Monday, December 7, 2015

Bộ quy tắc ứng xử của công chức

(tinhhuongquanlynhanuoc)-Trích từ “Bộ quy tắc ứng xử cho công chức cấp phường - kinh nghiệm Thành phố Hồ Chí Minh (do Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật phát hành năm 2013. Tác giả Tiến sĩ Đỗ Thị Ngọc Lan).


Phần 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN XÂY DỰNG BỘ QUY TẮC ƯNG XỬ CỦA CÔNG CHỨC


Ảnh minh họa (Nguồn internet)

I- ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ

Không có một định nghĩa duy nhất về đạo đức công vụ. Nói cách khác, không có một cách hiểu thống nhất về khái niệm đạo đức công vụ mà vẫn tùy từng góc độ nghiên cứu khác nhau người ta đưa ra những định nghĩa khác nhau.

Đạo đức công vụ không đơn thuần chỉ là ghép lại của hai khái niệm “đạo đức” và “công vụ”. Một cách khái quát, có thể hiểu đạo đức công vụ là đạo đức thực thi công vụ của công chức. Đó là phép tắc về quan hệ giữa công chức với công chức, giữa công chức với tập thể và xã hội trong hoạt động công vụ. Đó là quy định đối xử trong công vụ mà các công chức phải biết, tuân thủ và giữ gìn. Và với nghĩa hẹp hơn, đó chính là phẩm chất tốt đẹp của công chức khi thực thi công vụ.

Đạo đức công vụ là một dạng đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp có thể được hiểu là một hệ thống quy định hoặc quy tắc gắn liền với những chuẩn mực về cách ứng xử đạo đức của một nghề nhằm hướng dẫn hành vi đúng đắn và việc ra quyết định trong phạm vi nghề đó. Với cách hiểu này, có thể suy ra rằng đạo đức công vụ là những giá trị và chỉ dẫn nhằm hướng dẫn quyết định của những người thực hành các hoạt động công quyền.

Đạo đức công vụ chịu ảnh hưởng bởi tính chất và những đặc điểm của công vụ, cụ thể bao gồm:

- Mục đích của công vụ là phục vụ nhân dân và xã hội.

- Nội dung hoạt động công vụ gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời thực hiện chức năng tổ chức phục vụ các nhu cầu chung của xã hội không vì mục đích lợi nhuận. Hoạt động công vụ mang tính thường xuyên, chuyên nghiệp.

- Chủ thể thực thi công vụ là công chức.

- Tính chất của công vụ: công vụ không chỉ thuần tuý mang tính quyền lực nhà nước, mà còn bao gồm cả hoạt động của các tổ chức do nhà nước thành lập (được nhà nước uỷ quyền) để phục vụ các nhu cầu của nhân dân. Các hoạt động này đều do công chức nhân danh nhà nước tiến hành, bao gồm các hoạt động nhân danh quyền lực và hoạt động của các tổ chức được nhà nước uỷ quyền. Ở các nước trên thế giới, khi đề cập đến công vụ người ta ít nói đến yếu tố quyền lực nhà nước mà thường chỉ nói tới công chức nhân danh pháp luật hoặc nhân danh nhà nước. Bởi lẽ, pháp luật là công cụ chính, chủ yếu do nhà nước ban hành. Công vụ được tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của nhà nước và tuân theo pháp luật.

Với những đặc điểm như vậy, đối chiếu vào đạo đức công vụ với tư cách một loại đạo đức nghề nghiệp, có thể thấy:

- Về mục đích, đạo đức công vụ đề cao đạo đức và những hành vi đúng đắn của người thi hành công vụ, cũng là nhằm bảo đảm việc phục vụ tốt hơn xã hội và nhân dân và việc thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của nhà nước (chức năng quản lý và phục vụ) không vì mục tiêu lợi nhuận.

- Đạo đức công vụ là để quản lý đội ngũ thực thi công vụ tức là công chức.

- Đạo đức công vụ cũng cần được công nhận và điều chỉnh bởi pháp luật; pháp luật là hình thức pháp lý của đạo đức công vụ, pháp luật về công vụ như là “vỏ bọc, áo khoác pháp lý” của đạo đức công vụ. Đây cũng là sự thừa nhận chính thức về tính đúng đắn, khách quan hợp lý của các quan niệm về đạo đức cán bộ, công chức đạo đức công vụ và là cách thức hữu hiệu để nhà nước bảo vệ, củng cố những giá trị đạo đức công vụ

II- BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ

1. Khái niệm về bộ quy tắc ứng xử

Bộ quy tắc ứng xử (hay còn gọi là Bộ quy tắc đạo đức) là một khái niệm trong lĩnh vực đạo đức nghề nghiệp. Có nhiều cách định nghĩa về bộ quy tắc ứng xử. Theo nghĩa rộng nhất đó là một tập hợp những nguyên tắc và kỳ vọng chung được chấp nhận phổ biến trong một nhóm người nào đó và ràng buộc những ai là thành viên của nhóm.

Trong bối cảnh một tổ chức, bộ quy tắc ứng xử của một tổ chức có thể được hiểu là tuyên bố hoặc sự mô tả của tổ chức ấy về cách hành xử chuẩn mực về trách nhiệm và về hành động mà tổ chức mong các thành viên của mình thực hiện.

Một cách giải thích khác cho rằng, bộ quy tắc ửng xử là một tập hợp những hướng dẫn dưới dạng văn bản do một tổ chức đề ra cho những thành viên và chế độ quản lý của mình để hướng dẫn những hành động của họ sao cho phù hợp với những giá trị và chuẩn mực đạo đức cơ bản mà tổ chức trân trọng.

Từ ba định nghĩa khác nhau trên có thể suy ra một số đặc điểm sau đây về bộ quy tắc ứng xử:

Thứ nhất, bộ quy tắc ứng xử có tính chuẩn mực: Điều này có nghĩa là nó phải đưa ra được một mức độ có tính nguyên tắc do cấp có thẩm quyền thông qua để làm cơ sở cho việc đánh giá.

