đang tạo gánh
nặng cho các lực lượng chức năng, nhất là lực lượng kiểm lâm trong ngăn chặn
hành vi vi phạm pháp luật. Nguyên nhân của vấn đề này có thể được đề cập ở
nhiều phương diện, trong đó phải kể đến công tác giao đất, giao rừng, khoán bảo
vệ rừng, tổ chức thực hiện cơ chế hưởng lợi của người làm rừng còn chưa hợp lý
nên người dân sống xung quanh rừng, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số còn chưa
hiểu, chưa thực hiện các quy định pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng; thậm chí
còn xâm hại tài nguyên rừng, tiếp tay cho lâm tặc phá rừng. Trong khi đó, để
quản lý và bảo vệ rừng có hiệu quả, một trong những giải pháp cần được các cấp
chính quyền thực hiện là vừa phải kết hợp giữa xử lý nghiêm minh các hành vi
phá rừng, tiếp tay cho lâm tặc phá rừng với việc tạo các điều kiện cần thiết để
cho những người dân sống xung quanh rừng được hưởng lợi từ rừng và tham gia bảo
vệ rừng lại chưa thực sự được quan tâm. Vì vậy, để góp phần tạo chuyển biến cơ
bản và bền vững trong công tác quản lý, bảo vệ rừng, tôi lựa chọn vấn đề “Kết
hợp giữa xử lý nghiêm minh hành vi tiếp tay cho lâm tặc phá rừng với tạo điều
kiện cho người dân hưởng lợi từ rừng và tham gia bảo vệ rừng” làm nội
dung cơ bản để viết bài tiểu luận tình huống quản lý nhà nước.
1. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tình huống
Xã ĐK, huyện LD, tỉnh LĐ
là xã miền núi có diện tích chủ yếu là rừng. Ở đây chỉ có rừng và rừng. Tứ bề
là cây đại thụ, là vực thẳm. Rừng ở đây rất đa dạng và phong phú, nhưng đời sống nhân
dân, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số và những người từ các tỉnh phía Bắc
vào đời sống kinh tế rất khó khăn. Một số hộ dân từ phía Bắc vào đã xúi giục các
hộ dân là đồng bào dân tộc địa phương tổ chức phá rừng một cách “bài bản” để lấy
đất sản xuất. Họ thường xuyên theo dõi, nắm chắc quy luật đi tuần tra, kiểm tra
của lực lượng bảo vệ rừng. Họ dùng các phương tiện thông tin liên lạc như bộ
đàm, điện thoại di động để thông báo cho nhau khi phát hiện lực lượng bảo vệ
rừng. Thường tổ chức số đông trong việc phá rừng để tạo thế áp đảo với lực
lượng chức năng khi bị phát hiện. Việc phá rừng thường được tổ chức vào ban
đêm. Khi gặp lực lượng chức năng những đối tượng này sẵn sàng chống trả, thậm
chí khi đã bị tịch thu gỗ về trụ sở của Hạt Kiểm lâm huyện LD nhiều người còn
manh động tấn công để cướp lại gỗ.
1.2. Mô tả tình huống
Vào hồi
19 giờ ngày 3 tháng 7 năm 2010, nhận được tin báo của cộng tác viên kiểm lâm địa
bàn, kiểm lâm viên K, P thuộc Hạt kiểm lâm huyện LD cùng một số cán bộ tiến
hành kiểm tra từ vùng đệm vào đến vùng rừng đặc dụng thuộc phạm vi quản lý của
mình và phát hiện hộ gia đình người đồng bào dân tộc Chil là ông Ha Kien cùng
vợ và hai con là Ha Tông (8 tuổi) và Ha Klai (15 tuổi) đang tiến hành chặt phá
cây rừng để trồng sắn. Khi lực lượng kiểm lâm đến và yêu cầu không được phép
phá rừng thì Ha Kien cùng Ha Klai đã có hành vi chống đối, không cho lực lượng
kiểm lâm thu giữ các công cụ, phương tiện được sử dụng để phá rừng như xe ngựa,
cuốc, dao, đèn, sắn giống đang chuẩn bị trồng. Họ cố tình không chấp hành và
vẫn ngang nhiên dùng cuốc, dao tiếp tục chặt cây rừng, gây gổ với cán bộ kiểm
lâm nếu không để cho họ làm thì sẽ “chém”. Nhận thấy nếu cứ giành giật như vậy
thì có thể các hộ dân khác đang phá rừng ở gần đó có thể thấy động và đến chi
viện thì với lực lượng mỏng, không đủ để giải quyết vụ việc, nên kiểm lâm viên
K chỉ đạo tổ công tác tiến hành lập biên bản, sau đó rút về Hạt để tìm biện
pháp giải quyết.
Ngày 4 tháng 7 năm 2010, các
kiểm lâm viên đến hiện trường thì thấy diện tích rừng đặc dụng bị chặt phá khá
rộng. Sau khi đo đạc xác định là 987,6 m2. Trên diện tích bị chặt phá
không có các loại thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý hiếm nhóm IA, IB
thuộc danh mục thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm quy định tại Nghị định số 32/2006/NĐ-CP ngày 30 tháng 3 năm 2006 của Chính phủ về
quản lý thực vật rừng, động vật rừng nguy cấp, quý, hiếm. Các kiểm
lâm viên đã tiến hành lập biên bản hiện trường để báo cáo cụ thể cho Hạt trưởng.
Nhận thấy tình hình ngày càng
có khả năng phát triển phức tạp mà lực lượng kiểm lâm lại mỏng, tính chất vụ việc
có sự tham gia của đồng bào dân tộc thiểu số có thể gây nên nhiều bất ổn nếu không
được xử lý một cách khôn khéo. Ngày 6 tháng 7 năm 2010, nhận sự chỉ đạo của Hạt
trưởng, kiểm lâm viên K đến buôn LT, nơi gia đình ông Ha Kien đang sinh sống để
gặp trưởng buôn là ông Rơông Tham để yêu cầu giúp lực lượng kiểm lâm tuyên truyền,
giải thích, vận động gia đình ông Ha Kien và nhiều hộ dân khác không phá rừng để
làm rẫy, trồng sắn, trồng điều nữa mà chờ đợi chính quyền có các chương trình
phù hợp cho bà con tham gia vào các dự án trồng rừng, bảo vệ rừng nhưng trưởng
buôn đã từ chối vì “họ đang cần đất để làm rẫy, lấy củ sắn, bắp ngô để có cái ăn,
không sẽ bị đói nên có nói gì thì họ cũng không nghe đâu” và “Cái nếp sống du
canh, du cư vẫn còn nặng lắm các cán bộ kiểm lâm à!”. Cũng theo trưởng buôn Rơông
Tham, gia đình ông Ha Kien từ trước đến nay luôn chấp hành tốt các quy định của
địa phương, nay nghe theo lời của một số “người xấu” xúi bẩy tham gia phá rừng
làm rẫy.
2. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống
Mục tiêu phân tích tình
huống là nhằm làm sáng tỏ hành vi vi phạm của hộ gia đình ông Ha Kien gồm vợ và
hai con trai theo quy định của pháp luật hiện hành; thẩm quyền xử lý đối với các
hành vi vi phạm của các thành viên trong hộ gia đình ông Ha Kien. Thông qua đó
tìm hiểu các nguyên nhân, hậu quả, nhất là những nguyên nhân gắn với điều kiện
sinh hoạt, phong tục tập quán, luật tục của địa phương để góp phần giải quyết
một cách thấu tình, đạt lý tình huống nêu trên.