Thứ hai, bộ quy tắc ửng xử có tính chỉ dụ và hướng đạo: Điều này có nghĩa là nó phải có cung cấp những thông tin và chỉ dẫn có tác dụng phản ánh và làm sáng tỏ bản chất chuẩn mực và kỳ vọng mà tổ chức đề ra cho thành viên.

Thứ ba, bộ quy tắc ứng xử có tính riêng biệt: Điều này có nghĩa là một bộ quy tắc ứng xử chỉ có tác dụng và ảnh hưởng trong một phạm vi nhất định, nó chỉ có thể điều chỉnh hành vi của một hoặc một số đối tượng nhất định trong phạm vi đó. Điều này đưa tới kết quả là bộ quy tắc của các tổ chức khác nhau có thể khác nhau về độ dài, về tính cụ thể chi tiết và về mức độ áp dụng các hình phạt.

Trong bối cảnh khu vực công của Việt Nam, cụ thể là trong pháp luật về đạo đức công vụ Việt Nam tại Điều 36 Luật phòng, chống tham nhũng có nêu định nghĩa về quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức như sau:

“Quy tắc ứng xử là các chuẩn mực xử sự của cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội, bao gồm những việc phải làm hoặc không được làm phù hợp với đặc thù công việc của từng nhóm cán bộ, công chức, viên chức và từng lĩnh vực hoạt động công vụ nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách nhiệm của cán bộ công chức, viên chức”.

Định nghĩa này cắt nghĩa quy tắc ứng xử là gì và đối tượng của nó gồm những ai, đồng thời cũng nêu lên yêu cầu và mục đích của bộ quy tắc ứng xử.

2. Mục đích của bộ quy tắc ứng xử

Những bộ quy tắc ứng xử được tổ chức công đề ra là nhằm đề cao sự đúng đắn và đạo đức trong tổ chức đó thông qua việc điều chỉnh hành vi của công chức thành viên, từ đó góp phần nâng cao đạo đức của khu vực công. Theo nhà nghiên cứu Gilman, bộ quy tắc ứng xử được hình thành nhằm bốn mục đích, trước hết là để nâng cao khả năng công chức sẽ hành xử theo một cách nhất định nào đó. Thứ hai, nó khiến cho công chức phải quan tâm tới những hành động mà kết quả của những hành động đó sẽ dẫn đến việc họ làm điều đúng vì những lý do đúng đắn. Thứ ba, bộ quy tắc không lấy đi sự tự chủ về phẩm hạnh, cũng không xóa nhòa cá nhân công chức. Và cuối cùng, bộ quy tắc là để giúp tạo ra cho công chức niềm tự hào được là thành viên của một đội ngũ những người làm nghề.

 3. Vai trò và tác dụng của bộ quy tắc

Mỗi tổ chức có mục đích và nguyên tắc riêng và do đó, có cách làm khác nhau khi thiết kế bộ quy tắc ứng xử. Tuy vậy, nhìn chung, các bộ quy tắc ứng xử thường đặt trọng tâm vào những vấn đề thuộc về đạo đức và trách nhiệm xã hội và cách áp dụng chúng đối với các cá nhân, do vậy, chúng có vai trò lớn trong xây dựng và duy trì đạo đức nghề nghiệp. Trong bối cảnh một tổ chức công, bộ quy tắc ứng xử có thể đóng những vai trò sau đây:

- Thứ nhất, bộ quy tắc ứng xử được sử dụng như một công cụ để tổ chức hướng dẫn thành viên của mình ứng xử thế nào cho đúng trong trường hợp có những nghi ngờ hoặc lúng túng. Người sử dụng có thể coi nó là tài liệu tham chiếu và chỉ dẫn có tác dụng hỗ trợ cho hoạt động ra quyết định hằng ngày của họ.

- Thứ hai, bộ quy tắc ứng xử còn có thể được coi là tài liệu làm sáng tỏ nhiệm vụ, giá trị và nguyên tắc của tổ chức, kết nối những yếu tố này với tiêu chuẩn hành xử nghề nghiệp. Với tư cách là một tài liệu tham chiếu, bộ quy tắc cũng có thể được sử dụng để phân bổ những tài liệu, dịch vụ và những nguồn nhân lực có liên quan đến vấn đề đạo đức trong phạm vi tổ chức.

- Thứ ba, bộ quy tắc ứng xử là một cách thức công khai để tổ chức thể hiện họ hoạt động theo giá trị và chuẩn mực nào. Một bộ quy tắc được thiết kế và soạn thảo tốt có thể  được sử dụng như một công cụ giao tiếp và công cụ này phản ánh bản thỏa ước của tổ chức về những giá trị mà tổ chức coi trọng nhất.

- Thứ tư, bộ quy tắc ứng xử là công cụ để tổ chức tạo nên một bản sắc công tích cực cho chính mình. Bản sắc công tích cực này có thể giúp tổ chức tạo được sự tự tin, đồng thời thu hút được sự ủng hộ của các bên liên quan, trong đó có thể có cả sự ủng hộ chính trị từ chính quyền.

Những vai trò và tác dụng của bộ quy tắc ứng xử đã hình thành một nhận thức phổ biến là bộ quy tắc ứng xử có ảnh hưởng tích cực tới hoạt động quản trị, đặc biệt là trong việc ngăn chặn những hành vi phi đạo đức thông qua việc khuyến khích con người hành xử đúng đắn. Điều này có nghĩa là nếu có những người có vẻ như không quan tâm tới việc có tồn tại hay không một bộ quy tắc ứng xử, thì những công chức muốn hành xử theo đạo đức thường thấy một bộ quy tắc ứng xử rất có tác dụng trong hướng dẫn hành vi của họ. Nhiều nhà quản trị công thể hiện thái độ tích cực đối với những bộ quy tắc ứng xử ngành nghề vì cho rằng công cụ này là rất hữu dụng.

Ngoài những vai trò và tác dụng đối với một tổ chức, bộ quy tắc ứng xử còn có tác dụng tạo lập niềm tin tưởng, sự tự tin trong công chúng và xã hội trên phương diện đạo đức. Ví dụ, xã hội nói chung và người bệnh nói riêng có quyền mong đợi những người làm nghề y phải đối xử với họ một cách đạo đức và tôn trọng phẩm hạnh. Công chúng và người bệnh cũng có quyền cho rằng nghề y sẽ trừng phạt những người hành nghề y mà lại hành xử phi đạo đức.

Tóm lại, bộ quy tắc ứng xử, với tư cách là một công cụ quản lý, được sử dụng rộng rãi trong khu vực công. Trong quá khứ và hiện tại, chính phủ nhiều nước và nhiều tổ chức công đã đưa ra những bộ quy tắc ứng xử để hướng dẫn hành vi của công chức. Điều này không chỉ chứng tỏ tính phổ biến của bộ quy tắc ứng xử mà còn cho thấy niềm tin lớn vào tác dụng và vai trò của nó đối với việc bảo đảm đạo đức công chức.

III- NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ

Về việc thiết kế bộ quy tắc ứng xử cửa một nghề nghiệp, một tổ chức hay một địa phương cần tuân thủ một số nguyên tắc sau đây:

Thứ nhất, phù hợp với những chuẩn mực đạo đức phổ biến. Đây là một nguyên tắc nền tảng, bất di bất dịch. Đạo đức, với ý nghĩa là cách thức, lối sống của các cá nhân trong xã hội buộc mọi người phải làm theo, đòi hỏi bất kỳ bộ quy tắc ứng xử của tổ chức nào cũng tôn trọng. Điều này có nghĩa là dù được thiết kế như thế nào và bao hàm những quy định gì thì nội dung bộ quy tắc ứng xử của bất kỳ một tổ chức hay ngành nào cũng không được vượt ra khỏi những giá trị chuẩn mực chung có tính phổ biến đã được xã hội thừa nhận.

Thứ hai, phù hợp với những quy định của pháp luật đây là nguyên tắc có tính căn bản và bắt buộc thể hiện sự điều chỉnh của pháp luật đối với đạo đức công vụ như đã trình bày. Bộ quy tắc phải thể hiện rằng những chuẩn mực mà nó đề ra cho thành viên trong tổ chức không đi ngược lại hoặc làm phương hại đến những quy định pháp luật nói chung cũng như những quy định pháp luật của riêng ngành hoặc lĩnh vực mà tổ chức đó hoặc hoạt động. Một điều rất quan trọng là các thành viên trong tổ chức phải được thấy rằng tổ chức của họ tin tưởng vào việc chấp pháp và chấp quy, và do vậy khi thực thi nhiệm vụ họ cũng phải hành xử như vậy.

Thứ ba, phù hợp với mục tiêu, đặc điểm của tổ chức hoặc ngành. Điều này là để phù hợp với tính chất của của bộ quy tắc ứng xử đã nêu ở trên: bộ quy tắc ứng xử có tính riêng biệt. Tuy cùng là hoạt động công vụ nhưng mỗi ngành nghề, tổ chức lại chuyên môn hoá trong một lĩnh vực chuyên môn khác nhau với nhưng yêu cầu khác nhau về phẩm chất của người làm nghề. Vì vậy, bộ quy tắc ứng xử của một tổ chức ngành phải thể hiện được yêu cầu có tính đặc trưng của tổ chức ngành đó với các các cá nhân thì mới phù hợp với thực tiễn và có tính khả dụng cao.

Thứ tư, bảo đảm dân chủ và nhân văn. Nguyên tắc này để tránh trường hợp bộ quy tắc ứng xử là sản phẩm của sự lạm dụng quyền lực của lãnh đạo tổ chức, trở thành sự áp đặt ngặt nghèo, phi lý của họ lên các thành viên trong tổ chức. Nguyên tắc này bảo đảm ra rằng bộ quy tắc sẽ được các thành viên trong tổ chức chấp nhận nhờ tính hợp lý và giá trị nhân bản của nó chứ không phải vì bị ép buộc chấp nhận. Do đó, khi xây dụng bộ quy tắc rất cần thiết phải tạo điều kiện cho các thành viên tham gia đóng góp ý kiến và phản biện đặc biệt là góp ý cho các biện pháp và hình thức kỷ luật  sẽ áp dụng khi xử lý các vi phạm.

IV- YÊU CẦU CỦA BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ

Yêu cầu đối với bộ quy tắc ứng xử cũng chính là những yếu tố mà nếu bảo đảm được thì sẽ góp phần khiến cho nó thành công nếu không thì sẽ thất bại.

1- Yêu cầu về tính rõ ràng

Rõ ràng, dễ hiểu là một yêu cầu cơ bản đối với một bộ quy tắc ứng xử. Mục đích của một bộ quy tắc ứng xử là thiết lập bộ chuẩn mực hoặc giá trị chung cho một thành viên tổ chức, vì vậy nó phải dễ hiểu đối với tất các cá nhân, không được đa nghĩa, tối nghĩa mơ hồ hay mập mờ.

Cả ba thành tố của một bộ quy tắc đều phải được diễn tả sao cho đáp ứng ứng yêu cầu rõ ràng, dễ hiểu. Trong đó, đáng chú ý là khi nói về tính rõ ràng, bộ quy tắc ứng xử phải rõ ràng về những hành vi mục tiêu, tức là những hành vi mà tổ chức mong muốn, khuyến khích hoặc những hành vi mà tổ chức muốn triệt tiêu. Những hành vi mục tiêu phải được quy định một cách chính xác, dễ hiểu mọi thành viên, tính rõ ràng còn được hiểu là cụ thể, một bộ quy tắc ứng xử có chất lượng phải tránh được những thuật ngữ pháp lý và những quy định chung chung.