2.2. Cơ sở lý luận
2.2.1. Nhận thức chung về quản lý, bảo vệ rừng và xử lý
vi phạm pháp luật trong quản lý, bảo vệ rừng
Rừng là tài nguyên của quốc
gia, là bộ phận quan trọng của môi trường sinh thái. Vì vậy, để khai thác rừng
phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội và phát triển rừng vì tương lai, lợi ích
của quốc gia một cách có hiệu quả, Nhà nước phải thống nhất quản lý, bảo vệ rừng.
Trong đó, quản lý rừng là sự tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng pháp luật
Nhà nước và các biện pháp mang tính kinh tế, hành chính, dân sự và cả cưỡng chế
trong những trường hợp cần thiết đến hành vi của các cá nhân, tổ chức trực tiếp
tham gia hoặc có liên quan đến các quá trình phát triển, khai thác rừng và các
sản vật từ rừng nhằm bảo vệ và phát triển rừng vì lợi ích của Nhà nước và của
toàn xã hội.
Thuật ngữ quản lý có thể được
hiểu dưới nhiều góc độ khác nhau như là sự giữ gìn, trông coi, bảo vệ, điều khiển,
chỉ đạo, tác động, tổ chức…Vì vậy, có thể thấy, quản lý nhà nước đối với rừng là
một nội dung có tính chất bao trùm, trong đó bao gồm cả phát triển rừng, bảo vệ
rừng và xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng.
Để quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng, Nhà nước phải
thực hiện đồng bộ các nội dung để ban hành pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật,
kiểm tra, thanh tra, giải quyết tranh chấp và xử lý vi phạm pháp luật về quản lý,
bảo vệ và phát triển rừng. Xử lý vi phạm pháp luật là một nội dung quan trọng của
quản lý nhà nước về bảo vệ và phát triển rừng. Tuỳ thuộc vào hành vi vi phạm được
pháp luật xác định chế tài (hình sự, dân sự, hành chính, kỷ luật) và tính chất,
mức độ của hành vi đó mà các chủ thể có thẩm quyền sẽ tiến hành các biện pháp và
các thủ tục cần thiết để truy cứu trách nhiệm pháp lý tương ứng nhằm trừng phạt
vi phạm, khôi phục trật tự pháp lý bị xâm hại và khắc phục các hậu quả do vi phạm
đó gây ra.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, nhu cầu gỗ, lâm sản rất lớn,
trong khi dân số ngày càng tăng, công tác quản lý, bảo vệ rừng của các lực lượng
chức năng, đặc biệt là lực lượng kiểm lâm còn hạn chế khiến cho các vi phạm pháp
luật trong lĩnh vực này gia tăng một cách đáng kể cả về số lượng, tính chất, mức
độ. Vì vậy, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý rừng cần gắn bó chặt chẽ
với việc bảo đảm trật tự pháp luật (pháp chế xã hội chủ nghĩa). Nghị quyết số
17-TW ngày 1/8/2007 Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X về:
“Đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước” xác định cơ sở lý luận cần
thiết cho hoạt động của các cơ quan chức năng, nhất là ở mỗi cấp chính quyền địa
phương và cơ quan kiểm lâm trong việc chủ động phân cấp, kiện toàn tổ chức, bố
trí cán bộ, công chức hợp lý, tham mưu cho hiệu quả cho cơ quan có thẩm quyền
thực hiện các biện pháp, chương trình, dự án để quản lý, bảo vệ rừng ngày càng
tốt hơn, đặc biệt là phải gắn việc xử lý các vi phạm pháp luật trong lĩnh vực này
với việc thực hiện các chương trình, dự án để ổn định đời sống cho nhân dân, giải
quyết nguyên nhân cơ bản dẫn đến phá rừng, huỷ hoại rừng trên phạm vi nhiều địa
phương hiện nay.
2.2.2. Cơ sở pháp lý về quản lý, bảo vệ rừng và xử lý
vi phạm pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng
Năm 1991, lần đầu tiên Nhà nước
ta ban hành một văn bản luật điều chỉnh thống nhất các quan hệ xã hội trong lĩnh
vực bảo vệ và phát triển rừng. Sau 13 năm thực hiện, văn bản này đã không còn đáp
ứng được các yêu cầu quản lý và phát triển rừng thời kỳ phát triển nền kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập sâu, rộng vào các quan hệ quốc
tế trong khu vực và thế giới. Vì vậy, ngày 03 tháng 12 năm 2004, Quốc hội ban
hành Luật số 29/2004/QH11 về bảo vệ và phát triển rừng (gọi tắt là Luật bảo vệ
và phát triển rừng); trong đó quy định hai nhóm vấn đề là quản lý, bảo vệ, phát
triển, sử dụng rừng và quyền, nghĩa vụ của chủ rừng. Đồng thời, Luật bảo vệ và
phát triển rừng năm 2004 cũng quy định những hành vi bị nghiêm cấm để làm cơ sở
cho việc xác định chế tài cụ thể đối với các hành vi vi phạm.
Hiện nay, với các vi phạm hành
chính trong quản lý, bảo vệ rừng được xử lý theo Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày
03 tháng 12 năm 2009 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng,
bảo vệ rừng và quản lý lâm sản. Nghị định này còn xác lập cơ sở pháp lý cho việc
xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính và tội phạm (tội vi phạm các quy định
về khai thác và bảo vệ rừng (Điều 175) và tội vi phạm các quy định về quản lý rừng
(Điều 176)). Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện vi phạm, các đối tượng thường
không chỉ dừng lại ở các hành vi vi phạm trên mà có thể kéo theo các vi phạm khác
(hình sự, hành chính, dân sự, kỷ luật). Vì vậy, quá trình xử lý thường hết sức
phức tạp, bởi không chỉ xác định đúng vi phạm, áp dụng đúng chế tài, đảm bảo thực
thi quyết định vì sự nghiêm minh của pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa mà
còn phải đảm bảo cả các yêu cầu về chính trị-xã hội, ổn định an ninh, trật tự địa
phương trước mắt cũng như lâu dài.
Bảo vệ và phát triển rừng là
nhiệm vụ của Nhà nước và là nghĩa vụ của toàn dân, trong đó lực lượng Kiểm lâm
thuộc Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn là nòng cốt. Tổ chức và hoạt động
của lực lượng Kiểm lâm được quy định tại Nghị định của Chính phủ số 119/2006/NĐ-CP
ngày 16/102006 về tổ chức và hoạt động của Kiểm lâm, Điều 79, 80, 81 Luật bảo
vệ và phát triển rừng. Theo đó, lực lượng kiểm lâm có nhiệm vụ kiểm tra, kiểm
soát việc bảo vệ rừng, khai thác rừng, sử dụng rừng, lưu thông, vận chuyển,
kinh doanh lâm sản; đấu tranh phòng, chống các hành vi vi phạm pháp luật về bảo
vệ và phát triển rừng; đồng thời có quyền xử phạt vi phạm hành chính và áp dụng
các biện pháp ngăn chặn hành vi vi phạm hành chính, khởi tố, điều tra hình sự
đối với những hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng theo quy
định của pháp luật về xử lý vi phạm hành chính, pháp luật về hình sự và pháp
luật về tố tụng hình sự. Trong xử phạt vi phạm hành chính, lực lượng kiểm lâm
thực hiện thẩm quyền theo quy định tại Điều 23 Nghị định của Chính phủ số
99/2009/NĐ-CP. Ngoài ra, lực lượng kiểm lâm còn có nhiệm vụ tuyên truyền,
vận động nhân dân bảo vệ và phát triển rừng; phối hợp với Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn xây dựng và bồi dưỡng nghiệp vụ cho lực lượng quần chúng bảo
vệ rừng.