2- Yêu cầu về tính thực tế

Một bộ quy tắc ứng xử chỉ có thể thành công khi nó đặt ra những đích thực tế, có thể đạt được chứ không quá xa vời nằm ngoài khả năng thực hiện. Có nghĩa là những giá trị và chuẩn mực mà nó đề ra phải cụ thể, thiết thực và có thể quan sát được (observable). Nhà nghiên cứu Gilman cho rằng bộ quy tắc nào hứa hẹn quá nhiều thì khả năng để nó thất bại sẽ nhiều hơn thành công. Ví dụ, nếu bộ quy tắc hứa hẹn sẽ loại bỏ tham nhũng thì sẽ không thành công vì trên thực thế là không thể loại trừ hoàn toàn tham nhũng. Nói cách khác, bộ quy tắc phải có tính khả thi.

Tính thực tế cũng còn có nghĩa là bộ quy tắc không chỉ là một tập hợp các chuẩn mực, giá trị và nguyên tắc chung chung (là những thứ đúng ở mọi nơi mọi lúc) mà nó còn phải hướng vào giải quyết những khúc mắc, vấn đề và tình huống nảy sinh từ chính thực tiễn cuộc sống có nghĩa là nó phải xác định được thế nào là những hành vi có thể chấp nhận được, và thế nào là những hành vi không thể chấp nhận được, và đồng thời, nó phải cung cấp cho công chức khái niệm cụ thể về bản sắc của chính tổ chức mình.

V- THỰC THI BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ

Xây dựng bộ quy tắc ứng xử có chất lượng là một việc làm không hề đơn giản nhưng làm thế nào để bộ quy tắc ứng xử không chỉ là những quy định trên giấy mà có thể đi vào thực tiễn hoạt động của tổ chức là việc còn khó hơn. Muốn bảo đảm cho bộ quy tắc ứng xử được thực thi có hiệu quả, theo Menzel, trước hết cần có sự cam kết chính trị mạnh mẽ của lãnh đạo tổ chức đới với những giá trị và nguyên tắc đã nêu trong bộ quy tắc. Thêm vào đó phải phổ biến sâu rộng bộ quy tắc tới đội ngũ nhân viên trong tổ chức. Việc phổ biến không chỉ trên cơ sở hành chính, giấy tờ (như gửi văn bản tới các bộ phận) mà nên làm theo cách truyền tải thông điệp về đạo đức giữa con người với con người. Nghiên cứu tại một tổ chức đã chỉ ra rằng, việc lãnh đạo tổ chức gặp gỡ với nhân viên mới để trò chuyện về vấn đề đạo đức đã tạo được ấn tượng và ảnh hưởng lớn đối với nhân viên về tầm quan trọng của đạo đức và hành vi đúng đắn nơi làm việc.

Để bộ quy tắc không chỉ nằm trên bàn giấy thì nó phải được coi như một tài liệu sống, được “dệt” vào văn hoá của tổ chức. Lãnh đạo của tổ chức phải có trách nhiệm xây dựng nền văn hoá coi trọng đạo đức của tổ chức mình, trong đó các giá trị và hành vi đạo đức được nuôi dưỡng và phát triển.

Về mặt kỹ thuật để đưa bộ quy tắc vào thực tiễn hoạt động của tổ chức có thể áp dụng những biện pháp sau đây:

Thứ nhất, bộ quy tắc cần được soạn thảo và trình bày rõ ràng, ngắn ngọn, nghiêm túc.

Thứ hai, ngoài việc phổ biến bộ nguyên tắc bằng văn bản tới các phòng ban, bộ phận theo kiểu hành chính, cần đưa bộ quy tắc ra giới thiệu trước toàn thể nhân viên trong một dịp chính thức (ví dụ như một cuộc họp)

Công khai bộ quy tắc ứng xử ở nơi làm việc treo ở những chỗ dễ thấy để luôn nhắc nhở nhân viên về những nghĩa vụ đạo đức mà họ phải thực hiện cũng như những hệ quả họ có thể gánh chịu nếu vi phạm.

Nên thành lập một uỷ ban giám sát việc thực hiện bộ quy tắc. Mục đích của uỷ ban này là xem xét và điều tra những cáo buộc về hành vi sai trái đạo đức. Nên xây dựng phiếu tự đánh giá hoặc thiết lập các hướng dẫn để đánh giá các vấn đề hành vi đạo đức.

Cần xây dựng quy trình, thủ tục mà nhân viên và uỷ ban phải tuân thủ khi báo cáo và giải quyết các cáo buộc hành vi vi phạm.

Giải thích cho nhân viên những quy định về việc báo cáo hành vi đạo đức. Cần thông tin cho nhân viên để họ biết rằng cáo buộc phải được gửi bằng văn bản đúng tài liệu vụ việc.

Tiến hành một buổi điều trần trước uỷ ban đạo đức và các khiếu nại quy định của hành vi phi đạo đức. Uỷ ban đạo đức phải quyết định về hành động kỷ luật.

Tóm lại, đưa một bộ quy tắc ứng xử vào thực tiễn là công việc khó khăn và cần sự thống nhất hành động từ cán bộ lãnh đạo cho đến các nhân viên. Nó cũng đòi hỏi sự thường xuyên giám sát và đánh giá. Bộ quy tắc ứng xử không phải là bất biến. Nó có thể và cần phải được điều chỉnh tuỳ tình hình của tổ chức. Sự giám sát và đánh giá thường xuyên là căn cứ để thực hiện điều chỉnh khi cần.


NH (Tổng hợp) 
.
 

 

No comments:

Post a Comment

Monday, December 7, 2015

Bộ quy tắc ứng xử của công chức

(tinhhuongquanlynhanuoc)-Trích từ “Bộ quy tắc ứng xử cho công chức cấp phường - kinh nghiệm Thành phố Hồ Chí Minh (do Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia - Sự thật phát hành năm 2013. Tác giả Tiến sĩ Đỗ Thị Ngọc Lan).