Bên
cạnh đó, theo quy định tại Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 3/3/2006 về thi hành
Luật Bảo vệ và phát triển rừng, Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh chịu trách nhiệm trước
Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ về việc quản lý toàn bộ tài nguyên rừng và tài
nguyên đất lâm nghiệp của quốc gia thuộc phạm vi địa bàn của tỉnh, thành phố; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp
huyện chịu trách nhiệm trước Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về việc để xảy ra phá rừng trái phép,
cháy rừng, mất rừng, sử dụng đất lâm nghiệp sai mục đích ở địa phương; Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp xã chịu trách nhiệm trước
Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện về việc để xảy ra phá rừng trái phép, cháy
rừng, mất rừng, sử dụng đất lâm nghiệp sai mục đích ở địa phương.
2.2.3. Đường lối, quan điểm xử lý
Đường
lối, quan điểm xử lý vi phạm pháp luật trong quản lý rừng, bảo vệ rừng liên
quan đến đối tượng là người dân tộc thiểu số là:
- Phải
kết hợp chặt chẽ giữa việc phát hiện kịp thời, ngăn chặn vi phạm, tiến hành xử
lý theo quy định của pháp luật với tuyên truyền, giáo dục, thuyết phục nhân dân
và tạo các điều kiện thuận lợi cho nhân dân ổn định về đời sống vật chất, tinh
thần để ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn và giúp
đỡ lực lượng kiểm lâm trong quản lý, bảo vệ rừng.
- Áp dụng
đúng các quy định pháp luật để xử lý nhưng có tính đến các tình tiết tăng nặng,
giảm nhẹ, nhân thân người vi phạm, điều kiện, hoàn cảnh kinh tế, trình độ dân
trí.
- Xử lý
nghiêm các đối tượng tổ chức, cầm đầu, chủ mưu, kích động, lôi kéo, rủ rê đồng
bào dân tộc thiểu số phá rừng làm rẫy. Nhanh chóng thực hiện các biện pháp ngăn
chặn vi phạm tiếp diễn, huy động lực lượng và các nguồn lực một cách hiệu quả để
khắc phục các hậu quả do vi phạm pháp luật.
2.2.4. Kinh nghiệm xử lý, giải quyết các vi phạm pháp
luật do người dân tộc thiểu số thực hiện
Trên cương vị Hạt trưởng Hạt
kiểm lâm rừng đặc dụng huyện LD, để xử lý các vi phạm pháp luật do người dân tộc
thiểu số thực hiện trên địa bàn một cách có hiệu quả cần phải:
- Phát huy vai trò của chính
quyền cơ sở, đặc biệt là của kiểm lâm viên chuyên trách tại Uỷ ban nhân dân xã ĐK,
các cộng tác viên kiểm lâm và kiểm lâm địa bàn xã thuyết phục người dân tham
gia bảo vệ và phát triển rừng, khai thác và hưởng lợi một cách hợp pháp tài
nguyên rừng.
- Tích cực vận động trưởng
buôn, những người có uy tín trong buôn giúp đỡ lực lượng kiểm lâm vận động,
thuyết phục để người vi phạm không tiếp tục vi phạm nữa; đồng thời, nhận thức rõ
trách nhiệm pháp lý trước Nhà nước vì đã có hành vi vi phạm. Tập trung tham mưu
cho chính quyền xã đề nghị cấp có thẩm quyền giải quyết các vấn đề liên quan đến
đời sống vật chất, nhu cầu sản xuất, canh tác của người dân.
- Áp dụng chế tài xử lý trên
cơ sở tạo cơ hội và các điều kiện để đối tượng có thể thực hiện được.
2.3. Phân tích diễn biến tình huống
Tình huống vi phạm pháp luật
của hộ gia đình ông Ha Kien là một điển hình về hoạt động phá rừng làm rẫy, trồng
sắn, trồng ngô, trồng cây lâu năm như điều, hồ tiêu, cà phê…ở một số địa phương,
trong đó có địa bàn tỉnh LĐ. Trên cơ sở các quy định pháp luật hiện hành, có thể
xác định các vi phạm của hộ gia đình ông Ha Kien như sau:
- Với diện tích rừng đặc dụng
bị chặt phá để lấy đất canh tác là 987,6 m2, hộ gia đình gồm 4 người của ông Ha
Kien đã thực hiện hành vi phá rừng trái pháp luật. Theo quy định tại Điều 17
Nghị định của Chính phủ số 99/2009/NDD-CP thì “Người nào có hành vi chặt phá cây rừng; đào bới, san ủi, nổ mìn, đào đắp
ngăn nước, xả chất độc hoặc các hành vi khác gây thiệt hại đến rừng với bất kỳ
mục đích gì (trừ hành vi quy định tại Điều 18 của Nghị định này) mà không được
phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc được phép chuyển đổi mục đích sử
dụng rừng nhưng không thực hiện đúng quy định cho phép” thì bị xử phạt bằng
các hình thức và theo các khung tiền phạt được xác định từ khoản 1 đến khoản 6
Nghị định 99/2009/NĐ-CP.
Loại rừng mà hộ gia đình ông
Ha Kien chặt phá là rừng đặc dụng, có diện tích từ trên 700m2 đến
1000m2 thì bị áp dụng hình thức xử phạt là phạt tiền (hình thức xử
phạt chính); tịch thu lâm sản, công cụ, phương tiện sử dụng để vi phạm hành chính
(hình thức phạt bổ sung); bị buộc trồng lại rừng hoặc thanh toán chi phí trồng
lại rừng (biện pháp khắc phục hậu quả). Căn cứ quy định tại khoản 7 Điều 3 Nghị
định số 99/2009/NDD-CP, vi phạm của các thành viên trong gia đình không cấu thành
tội phạm theo quy định tại Điều 175 Bộ luật hình sự năm 1999.
Căn cứ quy định tại Điều 6, Điều
7 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 thì trong gia đình ông Ha Kien,
chỉ có ông, vợ ông và con trai Ha Klai là đủ năng lực gánh chịu trách nhiệm hành
chính. Ha Klai mới 15 tuổi nên chỉ bị áp dụng hình thức phạt cảnh cáo.
- Căn cứ quy định tại điểm d
khoản 4 Điều 17 Nghị định số 99/2009/NĐ-CP, ông Ha Klai và vợ đều bị áp dụng hình
thức xử phạt chính là phạt tiền. Theo quy định thì khung tiền phạt là từ
30.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng. Theo quy định tại khoản 2 Điều 57, Điều 8
và Điều 9 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002, vi phạm của ông Ha Kien
và vợ có cả tình tiết tăng nặng (vi phạm nhiều lần, tiếp tục thực hiện hành vi
vi phạm mặc dù người có thẩm quyền đã yêu cầu chấm dứt hành vi đó) và giảm nhẹ
(vi phạm vì hoàn cảnh khó khăn mà không do mình gây ra, vi phạm do trình độ lạc
hậu). Vì vậy, trong quyết định có thể áp dụng tình tiết tăng nặng, cũng có thể áp
dụng tình tiết giảm nhẹ hoặc không áp dụng để xác định mức trung bình của khung
tiền phạt.
- Các kiểm lâm viên thực thi
công vụ đã lựa chọn phương án hành động hợp lý, vừa đảm bảo yêu cầu của pháp luật
trong việc lưu giữ căn cứ cho việc đấu tranh, xử lý vi phạm (lập biên bản về vi
phạm hành chính), vừa bảo toàn được lực lượng trong trường hợp lực lượng mỏng,
không đủ điều kiện để xử lý triệt để vi phạm. Đồng thời, tiến hành tham mưu, sử
dụng các biện pháp quản lý mềm dẻo để tác động đến nhận thức, thái độ của đồng
bào nhằm từng bước tạo sự chuyển biến về hành vi chấp hành pháp luật.