Phần 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN XÂY DỰNG BỘ QUY TẮC ƯNG XỬ CỦA CÔNG CHỨC


Ảnh minh họa (Nguồn internet)

I- ĐẠO ĐỨC CÔNG VỤ

Không có một định nghĩa duy nhất về đạo đức công vụ. Nói cách khác, không có một cách hiểu thống nhất về khái niệm đạo đức công vụ mà vẫn tùy từng góc độ nghiên cứu khác nhau người ta đưa ra những định nghĩa khác nhau.

Đạo đức công vụ không đơn thuần chỉ là ghép lại của hai khái niệm “đạo đức” và “công vụ”. Một cách khái quát, có thể hiểu đạo đức công vụ là đạo đức thực thi công vụ của công chức. Đó là phép tắc về quan hệ giữa công chức với công chức, giữa công chức với tập thể và xã hội trong hoạt động công vụ. Đó là quy định đối xử trong công vụ mà các công chức phải biết, tuân thủ và giữ gìn. Và với nghĩa hẹp hơn, đó chính là phẩm chất tốt đẹp của công chức khi thực thi công vụ.

Đạo đức công vụ là một dạng đạo đức nghề nghiệp. Đạo đức nghề nghiệp có thể được hiểu là một hệ thống quy định hoặc quy tắc gắn liền với những chuẩn mực về cách ứng xử đạo đức của một nghề nhằm hướng dẫn hành vi đúng đắn và việc ra quyết định trong phạm vi nghề đó. Với cách hiểu này, có thể suy ra rằng đạo đức công vụ là những giá trị và chỉ dẫn nhằm hướng dẫn quyết định của những người thực hành các hoạt động công quyền.

Đạo đức công vụ chịu ảnh hưởng bởi tính chất và những đặc điểm của công vụ, cụ thể bao gồm:

- Mục đích của công vụ là phục vụ nhân dân và xã hội.

- Nội dung hoạt động công vụ gắn với việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ của nhà nước trong quản lý mọi mặt của đời sống xã hội, đồng thời thực hiện chức năng tổ chức phục vụ các nhu cầu chung của xã hội không vì mục đích lợi nhuận. Hoạt động công vụ mang tính thường xuyên, chuyên nghiệp.

- Chủ thể thực thi công vụ là công chức.

- Tính chất của công vụ: công vụ không chỉ thuần tuý mang tính quyền lực nhà nước, mà còn bao gồm cả hoạt động của các tổ chức do nhà nước thành lập (được nhà nước uỷ quyền) để phục vụ các nhu cầu của nhân dân. Các hoạt động này đều do công chức nhân danh nhà nước tiến hành, bao gồm các hoạt động nhân danh quyền lực và hoạt động của các tổ chức được nhà nước uỷ quyền. Ở các nước trên thế giới, khi đề cập đến công vụ người ta ít nói đến yếu tố quyền lực nhà nước mà thường chỉ nói tới công chức nhân danh pháp luật hoặc nhân danh nhà nước. Bởi lẽ, pháp luật là công cụ chính, chủ yếu do nhà nước ban hành. Công vụ được tiến hành theo chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của nhà nước và tuân theo pháp luật.

Với những đặc điểm như vậy, đối chiếu vào đạo đức công vụ với tư cách một loại đạo đức nghề nghiệp, có thể thấy:

- Về mục đích, đạo đức công vụ đề cao đạo đức và những hành vi đúng đắn của người thi hành công vụ, cũng là nhằm bảo đảm việc phục vụ tốt hơn xã hội và nhân dân và việc thực hiện tốt hơn chức năng, nhiệm vụ của nhà nước (chức năng quản lý và phục vụ) không vì mục tiêu lợi nhuận.

- Đạo đức công vụ là để quản lý đội ngũ thực thi công vụ tức là công chức.

- Đạo đức công vụ cũng cần được công nhận và điều chỉnh bởi pháp luật; pháp luật là hình thức pháp lý của đạo đức công vụ, pháp luật về công vụ như là “vỏ bọc, áo khoác pháp lý” của đạo đức công vụ. Đây cũng là sự thừa nhận chính thức về tính đúng đắn, khách quan hợp lý của các quan niệm về đạo đức cán bộ, công chức đạo đức công vụ và là cách thức hữu hiệu để nhà nước bảo vệ, củng cố những giá trị đạo đức công vụ

II- BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ

1. Khái niệm về bộ quy tắc ứng xử

Bộ quy tắc ứng xử (hay còn gọi là Bộ quy tắc đạo đức) là một khái niệm trong lĩnh vực đạo đức nghề nghiệp. Có nhiều cách định nghĩa về bộ quy tắc ứng xử. Theo nghĩa rộng nhất đó là một tập hợp những nguyên tắc và kỳ vọng chung được chấp nhận phổ biến trong một nhóm người nào đó và ràng buộc những ai là thành viên của nhóm.

Trong bối cảnh một tổ chức, bộ quy tắc ứng xử của một tổ chức có thể được hiểu là tuyên bố hoặc sự mô tả của tổ chức ấy về cách hành xử chuẩn mực về trách nhiệm và về hành động mà tổ chức mong các thành viên của mình thực hiện.

Một cách giải thích khác cho rằng, bộ quy tắc ửng xử là một tập hợp những hướng dẫn dưới dạng văn bản do một tổ chức đề ra cho những thành viên và chế độ quản lý của mình để hướng dẫn những hành động của họ sao cho phù hợp với những giá trị và chuẩn mực đạo đức cơ bản mà tổ chức trân trọng.

Từ ba định nghĩa khác nhau trên có thể suy ra một số đặc điểm sau đây về bộ quy tắc ứng xử:

Thứ nhất, bộ quy tắc ứng xử có tính chuẩn mực: Điều này có nghĩa là nó phải đưa ra được một mức độ có tính nguyên tắc do cấp có thẩm quyền thông qua để làm cơ sở cho việc đánh giá.