.2.4. Nguyên nhân xảy ra tình huống
2.4.1. Nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, thể chế pháp lý trong quản lý, bảo vệ rừng và xử phạt các hành
vi phá rừng làm rẫy còn nhiều hạn chế
Hiện nay, một số chủ trương, chính sách của Nhà nước chưa phù hợp với tình
hình thực tế ở các địa phương như: Việc chi trả kinh phí cho các hộ dân nhận
khoán rừng rất thấp, từ 100 đến 200 ngàn đồng/ha/năm. Các hộ nhận khoán bảo vệ
rừng chưa có chính sách hưởng lợi hợp lý theo lượng tăng bình quân hàng năm của
rừng, nên cuộc sống của người dân không đảm bảo, không làm tròn trách nhiệm
trong công tác bảo vệ rừng. Các cấp chính quyền địa phương còn thiếu kiên quyết
trong việc di dời các điểm dân cư tự phát nằm giữa ngay rừng, mà còn tiến hành
hợp thức hóa thành các điểm dân cư hành chính cho họ, mặc dù các hộ dân cư đó
đang lấn chiếm đất rừng do Nhà nước quản lý và cả do các công ty lâm nghiệp
quản lý và sử dụng.
Mặc dù theo quy định
của pháp luật hành vi phá rừng làm rẫy có khung tiền phạt khá cao (so với mức sống
và thu nhập của đồng bào dân tộc thiểu số) nhưng khó có thể đảm bảo thực hiện được
khi lực lượng kiểm lâm mỏng, thường không phát hiện kịp thời vi phạm, khi người
dân đã trồng cây, canh tác, sản xuất (thường tiến hành vào ban đêm hoặc theo dõi
quy luật hoạt động của lực lượng kiểm lâm để trốn tránh) thì gần như “sự đã rồi”.
Với tập quán du canh, du cư của đồng bào, việc xử lý lại càng khó khăn hơn. Dần
dần, dẫn đến hiện tượng “nhờn” luật. Đây cũng là nguyên nhân chính làm gia tăng
tình trạng phá rừng, lấn chiếm đất rừng một cách ồ ạt của nhiều hộ đồng bào dân
tộc thiểu số.
Thứ hai, điều kiện sinh sống của đồng bào dân tộc thiểu số.
Đồng bào dân tộc thiểu số
sinh sống chủ yếu tại các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa, gắn bó mật thiết với
rừng, đất rừng và thường có tập quán sinh sống là du canh, du cư, đốt rừng làm
rẫy, săn bắn thú rừng. Phần lớn người dân không biết chữ, không biết tiếng phổ
thông, tâm lý tự ti dân tộc nên thường sống khép kín. Khi Nhà nước quản lý rừng
một cách chặt chẽ để phục vụ cho việc khai thác và phát triển rừng lâu dài vì lợi
ích chung của toàn xã hội thì trực tiếp tác động đến đời sống của người đồng bào
dân tộc thiểu số. Họ không thể sống theo tập quán canh tác cũ, nếp sinh hoạt cũ
mà phải chấp hành pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng. Điều này rất khó khăn khi
bản thân họ trình độ văn hoá thấp, các kỹ thuật canh tác, sản xuất, trồng trọt,
chăn nuôi còn rất lạc hậu, nên kết quả sản xuất thường là năng suất không cao,
chất lượng thấp. Các điều kiện tiếp cận thông tin hạn chế khiến đồng bào càng ít
nắm được các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước về quản lý,
bảo vệ rừng, nhất là không nắm được cơ hội để tham gia vào các chương trình, dự
án của Nhà nước, của địa phương về phát triển rừng, giao đất, giao rừng…Vì vậy,
để mưu sinh, một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số vẫn sống theo tập quán cũ,
thậm chí phá rừng, đốt rừng làm rẫy, tiếp tay cho lâm tặc vận chuyển lâm sản…
Trong khi đó, áp lực về dân
số ở các vùng có rừng tăng nhanh do tăng cơ học, di cư tự do từ nơi khác, đòi
hỏi cao về đất ở và đất canh tác, những đối tượng này chủ yếu là những hộ
nghèo, đời sống gặp nhiều khó khăn, sinh kế chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên
rừng. Nhận thức về bảo vệ rừng còn hạn chế, do đó vẫn tiếp tục phá rừng kiếm kế
sinh nhai, lấy đất canh tác hoặc làm thuê cho bọn đầu nậu, kẻ có tiền để phá
rừng hoặc khai thác gỗ, lâm sản trái phép.
Mặt khác, do cơ chế thị
trường, giá cả một số mặt hàng nông, lâm sản tăng cao, nhu cầu về đất canh tác
các mặt hàng này cũng tăng theo, nên đã kích thích người dân phá rừng để lấy
đất trồng các loại cây có giá trị cao hoặc buôn bán đất, sang nhượng trái phép.
Đồng thời, để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế xã hội trong tình hình mới,
nhiều công trình xây dựng, đường xá và cơ sở hạ tầng khác được xây dựng gây áp
lực lớn đối với rừng và đất lâm nghiệp, tạo môi trường thuận lợi cho các hoạt
động phá rừng, khai thác và vận chuyển lâm sản trái phép.
Thứ ba, năng lực quản lý và bảo vệ rừng
của nhiều chủ rừng và cơ
quan chức năng còn chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn của việc ngăn chặn các hành
vi phá rừng làm rẫy của đồng bào dân tộc thiểu số.
Do quyền hạn của các công ty lâm nghiệp là chủ rừng trong công tác quản
lý, bảo vệ rừng hầu như không có, chỉ được phép ngăn chặn và báo cáo xin ý
kiến, do đó hạn chế về nhiều mặt đối với công tác quản lý, bảo vệ rừng. Lực
lượng quản lý và bảo vệ rừng của các công ty lâm nghiệp còn chưa được coi
trọng, chưa có chế độ ưu đãi phù hợp dù trên thực tế họ là lực lượng chính để
giữ rừng. Vì vậy, gánh nặng công tác quản lý, bảo vệ rừng dồn lên vai lực lượng
kiểm lâm. Trong khi đó, lực lượng kiểm lâm mỏng, địa vị
pháp lý chưa rõ ràng, trang thiết bị, phương tiện thiếu thốn, lạc hậu. Chế độ
chính sách cho lực lượng kiểm lâm chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao. Tại một số địa phương, tiền ưu đãi nghề nghiệp đối với kiểm
lâm còn chậm được thanh toán. Về tổ chức, biên chế lực lượng quản lý bảo vệ
rừng chưa được sắp xếp ổn định, cho nên nguồn kinh phí chi trả tiền lương cho
lực lượng chuyên trách bảo vệ rừng chưa có. Thực tế cho thấy, ở những
vùng trọng điểm phá rừng nếu chỉ có lực lượng kiểm lâm không thể giải quyết dứt
điểm. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ còn hạn chế (nhất là nghiệp vụ vận động
quần chúng), một số công chức kiểm lâm dao động trước khó khăn, thậm chí có
biểu hiện tiêu cực.
Công
tác đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ, giáo dục đạo đức phẩm chất cho đội ngũ bảo
vệ rừng nhất là kiểm lâm chưa được coi trọng đúng mức, nên chưa có cơ sở vật
chất cho việc đào tạo, huấn luyện. Mặt khác, cơ sở vật chất cho công tác bảo vệ
rừng hết sức khó khăn. Những năm qua nguồn đầu tư cho bảo vệ rừng chủ yếu từ
chương trình 661, nhưng chỉ được 5% cho xây dựng cơ sở hạ tầng, vì vậy các công
trình phòng cháy, chữa cháy rừng, công trình nghiệp vụ khác được xây dựng không
đáp ứng được yêu cầu bảo vệ rừng bền vững. Tỷ trọng vốn đầu tư của xã hội cho
công tác bảo vệ rừng không đáng kể.
2.4.2. Nguyên nhân chủ quan
Một là, công tác phổ biến, tuyên truyền, giáo dục pháp luật và cơ chế
chính sách về lâm nghiệp chưa được thực hiện có hiệu quả. Người
dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, đồng bào dân tộc thiểu số chưa nhận thức đầy
đủ tính cấp thiết của việc bảo vệ và phát triển rừng, nên vẫn tiếp tục phá
rừng, có nơi còn tiếp tay, làm thuê cho bọn đầu nậu, kẻ có tiền.
Hai là, các ngành, các cấp chính quyền, đặc biệt là cấp xã nhận thức
chưa đầy đủ, tổ chức thực hiện thiếu nghiêm túc trách nhiệm quản lý nhà nước về
rừng và đất lâm nghiệp. Ở những điểm nóng phá rừng, do lợi ích cục bộ, đã
làm ngơ, thậm chí có biểu hiện tiếp tay cho các hành vi phá rừng, khai thác,
tiêu thụ lâm sản, sang nhượng đất đai trái phép, nhưng không bị xử lý nghiêm
túc. Có địa phương sau một thời gian thực hiện các biện pháp kiên quyết ngăn
chặn tình trạng phá rừng còn có biểu hiện thỏa mãn với thành tích, không duy
trì hoạt động thường xuyên, do vậy tình trạng phá rừng và các hành vi vi phạm
pháp luật tiếp tục tái xuất hiện.
Ba là, chủ rừng là các lâm trường quốc doanh, Ban quản lý rừng phòng hộ
và rừng đặc dụng không đủ năng lực để quản lý, bảo vệ diện tích rừng được giao. Một số
đơn vị có biểu hiện thiếu trách nhiệm, thông đồng, tiếp tay cho hành vi phá
rừng. Các chủ rừng là hộ gia đình, cá nhân và các tổ chức khác có diện tích quy
mô nhỏ nên không thể tự tổ chức lực lượng bảo vệ rừng được giao. Các diện tích
rừng chưa có chủ, thuộc trách nhiệm quản lý của Uỷ ban nhân dân xã, nhưng chưa
có cơ chế để chính quyền cấp xã thực hiện công tác quản lý, bảo vệ rừng có hiệu
quả.
Bốn là, cơ chế chính sách chậm đổi mới chưa tạo động lực thu hút các
nguồn lực cho bảo vệ rừng. Quyền và nghĩa vụ của chủ rừng thiếu rõ ràng, khi
rừng bị mất, chủ rừng (nhất là các chủ rừng thuộc Nhà nước) không phải chịu
trách nhiệm trực tiếp. Chính sách quyền hưởng lợi từ rừng chưa phù hợp với thực
tiễn, lại chưa được các địa phương thực hiện nghiêm túc. Công tác quy hoạch, kế
hoạch thiếu tính khoa học, chưa đồng bộ với các quy hoạch khác như quy hoạch
phát triển kinh tế xã hội, sử dụng đất đai,... nên quy hoạch không được thực hiện
nghiêm túc, thường xuyên bị phá vỡ. Công tác giao, cho thuê rừng, đất rừng,
khoán bảo vệ rừng chưa quan tâm đến đối tượng đồng bào dân tộc thiểu số, việc
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất rừng còn rất chậm, theo dõi việc sử dụng
đất rừng sau khi giao, cho thuê chưa thường xuyên. Thiếu sự đồng bộ, gắn kết
trong tổ chức thực hiện các chương trình, dự án (chương trình quốc gia về xóa
đói giảm nghèo; các chương trình 135; 132 và 134; 120; 661).
Năm là, chưa huy động được các lực lượng của xã hội cho bảo vệ rừng. Phối hợp
giữa các lực lượng Công an, Quân đội, Kiểm lâm ở nhiều địa phương chưa thật sự
có hiệu quả, còn mang tính hình thức, nhiều tụ điểm phá rừng trái phép chưa có
phương án giải quyết của liên ngành. Việc xử lý các vi phạm chưa kịp thời, thiếu
kiên quyết, còn có những quan điểm khác nhau của các cơ quan chức năng ở một số
địa phương.
2.5. Hậu
quả của tình huống
2.5.1. Về phía xã hội
Hành vi phá rừng của đồng bào dân tộc thiểu số nếu không được
ngăn chặn kịp thời và xử lý nghiêm minh sẽ làm cho tài nguyên rừng bị cạn kiệt
một cách nhanh chóng, tạo cơ hội cho lâm tặc phá rừng, khai thác rừng trái
phép. Khi tài nguyên rừng bị mất đi sẽ khó hoặc không thể khôi phục lại được.
Các nguồn gen quý hiếm, cần được bảo tồn sẽ bị thiệt hại, bị mất đi. Rừng đặc
dụng là loại rừng được sử dụng chủ yếu để bảo tồn thiên nhiên, mẫu chuẩn hệ
sinh thái rừng của quốc gia, nguồn gen sinh vật rừng;
nghiên cứu khoa học; bảo vệ di tích lịch sử, văn hoá, danh lam thắng cảnh; phục
vụ nghỉ ngơi, du lịch, kết hợp phòng hộ, góp phần bảo vệ môi trường. Vì vậy,
khi xâm hại đến các nhóm đối tượng của rừng đặc dụng sẽ ảnh hưởng rất lớn đến nơi
sinh sống của nhiều loài động thực vật rừng, các di tích lịch sử văn hoá, danh
lam thắng cảnh, các lợi ích trong du lịch, nghiên cứu khoa học, phát triển kinh
tế-xã hội…Khi diện tích rừng bị thu hẹp sẽ kéo theo các vấn đề
về biến đổi khí hậu, ảnh hưởng đến đất đai và sức khỏe của con người.
2.5.2. Về phía Nhà nước
Quản lý, bảo
vệ và phát triển rừng là trách nhiệm của Nhà nước. Vì vậy, khi rừng bị xâm hại
thì ảnh hưởng lớn đến các nguồn lực (nhân lực, vật lực, tài lực) mà Nhà nước đã,
đang và sẽ đầu tư cho sự nghiệp này. Mặt khác, khi các ảnh hưởng về môi trường,
khí hậu, đất đai do mất rừng ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất của người dân thì
Nhà nước phải tổ chức khắc phục hậu quả. Với các vi phạm pháp luật phát sinh
trong quản lý, bảo vệ rừng cũng khiến Nhà nước phải đầu tư về nhân lực, về phương
tiện, công cụ, tài chính, về cơ chế, chính sách, đào tạo, bồi dưỡng nhân lực
cho các lực lượng quản lý, bảo vệ rừng và xử lý vi phạm.
Các vi phạm pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng còn khiến cho Nhà nước mất
đi các nguồn thu từ thuế, từ du lịch, dịch vụ, xuất khẩu các sản phẩm lâm
nghiệp, đồng thời phải tăng nhập khẩu các sản phẩm lâm nghiệp để đáp ứng nhu
cầu trong nước. Đồng thời, quá trình giải quyết các vi phạm có thể không đảm
bảo được sự kết hợp hài hoà giữa chính trị và pháp lý nên sẽ tiềm ẩn những nguy
cơ không nhỏ đến an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội tại các địa phương,
có thể dẫn đến việc các thế lực thù địch lợi dụng gây chia rẽ dân tộc.
3. XỬ LÝ
TÌNH HUỐNG
3.1. Mục
tiêu xử lý tình huống
Mục tiêu của việc xử lý tình
huống trên là nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật trong xử lý vi phạm quy định
về quản lý, bảo vệ rừng, đồng thời làm cho người dân nhận thức đúng trách nhiệm,
loại bỏ phong tục, tập quán lạc hậu, du canh du cư, ổn định đời sống và tham
gia vào sự nghiệp quản lý, bảo vệ, phát triển rừng.