Thứ hai, bộ quy tắc ửng xử có tính chỉ dụ và hướng đạo: Điều này có nghĩa là nó phải có cung cấp những thông tin và chỉ dẫn có tác dụng phản ánh và làm sáng tỏ bản chất chuẩn mực và kỳ vọng mà tổ chức đề ra cho thành viên.

Thứ ba, bộ quy tắc ứng xử có tính riêng biệt: Điều này có nghĩa là một bộ quy tắc ứng xử chỉ có tác dụng và ảnh hưởng trong một phạm vi nhất định, nó chỉ có thể điều chỉnh hành vi của một hoặc một số đối tượng nhất định trong phạm vi đó. Điều này đưa tới kết quả là bộ quy tắc của các tổ chức khác nhau có thể khác nhau về độ dài, về tính cụ thể chi tiết và về mức độ áp dụng các hình phạt.

Trong bối cảnh khu vực công của Việt Nam, cụ thể là trong pháp luật về đạo đức công vụ Việt Nam tại Điều 36 Luật phòng, chống tham nhũng có nêu định nghĩa về quy tắc ứng xử của cán bộ, công chức, viên chức như sau:

“Quy tắc ứng xử là các chuẩn mực xử sự của cán bộ, công chức, viên chức trong thi hành nhiệm vụ, công vụ và trong quan hệ xã hội, bao gồm những việc phải làm hoặc không được làm phù hợp với đặc thù công việc của từng nhóm cán bộ, công chức, viên chức và từng lĩnh vực hoạt động công vụ nhằm bảo đảm sự liêm chính và trách nhiệm của cán bộ công chức, viên chức”.

Định nghĩa này cắt nghĩa quy tắc ứng xử là gì và đối tượng của nó gồm những ai, đồng thời cũng nêu lên yêu cầu và mục đích của bộ quy tắc ứng xử.

2. Mục đích của bộ quy tắc ứng xử

Những bộ quy tắc ứng xử được tổ chức công đề ra là nhằm đề cao sự đúng đắn và đạo đức trong tổ chức đó thông qua việc điều chỉnh hành vi của công chức thành viên, từ đó góp phần nâng cao đạo đức của khu vực công. Theo nhà nghiên cứu Gilman, bộ quy tắc ứng xử được hình thành nhằm bốn mục đích, trước hết là để nâng cao khả năng công chức sẽ hành xử theo một cách nhất định nào đó. Thứ hai, nó khiến cho công chức phải quan tâm tới những hành động mà kết quả của những hành động đó sẽ dẫn đến việc họ làm điều đúng vì những lý do đúng đắn. Thứ ba, bộ quy tắc không lấy đi sự tự chủ về phẩm hạnh, cũng không xóa nhòa cá nhân công chức. Và cuối cùng, bộ quy tắc là để giúp tạo ra cho công chức niềm tự hào được là thành viên của một đội ngũ những người làm nghề.

 3. Vai trò và tác dụng của bộ quy tắc

Mỗi tổ chức có mục đích và nguyên tắc riêng và do đó, có cách làm khác nhau khi thiết kế bộ quy tắc ứng xử. Tuy vậy, nhìn chung, các bộ quy tắc ứng xử thường đặt trọng tâm vào những vấn đề thuộc về đạo đức và trách nhiệm xã hội và cách áp dụng chúng đối với các cá nhân, do vậy, chúng có vai trò lớn trong xây dựng và duy trì đạo đức nghề nghiệp. Trong bối cảnh một tổ chức công, bộ quy tắc ứng xử có thể đóng những vai trò sau đây:

- Thứ nhất, bộ quy tắc ứng xử được sử dụng như một công cụ để tổ chức hướng dẫn thành viên của mình ứng xử thế nào cho đúng trong trường hợp có những nghi ngờ hoặc lúng túng. Người sử dụng có thể coi nó là tài liệu tham chiếu và chỉ dẫn có tác dụng hỗ trợ cho hoạt động ra quyết định hằng ngày của họ.

- Thứ hai, bộ quy tắc ứng xử còn có thể được coi là tài liệu làm sáng tỏ nhiệm vụ, giá trị và nguyên tắc của tổ chức, kết nối những yếu tố này với tiêu chuẩn hành xử nghề nghiệp. Với tư cách là một tài liệu tham chiếu, bộ quy tắc cũng có thể được sử dụng để phân bổ những tài liệu, dịch vụ và những nguồn nhân lực có liên quan đến vấn đề đạo đức trong phạm vi tổ chức.

- Thứ ba, bộ quy tắc ứng xử là một cách thức công khai để tổ chức thể hiện họ hoạt động theo giá trị và chuẩn mực nào. Một bộ quy tắc được thiết kế và soạn thảo tốt có thể  được sử dụng như một công cụ giao tiếp và công cụ này phản ánh bản thỏa ước của tổ chức về những giá trị mà tổ chức coi trọng nhất.

- Thứ tư, bộ quy tắc ứng xử là công cụ để tổ chức tạo nên một bản sắc công tích cực cho chính mình. Bản sắc công tích cực này có thể giúp tổ chức tạo được sự tự tin, đồng thời thu hút được sự ủng hộ của các bên liên quan, trong đó có thể có cả sự ủng hộ chính trị từ chính quyền.

Những vai trò và tác dụng của bộ quy tắc ứng xử đã hình thành một nhận thức phổ biến là bộ quy tắc ứng xử có ảnh hưởng tích cực tới hoạt động quản trị, đặc biệt là trong việc ngăn chặn những hành vi phi đạo đức thông qua việc khuyến khích con người hành xử đúng đắn. Điều này có nghĩa là nếu có những người có vẻ như không quan tâm tới việc có tồn tại hay không một bộ quy tắc ứng xử, thì những công chức muốn hành xử theo đạo đức thường thấy một bộ quy tắc ứng xử rất có tác dụng trong hướng dẫn hành vi của họ. Nhiều nhà quản trị công thể hiện thái độ tích cực đối với những bộ quy tắc ứng xử ngành nghề vì cho rằng công cụ này là rất hữu dụng.