3.2. Đề
xuất phương án xử lý tình huống
Để xử lý tình huống trên, tiểu
luận đề xuất một số phương án cụ thể như sau:
3.2.1. Phương án 1. Xử phạt vi phạm hành chính đối
với vợ chồng ông Ha Kien bằng
hình thức xử phạt cảnh cáo
Điểm mạnh của phương án này
là phát huy tác dụng của giáo dục, thuyết phục đối với người dân tộc thiểu số vốn
thật thà, chất phác, ngay thẳng, điều kiện kinh tế còn khó khăn. Nếu xử phạt tiền
thì không thể đảm bảo thực hiện được quyết định xử phạt mà còn có thể gây bất đồng
lớn tại địa bàn. Việc áp dụng hình thức phạt cảnh cáo có tác dụng: vừa thể hiện
thái độ không đồng tình với các hành vi vi phạm, vừa thể hiện chính sách nhân đạo,
khoan hồng của Nhà nước với đồng bào dân
tộc thiểu số. Vì vậy, yêu cầu về chính trị sẽ đạt được. Tuy nhiên, yêu cầu về mặt
pháp lý lại rất hạn chế. Theo Điều 13 Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính thì cảnh
cáo được áp dụng đối với vi phạm hành chính nhỏ, lần đầu, có tình tiết giảm nhẹ.
Mặc dù vợ chồng ông Ha Kien vi phạm có tình tiết giảm nhẹ nhưng hành vi diễn ra
nhiều lần trước khi bị phát hiện (dù chưa bị xử lý lần nào), vi phạm không thuộc
loại nhỏ, lại có cả tình tiết tăng nặng nên nếu áp dụng cảnh cáo thì không phù
hợp về mặt pháp lý. Đây cũng chính là nhược điểm của phương án này.
3.2.2. Phương án 2. Xử phạt vi phạm hành chính theo
quy định của pháp luật gắn với tuyên truyền, giáo dục và tạo điều kiện cho vợ chồng ông
Ha Kien
chấp hành quyết định xử phạt
Vi phạm
hành chính của vợ chồng ông Ha Kien có cả tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ. Vậy
phải áp dụng các tình tiết đó như thế nào để quyết định xử phạt là vấn đề có ý
nghĩa quan trọng trong đảm bảo sự kết hợp hài hoà yếu tố chính trị, pháp lý
trong xử lý vụ việc. Sự vi phạm của gia đình ông nói chung và vợ chông ông Ha
Kien nói riêng bắt nguồn từ sự thiếu hiểu biết pháp luật (do điều kiện cư trú,
sinh sống, kinh tế) và trình độ nhận thức còn lạc hậu. Đây cũng chính là nguyên
nhân dẫn đến hành vi phá rừng, không chấp hành yêu cầu của người thi hành công
vụ, lôi kéo người chưa thành niên (các con) vào việc vi phạm. Vì vậy, cần xem tình
tiết vi phạm do trình độ lạc hậu là cơ bản. Theo đó, chỉ áp dụng mức phạt là
30.000.000 đồng (mức tối thiểu của khung tiền phạt) đối với ông Ha Kien là chủ
hộ, đứng ra tổ chức cho các thành viên gia đình phá rừng. Đồng thời áp dụng biện
pháp khắc phục hậu quả là buộc trồng lại rừng. Còn vợ ông và con trai Ha Klai
chỉ áp dụng phạt cảnh cáo.
Do đó, ưu điểm của phương án này là đảm bảo kết
hợp hài hoà nhất yếu tố chính trị với yếu tố pháp lý. Vừa thể hiện được sự
nghiêm minh của pháp luật, có giá trị phòng ngừa và đấu tranh chung với các vi
phạm pháp luật trên địa bàn, vừa thể hiện được chính sách nhân đạo của Nhà nước
với vi phạm của đồng bào dân tộc thiểu số. Đồng thời, kết hợp với tuyên truyền,
giáo dục pháp luật cho vợ chông Ha Kien để thấy được sự linh hoạt trong áp dụng
pháp luật của lực lượng kiểm lâm vì lợi ích của gia đình ông nhưng cũng để răn đe
các đối tượng khác cố ý xâm hại đến rừng. Tuy nhiên, phương án này có nhược điểm
rất lớn là số tiền phạt quá cao, biện pháp khắc phục hậu quả khó có thể được đảm
bảo nếu không có các biện pháp cần thiết từ phía các cơ quan chức năng, trong đó
có chính quyền xã và lực lượng kiểm lâm địa bàn.
3.3. Lựa
chọn và tổ chức thực hiện phương án xử lý tình huống
3.3.1. Lựa chọn phương án giải quyết
Trong hai phương án trên, mỗi
phương án đều có những ưu, nhược điểm nhất định. Việc thực hiện phương án 1 dễ
dàng trong triển khai thực hiện nhưng không thể hiện được sự nghiêm minh của pháp
luật, không có tác dụng ngăn chặn tình trạng phá rừng trái phép, có thể dẫn đến
hệ quả “nhờn” pháp luật. Trong khi đó, phương án 2 cho phép áp dụng đúng pháp
luật nhưng để đảm bảo tính khả thi thì cần mềm dẻo trong quá trình triển khai
thực hiện. Có như vậy mới giúp đồng bào dân tộc thiểu số hiểu được mục tiêu của
các chính sách, pháp luật của Nhà nước là phục vụ nhân dân chứ không nặng về trừng
trị.
Với những lập luận này, tiểu
luận lựa chọn phương án 2 là phương án tối ưu để giải quyết tình huống.
3.3.2.Tổ chức thực hiện phương án tối ưu
Để thực hiện được phương án
tối ưu (phương án 2), cần tiến hành theo các trình tự cụ thể như sau:
* Vận động, thuyết phục trưởng buôn cùng đến nhà Ha Kien để yêu cầu đến cơ
quan kiểm lâm giải quyết vi phạm.
Thông thường ở các cộng đồng
dân tộc thiểu số, vai trò của trưởng buôn, trưởng bản, già làng…rất lớn. Vì vậy,
trước hết cần thuyết phục trưởng buôn ủng hộ lực lượng kiểm lâm trong xử lý hành
vi vi phạm của vợ chồng Ha Kien. Sau đó, cùng trưởng buôn đến nhà Ha Kien giải
thích cho họ rõ các quy định của pháp luật về quản lý, bảo vệ rừng; các hành vi
bị nghiêm cấm trong lĩnh vực này; chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm của vợ
chồng Ha Kien và con trai Ha Klai.
Quá trình vận động, thuyết
phục phải trên tinh thần vì lợi ích của họ, không bài xích, không áp lực để họ
hiểu ra hành vi của mình là sai trái. Từ đó, thuyết phục họ ký vào các biên bản
vi phạm để làm cơ sở cho việc xử lý. Sau đó, hẹn họ đến trụ sở của cơ quan kiểm
lâm để giải quyết. Nhắc nhở họ trong thời gian chờ xử lý không được tiếp tục thực
hiện vi phạm nếu không sẽ không được hưởng chính sách khoan hồng của Nhà nước.
* Hạt trưởng Hạt kiểm lâm rừng đặc dụng huyện LD ra quyết định xử phạt vi
phạm hành chính đối vợ chồng
ông Ha
Kien
Hạt trưởng ra quyết định xử
phạt cảnh cáo đối với vợ và con ông Ha Kien. Sau đó, trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày lập
biên bản vi phạm hành chính, ra quyết định xử phạt ông Ha
Kien bằng hình thức phạt tiền, mức tối thiểu là 30.000.000 đồng và buộc gia đình
ông phải trồng lại rừng. Quyết định xử phạt sau khi được ban hành phải giao cho
ông Ha Kien trong thời gian 3 ngày, kèm theo công tác thuyết phục, động viên để
ông yên tâm chấp hành quyết định xử phạt.