Ngoài những vai trò và tác dụng đối với một tổ chức, bộ quy tắc ứng xử còn có tác dụng tạo lập niềm tin tưởng, sự tự tin trong công chúng và xã hội trên phương diện đạo đức. Ví dụ, xã hội nói chung và người bệnh nói riêng có quyền mong đợi những người làm nghề y phải đối xử với họ một cách đạo đức và tôn trọng phẩm hạnh. Công chúng và người bệnh cũng có quyền cho rằng nghề y sẽ trừng phạt những người hành nghề y mà lại hành xử phi đạo đức.

Tóm lại, bộ quy tắc ứng xử, với tư cách là một công cụ quản lý, được sử dụng rộng rãi trong khu vực công. Trong quá khứ và hiện tại, chính phủ nhiều nước và nhiều tổ chức công đã đưa ra những bộ quy tắc ứng xử để hướng dẫn hành vi của công chức. Điều này không chỉ chứng tỏ tính phổ biến của bộ quy tắc ứng xử mà còn cho thấy niềm tin lớn vào tác dụng và vai trò của nó đối với việc bảo đảm đạo đức công chức.

III- NGUYÊN TẮC XÂY DỰNG BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ

Về việc thiết kế bộ quy tắc ứng xử cửa một nghề nghiệp, một tổ chức hay một địa phương cần tuân thủ một số nguyên tắc sau đây:

Thứ nhất, phù hợp với những chuẩn mực đạo đức phổ biến. Đây là một nguyên tắc nền tảng, bất di bất dịch. Đạo đức, với ý nghĩa là cách thức, lối sống của các cá nhân trong xã hội buộc mọi người phải làm theo, đòi hỏi bất kỳ bộ quy tắc ứng xử của tổ chức nào cũng tôn trọng. Điều này có nghĩa là dù được thiết kế như thế nào và bao hàm những quy định gì thì nội dung bộ quy tắc ứng xử của bất kỳ một tổ chức hay ngành nào cũng không được vượt ra khỏi những giá trị chuẩn mực chung có tính phổ biến đã được xã hội thừa nhận.

Thứ hai, phù hợp với những quy định của pháp luật đây là nguyên tắc có tính căn bản và bắt buộc thể hiện sự điều chỉnh của pháp luật đối với đạo đức công vụ như đã trình bày. Bộ quy tắc phải thể hiện rằng những chuẩn mực mà nó đề ra cho thành viên trong tổ chức không đi ngược lại hoặc làm phương hại đến những quy định pháp luật nói chung cũng như những quy định pháp luật của riêng ngành hoặc lĩnh vực mà tổ chức đó hoặc hoạt động. Một điều rất quan trọng là các thành viên trong tổ chức phải được thấy rằng tổ chức của họ tin tưởng vào việc chấp pháp và chấp quy, và do vậy khi thực thi nhiệm vụ họ cũng phải hành xử như vậy.

Thứ ba, phù hợp với mục tiêu, đặc điểm của tổ chức hoặc ngành. Điều này là để phù hợp với tính chất của của bộ quy tắc ứng xử đã nêu ở trên: bộ quy tắc ứng xử có tính riêng biệt. Tuy cùng là hoạt động công vụ nhưng mỗi ngành nghề, tổ chức lại chuyên môn hoá trong một lĩnh vực chuyên môn khác nhau với nhưng yêu cầu khác nhau về phẩm chất của người làm nghề. Vì vậy, bộ quy tắc ứng xử của một tổ chức ngành phải thể hiện được yêu cầu có tính đặc trưng của tổ chức ngành đó với các các cá nhân thì mới phù hợp với thực tiễn và có tính khả dụng cao.

Thứ tư, bảo đảm dân chủ và nhân văn. Nguyên tắc này để tránh trường hợp bộ quy tắc ứng xử là sản phẩm của sự lạm dụng quyền lực của lãnh đạo tổ chức, trở thành sự áp đặt ngặt nghèo, phi lý của họ lên các thành viên trong tổ chức. Nguyên tắc này bảo đảm ra rằng bộ quy tắc sẽ được các thành viên trong tổ chức chấp nhận nhờ tính hợp lý và giá trị nhân bản của nó chứ không phải vì bị ép buộc chấp nhận. Do đó, khi xây dụng bộ quy tắc rất cần thiết phải tạo điều kiện cho các thành viên tham gia đóng góp ý kiến và phản biện đặc biệt là góp ý cho các biện pháp và hình thức kỷ luật  sẽ áp dụng khi xử lý các vi phạm.

IV- YÊU CẦU CỦA BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ

Yêu cầu đối với bộ quy tắc ứng xử cũng chính là những yếu tố mà nếu bảo đảm được thì sẽ góp phần khiến cho nó thành công nếu không thì sẽ thất bại.

1- Yêu cầu về tính rõ ràng

Rõ ràng, dễ hiểu là một yêu cầu cơ bản đối với một bộ quy tắc ứng xử. Mục đích của một bộ quy tắc ứng xử là thiết lập bộ chuẩn mực hoặc giá trị chung cho một thành viên tổ chức, vì vậy nó phải dễ hiểu đối với tất các cá nhân, không được đa nghĩa, tối nghĩa mơ hồ hay mập mờ.

Cả ba thành tố của một bộ quy tắc đều phải được diễn tả sao cho đáp ứng ứng yêu cầu rõ ràng, dễ hiểu. Trong đó, đáng chú ý là khi nói về tính rõ ràng, bộ quy tắc ứng xử phải rõ ràng về những hành vi mục tiêu, tức là những hành vi mà tổ chức mong muốn, khuyến khích hoặc những hành vi mà tổ chức muốn triệt tiêu. Những hành vi mục tiêu phải được quy định một cách chính xác, dễ hiểu mọi thành viên, tính rõ ràng còn được hiểu là cụ thể, một bộ quy tắc ứng xử có chất lượng phải tránh được những thuật ngữ pháp lý và những quy định chung chung.