* Áp dụng các quy định pháp luật để kéo dài việc thực hiện quyết định xử
phạt cho ông Ha Kien
Do điều kiện hoàn cảnh khó
khăn về kinh tế. Hạt trường có thể quy định ngày có hiệu lực khác so với ngày ký
quyết định xử phạt để kéo dài thời gian cho gia đình ông Ha Kien có thể đảm bảo
thực hiện quyết định nhưng tối đa không quá 1 năm kể từ ngày quyết định được
ban hành (bởi nếu quá thì sẽ hết thời hạn thi hành quyết định xử phạt).
Sau đó, căn cứ vào tình hình
thực tế, khi đến thời hạn thực hiện, nếu ông Ha Kien chưa thể đảm bảo thực hiện
quyết định xử phạt thì cần hướng dẫn ông thực hiện thủ tục xin nộp tiền phạt
nhiều lần. Theo quy định tại Điều 27 Nghị định của Chính phủ số 128/2008/NĐ-CP
ngày 16 tháng 12 năm 2008 quy định chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh
Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008 thì thời hạn nộp tiền phạt nhiều lần
không quá mười hai tháng, kể từ ngày quyết định xử phạt có hiệu lực; số lần nộp
tiền phạt tối đa không quá 03 lần và mỗi lần nộp tiền phạt tối thiểu không dưới
một phần ba (1/3) tổng số tiền phải nộp phạt. Số tiền chưa nộp phạt phải chịu
lãi suất không kỳ hạn được tính từ thời điểm quyết định xử phạt có hiệu lực.
Như vậy, việc thực hiện quyết
định xử phạt của ông Ha Kien có thể được kéo dài trong 2 năm. Ở lần nộp tiền phạt
cuối có thể áp dụng quy định về hoãn chấp hành quyết định xử phạt vi phạm hành
chính. Hạt kiểm lâm cần phối hợp (bằng con đường công văn) với Uỷ ban nhân dân
xã ĐK để giúp ông Ha Kien soạn đơn đề nghị Hạt trưởng hoãn chấp hành quyết định
xử phạt, có xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã ĐK về điều kiện gặp hoàn cảnh đặc
biệt khó khăn về kinh tế.
* Tham mưu cho chính quyền địa phương giúp đỡ gia đình ông Ha Kien trong
thời gian thực hiện quyết định xử phạt
Hạt trưởng Hạt kiểm lâm rừng
đặc dụng huyện LD cần tham mưu cho UBND xã ĐK tổ chức thực hiện tuyên truyền,
phổ biến các quy định pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng thông qua hệ thống
truyền thanh cơ sở cho toàn thể nhân dân trên địa bàn. Xây dựng phương án giao
rừng cho gia đình ông Ha Kien để tạo điều kiện cho gia đình ông có thể ổn định đời
sống. Đồng thời, ký hợp đồng cho hộ gia đình ông Ha Kien thuê rừng, nhận khoán
rừng theo khả năng. Cử cán bộ hướng dẫn gia đình ông hoặc khi có lớp tập huấn
kiến thức về sản xuất lâm nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp kết hợp; làm nương rẫy,
định canh, thâm canh, luân canh, chăn thả gia súc theo quy hoạch, kế hoạch thì
mời hộ gia đình ông cùng tham gia học tập để nâng cao hiểu biết.
Bên cạnh đó, UBND xã cần chỉ
đạo các thôn, bản xây dựng và thực hiện quy ước quản lý, bảo vệ, phát triển rừng;
tổ chức và huy động lực lượng quần chúng trên địa bàn phối hợp với kiểm lâm, lực
lượng công an, quân đội trên địa bàn phát hiện và ngăn chặn kịp thời những hành
vi xâm hại rừng.
Hạt trưởng Hạt kiểm lâm cũng
cần phối hợp với cơ quan nông nghiệp địa bàn để giúp đỡ ông Ha Kien về giống cây
trồng nhằm tạo điều kiện cho ông khắc phục hậu quả (trồng lại rừng). Phối hợp với
các cơ quan thông tin đại chúng tạo cơ hội cho ông Ha Kien tham gia vào các chương
trình nhân đạo, hưởng các chính sách đãi ngộ dành cho hộ nghèo, hộ đói. Đồng thời,
chỉ đạo kiểm lâm viên địa bàn bồi dưỡng năng lực để ông Ha Kien tham gia vào lực
lượng kiểm lâm với vai trò là cộng tác viên kiểm lâm. Trong thời gian chấp hành
quyết định xử phạt, tạo điều kiện cho ông được phép khai thác một số sản vật từ
rừng phù hợp với quy định của pháp luật.
* Kết thúc việc xử phạt
Sau khi ông
Ha Kien chấp hành xong quyết định xử phạt, Hạt trưởng Hạt kiểm lâm cần chỉ đạo
cán bộ kiểm lâm lưu giữ toàn bộ hồ sơ vụ vi phạm hành chính để quản lý, theo dõi.
Đồng thời, tiến hành rút kinh nghiệm cho các lần xử lý tiếp theo.
4. KIẾN NGHỊ
Để hạn chế và giải quyết có
hiệu quả các vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, bảo vệ rừng và quản lý
lâm sản của đồng bào dân tộc thiểu số đang nổi lên hiện nay, tiểu luận kiến
nghị một số vấn đề sau:
4.1. Kiến nghị với Đảng, Nhà nước
Đối với Đảng cần có nghị quyết
chuyên đề về lâm nghiệp bên cạnh việc triển khai mạnh mẽ Nghị quyết số 26-NQ/TƯ
ngày 28/8/2008 về nông nghiệp, nông dân và nông thôn, các nghị quyết liên quan đến
xoá đói, giảm nghèo, giảm khoảng cách giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt là vấn
đề quản lý, bảo vệ rừng tại những nơi có liên quan mật thiết đến cuộc sống đồng
bào dân tộc thiểu số để lãnh đạo thực hiện có hiệu quả công tác quản lý, bảo vệ
rừng của Nhà nước trong mối quan hệ hài hoà với các chính sách dân tộc.
Đối với Chính phủ cần ban hành theo thẩm quyền
các văn bản quy phạm pháp luật, quy chế, quy trình, quy phạm, các tiêu chuẩn,
định mức kinh tế - kỹ thuật về bảo vệ và phát triển rừng và tổ chức chỉ đạo
việc thực hiện. Hướng
dẫn và chỉ đạo thực hiện việc giao rừng, cho thuê rừng, thu hồi rừng, chuyển
mục đích sử dụng rừng; lập và quản lý hồ sơ giao, cho thuê rừng và đất để trồng
rừng. Tổ
chức và chỉ đạo thực hiện việc nghiên cứu và chuyển giao khoa học công nghệ,
đào tạo nguồn nhân lực, hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển
rừng. Ban hành một số chính sách về kinh phí cho hoạt động nghiệp vụ, tiền
lương, chế độ thương binh, liệt sỹ, cơ chế sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ để
trấn áp lâm tặc. Xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu tư trang thiết bị bảo vệ rừng, đầu
tư xây dựng các Trung tâm huấn luyện, đào tạo chuyên ngành cho lực lượng bảo vệ
rừng; trang bị phương tiện đáp ứng yêu cầu công tác hiện trường cho các Hạt
Kiểm lâm trên toàn quốc, trước mắt tập trung đầu tư cho các Hạt Kiểm lâm ở
những vùng trọng điểm; ứng dụng khoa học công nghệ, tin học, GIS, viễn thám vào
công tác quản lý bảo vệ rừng, theo dõi diễn biến rừng và đất lâm nghiệp; thiết
lập và sử dụng có hiệu quả mạng máy tính chuyên ngành; xây dựng phần mềm quản
lý, theo dõi diễn biến tài nguyên rừng và các vụ vi phạm Luật bảo vệ và phát
triển rừng. Xây dựng cơ chế về đóng góp tài chính cho hoạt động bảo vệ rừng từ
các tổ chức, cá nhân được hưởng lợi từ dịch vụ môi trường rừng. Hợp tác quốc tế
để thu hút các nguồn vốn ODA và các hỗ trợ kỹ thuật của cộng đồng quốc tế cho
công tác bảo vệ rừng.