2- Yêu cầu về tính thực tế

Một bộ quy tắc ứng xử chỉ có thể thành công khi nó đặt ra những đích thực tế, có thể đạt được chứ không quá xa vời nằm ngoài khả năng thực hiện. Có nghĩa là những giá trị và chuẩn mực mà nó đề ra phải cụ thể, thiết thực và có thể quan sát được (observable). Nhà nghiên cứu Gilman cho rằng bộ quy tắc nào hứa hẹn quá nhiều thì khả năng để nó thất bại sẽ nhiều hơn thành công. Ví dụ, nếu bộ quy tắc hứa hẹn sẽ loại bỏ tham nhũng thì sẽ không thành công vì trên thực thế là không thể loại trừ hoàn toàn tham nhũng. Nói cách khác, bộ quy tắc phải có tính khả thi.

Tính thực tế cũng còn có nghĩa là bộ quy tắc không chỉ là một tập hợp các chuẩn mực, giá trị và nguyên tắc chung chung (là những thứ đúng ở mọi nơi mọi lúc) mà nó còn phải hướng vào giải quyết những khúc mắc, vấn đề và tình huống nảy sinh từ chính thực tiễn cuộc sống có nghĩa là nó phải xác định được thế nào là những hành vi có thể chấp nhận được, và thế nào là những hành vi không thể chấp nhận được, và đồng thời, nó phải cung cấp cho công chức khái niệm cụ thể về bản sắc của chính tổ chức mình.

V- THỰC THI BỘ QUY TẮC ỨNG XỬ

Xây dựng bộ quy tắc ứng xử có chất lượng là một việc làm không hề đơn giản nhưng làm thế nào để bộ quy tắc ứng xử không chỉ là những quy định trên giấy mà có thể đi vào thực tiễn hoạt động của tổ chức là việc còn khó hơn. Muốn bảo đảm cho bộ quy tắc ứng xử được thực thi có hiệu quả, theo Menzel, trước hết cần có sự cam kết chính trị mạnh mẽ của lãnh đạo tổ chức đới với những giá trị và nguyên tắc đã nêu trong bộ quy tắc. Thêm vào đó phải phổ biến sâu rộng bộ quy tắc tới đội ngũ nhân viên trong tổ chức. Việc phổ biến không chỉ trên cơ sở hành chính, giấy tờ (như gửi văn bản tới các bộ phận) mà nên làm theo cách truyền tải thông điệp về đạo đức giữa con người với con người. Nghiên cứu tại một tổ chức đã chỉ ra rằng, việc lãnh đạo tổ chức gặp gỡ với nhân viên mới để trò chuyện về vấn đề đạo đức đã tạo được ấn tượng và ảnh hưởng lớn đối với nhân viên về tầm quan trọng của đạo đức và hành vi đúng đắn nơi làm việc.

Để bộ quy tắc không chỉ nằm trên bàn giấy thì nó phải được coi như một tài liệu sống, được “dệt” vào văn hoá của tổ chức. Lãnh đạo của tổ chức phải có trách nhiệm xây dựng nền văn hoá coi trọng đạo đức của tổ chức mình, trong đó các giá trị và hành vi đạo đức được nuôi dưỡng và phát triển.

Về mặt kỹ thuật để đưa bộ quy tắc vào thực tiễn hoạt động của tổ chức có thể áp dụng những biện pháp sau đây:

Thứ nhất, bộ quy tắc cần được soạn thảo và trình bày rõ ràng, ngắn ngọn, nghiêm túc.

Thứ hai, ngoài việc phổ biến bộ nguyên tắc bằng văn bản tới các phòng ban, bộ phận theo kiểu hành chính, cần đưa bộ quy tắc ra giới thiệu trước toàn thể nhân viên trong một dịp chính thức (ví dụ như một cuộc họp)

Công khai bộ quy tắc ứng xử ở nơi làm việc treo ở những chỗ dễ thấy để luôn nhắc nhở nhân viên về những nghĩa vụ đạo đức mà họ phải thực hiện cũng như những hệ quả họ có thể gánh chịu nếu vi phạm.

Nên thành lập một uỷ ban giám sát việc thực hiện bộ quy tắc. Mục đích của uỷ ban này là xem xét và điều tra những cáo buộc về hành vi sai trái đạo đức. Nên xây dựng phiếu tự đánh giá hoặc thiết lập các hướng dẫn để đánh giá các vấn đề hành vi đạo đức.

Cần xây dựng quy trình, thủ tục mà nhân viên và uỷ ban phải tuân thủ khi báo cáo và giải quyết các cáo buộc hành vi vi phạm.

Giải thích cho nhân viên những quy định về việc báo cáo hành vi đạo đức. Cần thông tin cho nhân viên để họ biết rằng cáo buộc phải được gửi bằng văn bản đúng tài liệu vụ việc.

Tiến hành một buổi điều trần trước uỷ ban đạo đức và các khiếu nại quy định của hành vi phi đạo đức. Uỷ ban đạo đức phải quyết định về hành động kỷ luật.

Tóm lại, đưa một bộ quy tắc ứng xử vào thực tiễn là công việc khó khăn và cần sự thống nhất hành động từ cán bộ lãnh đạo cho đến các nhân viên. Nó cũng đòi hỏi sự thường xuyên giám sát và đánh giá. Bộ quy tắc ứng xử không phải là bất biến. Nó có thể và cần phải được điều chỉnh tuỳ tình hình của tổ chức. Sự giám sát và đánh giá thường xuyên là căn cứ để thực hiện điều chỉnh khi cần.


NH (Tổng hợp) 
.
 

 

No comments:

Post a Comment