4.2. Kiến nghị với cơ quan chức năng
Đối với Bộ Nông nghiệp và
phát triển nông thôn cần thực hiện các giải pháp để đổi mới tổ chức lực lượng
kiểm lâm theo Luật bảo vệ và phát triển rừng để kiểm lâm gắn với chính quyền,
với dân, với rừng, thực hiện chức năng tham mưu cho chính quyền địa phương, tổ
chức bảo vệ rừng đặc dụng và rừng phòng hộ, bảo đảm chấp hành pháp luật trong
việc bảo vệ và phát triển rừng. Bố trí kiểm lâm địa bàn ở 100% các xã có rừng
để tham mưu cho chính quyền cơ sở trong công tác quản lý nhà nước về lâm nghiệp,
theo dõi chặt chẽ diễn biến rừng; kịp thời phát hiện, ngăn chặn ngay từ đầu
những vụ vi phạm. Từng bước tăng biên chế cho lực lượng kiểm lâm để bảo đảm
định mức bình quân 1.000ha rừng có 1 kiểm lâm. Đồng thời, tăng cường trang
thiết bị cho kiểm lâm gồm các phương tiện hoạt động phù hợp với địa bàn rừng
núi, hệ thống thông tin liên lạc, thiết bị phòng cháy, chữa cháy rừng. Đánh giá
nhu cầu đào tạo về quản lý bảo vệ rừng, lập kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng về
chuyên môn nghiệp vụ và chính trị cho các đối tượng. Xây dựng chiến lược đào
tạo về bảo vệ rừng đến năm 2015. Tổ chức các chương trình trao đổi kinh nghiệm
về công tác quản lý, bảo vệ rừng.
Đối với chính quyền tỉnh LĐ
cần có các chính sách thiết thực để hỗ trợ nâng cao đời sống người dân, nhất là
đồng bào dân tộc thiểu số như đẩy mạnh việc giao rừng và đất lâm nghiệp, khoán
bảo vệ rừng cho các hộ gia đình, cộng đồng dân cư sống chủ yếu bằng nghề lâm
nghiệp; đồng thời hoàn thành việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các
chủ rừng. Sớm hoàn thành chủ trương giải quyết đất ở, đất sản xuất, hỗ trợ nhà
ở cho đồng bào dân tộc đang gặp nhiều khó khăn, gắn với các chương trình mục
tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo, chương trình định canh định cư, quy hoạch
và tổ chức thực hiện các dự án ổn định vùng kinh tế mới để người dân có thu
nhập từ sản xuất, sớm ổn định cuộc sống, giảm bớt sự lệ thuộc vào thu nhập từ
các hoạt động khai thác rừng trái pháp luật...Rà soát ổn định diện tích canh
tác nương rẫy theo phong tục tập quán của
đồng bào ở một số khu vực, từng bước chuyển sang phương thức canh tác thâm
canh, cung cấp giống cây trồng phù hợp với lập địa, có hiệu quả kinh tế cao và
hướng dẫn kỹ thuật cho đồng bào. Nghiên cứu chính sách hỗ trợ của Nhà nước cho
đồng bào tương đương với thu nhập từ canh tác quảng canh nương rẫy hiện nay
(tương đương khoảng 1 đến 1,5 tấn thóc/hécta/năm) trong thời gian 3 đến 5 năm,
cung cấp giống cây rừng và một số vật tư cần thiết khác cho đồng bào dân tộc
tại chỗ để chuyển căn bản họ sang trồng rừng, đồng thời cho họ được hưởng 100%
sản phẩm rừng.
5. KẾT LUẬN
Những năm qua công tác bảo
vệ rừng đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng, nhận thức về rừng được nâng
cao, quan điểm đổi mới xã hội hóa về lâm nghiệp đã được triển khai thực hiện có
hiệu quả; hệ thống pháp luật về bảo vệ và phát triển rừng ngày càng hoàn thiện;
chế độ chính sách lâm nghiệp, nhất là chính sách về đa dạng hóa các thành phần
kinh tế trong lâm nghiệp, giao đất, giao rừng, khoán bảo vệ rừng và quyền hưởng
lợi từ rừng được ban hành và bước đầu đi vào cuộc sống. Nhà nước đã tăng cường
đầu tư thông qua nhiều chương trình, dự án đã tác động tích cực vào bảo vệ
rừng. Vai trò trách nhiệm quản lý Nhà nước về rừng của các ngành và chính quyền
các cấp được nâng cao hơn, các tổ chức xã hội đã có những nỗ lực tham gia vào
công tác bảo vệ và phát triển rừng... Tuy nhiên, rừng vẫn bị tàn phá do nhiều
nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ sự thiếu hiểu biết và do phong tục, tập
quán lạc hậu của một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số. Bên cạnh nhiều biện
pháp cương quyết như tổ chức các đợt truy quét lâm tặc, giải tỏa các tụ điểm
phá rừng trái phép, ngăn chặn chuyển đổi mục đích sử dụng đất lâm nghiệp ngoài
quy hoạch, xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ và phát triển rừng còn
có những biện pháp mang tính tổ chức, kinh tế để việc thực hiện pháp luật về quản
lý, bảo vệ rừng mang tính bền vững, gắn việc thực hiện tốt chính sách dân tộc
nhằm giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội trên phạm vi cả nước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Ban chấp hành Trung ương Đảng cộng sản Việt Nam,
Nghị quyết số 26-NQ/TƯ về nông nghiệp, nông dân, nông thôn;
2.
Ban chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết
số 17-NQ/TƯ ngày 1/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước;
3.
Chính phủ, Nghị định số 99/2009/NĐ-CP ngày 02 tháng 11
năm 2009 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng
và quản lý lâm sản;
4.
Chính phủ, Nghị định số 119/2006/NĐ-CP ngày 16/10/2006
ban hành quy định về tổ chức và hoạt động của Kiểm lâm.
5.
Chính phủ, Nghị định số 23/2006/NĐ-CP ngày 03/3/2006
về thi hành Luật Bảo vệ và Phát triển rừng;
6.
Chính phủ, Nghị định
số 128/2008/NĐ-CP ngày 16 tháng 12 năm 2008 quy định chi tiết thi hành một số điều
của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2002 và Pháp lệnh sửa đổi, bổ sung một
số điều của Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính năm 2008;
7.
Quốc hội, Luật số 29/2004/QH11 ngày 03 tháng 12 năm
2004 về Bảo vệ và Phát triển rừng ;
8.
Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 18/2007/QĐ-TTg ngày
05/02/2007 phê duyệt Chiến lược phát triển lâm nghiệp Việt Nam giai đoạn
2006 – 2020;
9.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh số
44/2002/PL-UBTVQH10 ngày 02 tháng 7 năm 2002 về xử lý vi phạm hành chính;
10.
Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh số
04/2008/PL-UBTVQH12 ngày 02 tháng 4 năm 2008 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Pháp lệnh Xử lý vi phạm hành chính;

No comments:
Post a Comment