Saturday, December 5, 2015

TIỂU LUẬN TÌNH HUỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC THAM KHẢO SỐ 10

TIN LIÊN QUAN

>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 09



MỤC LỤC



Trang
Lời nói đầu

I. Giới thiệu tình huống

II. Phân tích tình huống

2.1.Căn cứ phân tích tình huống

2.2. Nguyên nhân dẫn đến hậu quả tình huống

III. Xây dựng phương án xử lý tình huống

3.1. Phương án 1

3.2. Phương án 2

3.3. Phương án 3

IV. Lựa chọn phương án xử lý tình huống

V. Giải pháp và kiến nghị

5.1. Giải pháp tổ chức thực hiện phương án tối ưu

5.2. Một số kiến nghị

Kết luận

Tài liệu tham khảo


 

LỜI NÓI ĐẦU
Khoá học......... được tổ chức tại Trường........... từ ngày........ đến ngày do Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức và đào tạo đã thu hút được...... học viên là cán bộ, công chức đang công tác tại các bộ phận, các cơ quan chuyên môn thuộc các lĩnh vực của Uỷ ban nhân dân các cấp trong tỉnh.
Để nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ quản lý cho cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về mọi mặt. Khoá học này, có thể ví như một khoá đào tạo ngắn hạn nhằm nâng cao kỹ năng quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức ở địa phương. Bởi lẽ, một mặt khoá học đã tập trung đi sâu trang bị những kiến thức cơ bản, những vấn đề mang tính lý luận và những quy định mới trong chính sách của Đảng và Nhà nước cho học viên. Mặt khác, khoá học là nơi để cán bộ, công chức được hướng dẫn, thực hành các kỹ năng, nghiệp vụ cần thiết có liên quan đến các nội dung quản lý nhà nước, đặc biệt là hướng cán bộ, công chức có khả năng làm việc nhóm, làm việc độc lập một cách sáng tạo gắn với những yêu cầu của học viên.
 Vấn đề về thuế giá trị gia tăng và công tác quản lý nhà nước về thuế giá trị gia tăng của chính quyền địa phương các cấp ở nước ta hiện nay luôn nhận được sự quan tâm của đối tượng. Điều này khẳng định, các quy định của Luật thuế giá trị gia tăng bên cạnh những ưu điểm của nó đối với nhà nước và xã hội như: thu ngân sách Nhà nước không giảm mà còn tăng nhiều so với thuế doanh thu; hoạt động sản xuất – kinh doanh ngày càng đi vào mạnh mẽ; và, sản xuất nội địa được gia tăng áp lực bảo hộ thì vẫn còn nhiều hạn chế làm phát sinh các hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong quá trình thực thi thuế giá trị gia tăng, gian lận và chiếm đoạt tiền thuế,... Thực trạng những năm gần đây về hiện tượng gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT của cá doanh nghiệp (DN) để bòn rút tiền ngân sách Nhà nước (NSNN) đã trở thành một vấn nạn của toàn xã hội. Bởi các hành vi gian lận này diễn ra trên phạm vi rất rộng, không chỉ ở các thành phố lớn mà còn ở nhiều tỉnh lẻ, đồng thời số tiền gian lận, bòn rút tiền từ NSNN bị phát hiện đã lên đến hàng trăm tỷ đồng và chừng như các vụ gian lận bị phát hiện ngày càng lớn, càng nghiêm trọng hơn. Với những kiến thức và kỹ năng được trang bị tại khoá đào tạo, cùng với những kinh nghiệm của một cán bộ, công chức đang công tác tại ngành tài chính, tôi mạnh dạn lựa chọn: “Khắc phục những yếu kém trong thanh tra kiểm tra ở Chi cục thuế thành phố H” làm nội dung cơ bản để nghiên cứu viết bài tiểu luận cuối khoá.
I. GIỚI THIỆU TÌNH HUỐNG
          Thuế và quản lý nhà nước về thuế là một nội dung phức tạp, có nội dung rộng bao gồm các lĩnh vực như: thuế thu nhập cá nhân, thuế kinh doanh, thuế giá trị gia tăng,... áp dụng cho các tổ chức và cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Tuy nhiên, thực tiễn nảy sinh nhiều vấn đề, nhiều bất cập trong hoạt động quản lý như: quy trình kê khai đánh giá đến thanh tra, kiểm tra thuế... ở mỗi địa bàn trong phạm vi cả nước. Với phạm vi của một tiểu luận, tôi nêu lên một tình huống cụ thể xảy trên địa bàn thành phố H về trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H lợi dụng các quy định của pháp luật hiện hành và năng lực thẩm tra của cán bộ thuế để trốn lậu thuế và truy thu hoàn thuế giá trị gia tăng bất hợp pháp. Có thể thấy, diễn biến tình huống như sau:
          Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoang H,-là công ty kinh doanh máy tính nguyên chiếc có nhập khẩu linh kiện từ một số nước như Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc,... để lắp giáp thành phẩm máy vi tính sách tay, máy bàn và các thiết bị phụ kiện khác. Năm 2009, doanh nghiệp đã tiến hành nhập khẩu con chíp điện tử, ram từ Trung Quốc với trị giá hàng hơn 1tỷ đồng Việt Nam và nhập loa, màn hình, USB,.... từ Nhật Bản trị giá 18 tỷ đồng Việt Nam,... và tiến hành bán lẻ các linh kiện, phụ kiện này cho mọi khác hàng trên địa bàn thành phố H. Sau mỗi lần bán linh kiện, phụ kiện cho khách hàng, kế toán của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H không viết hoá đơn bán linh kiện, phụ kiện cho khách hàng đến mua. Sau mỗi ngày, kế toán công ty trách nhiệm Hoàng H vẫn tiến hành lập hoá đơn xuất bán không phải dưới dạng linh kiện mà dưới dạng thành phẩm máy tính trọn bộ nhằm hợp thức hoá các linh kiện và số dư hàng linh kiện, phụ kiện còn tồn trong kho của Công ty.
          Tháng 03 năm 2009, Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H làm đơn xin hoàn thuế giá trị gia tăng lần 1 và được Cục thuế Thành phố H, cho hoàn thuế giá trị gia tăng là 1.235.672.000 đồng. Sau đó, Công ty này tiếp tục làm đơn xin hoàn thuế vào tháng 6 và tháng 9 năm 2010. Mỗi lần Công ty đều thu về hàng tỷ đồng tiền hoàn thuế giá trị gia tăng. Đến ngày 6/12/2010 cán bộ chi cục thuế Nguyễn Thị T Thành phố H, trong một lần tình cơ có đi mua một con chíp điện tử, con chuột và 1 bàn phím máy tính tại cơ sở kinh doanh của Công ty hữu hạn trách nhiệm Hoàng H tại 43 phố TH quận Đ Đ thành phố H, khi lấy các phụ kiện đã mua, kế toán cũng không ghi hoá đơn theo mẫu quy định mà chỉ ghi loại mẫu hoá đơn thông thường dùng để tính tiền và lưu tại Công ty. Phát hiện ra dấu hiệu vi phạm này, cán bộ Nguyễn Thị T có yêu cầu kế toán ghi đúng hoá đơn theo mẫu do Bộ Tài chính áp dụng thì kế toán của Công ty Trần Bảo V nói rằng: “chị mua về gia đình để sử dụng nên cần gì phải hoá đơn,...”. Sự việc này, đã được cán bộ Nguyễn Thị T báo cáo Chi cục trưởng Chi cục thuế Thành phố H về tình trạng Công ty này chuyên bán linh kiện, phụ kiện cho khách hàng mà không sử dụng hoá đơn. Mặt khác, trong 3 lần xin hoàn thuế trước không hề có một hoá đơn nào kê khai về bán linh kiện hay phụ kiện mà toàn bộ đã thành phẩm hoàn chỉnh. Ngày 14/12/2009, Chi cục trưởng Chi cục thuế thành phố H cho tiến hành thanh tra kiểm tra toàn bộ số hoá đơn của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H nhưng không phát hiện được những sai phạm vi toàn bộ số hoá đơn này đều hợp lệ và đúng với quy định của pháp luật,...
          Để ngăn chặn hành vi “chốn thuế và xin hoàn thuế” làm thất thoát nguồn ngân sách nhà nước trong trường hợp của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H, cần phải cho thanh tra kiểm tra việc ghi chép hoá đơn hàng ngày tại cơ sở kinh doanh. Đồng thời, tăng cường kiểm soát, quản lý quy trình xem xét hoàn thuế của các doanh nghiệp trên địa bàn nói chung và của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H nói riêng nhằm phát hiện ra sai phạm để xử lý vi phạm hành chính và truy thu lại thuế và hoàn thuế do những vi phạm mà doanh nghiệp đã gây ra.
          Song, vấn đề đặt ra đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước, nhất là cơ quan có chức năng kiểm định, thanh tra, kiểm tra về thuế cần phải làm gì ? có biện pháp cụ thể nào ? để có thể phát hiện được vi phạm của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H ? là vấn đề đặt ra đối với Chi cục thuế Thành phố H. Mặt khác, cần phải làm gì để khắc phục những kẽ hở trong quy định của pháp luật ? những yếu kém của quy trình thanh tra, kiểm tra ? ... làm cơ sở để hoàn thiện các quy định này nhằm đáp ứng việc thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với các doanh nghiệp trên địa bàn.
          Khi cán bộ Nguyễn Thị T phát hiện những sai phạm của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H, đã có những động thái tích cực như, yêu cầu kế toán ghi hoá đơn, báo cáo Chi cục trưởng, Chi cục trưởng đã tổ chức tiến hành thanh tra kiểm tra lại nhưng không phát hiện được sai phạm cụ thể của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H. Tuy không phát hiện được, nhưng bước đầu đã có cơ sở để Chi cục thuế tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm phát hiện những biểu hiện gian lận trong trốn thuế và hoàn thuế của Công ty Hoàng H.
          II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
          Thuế GTGT nói chung và công tác thu thế nói riêng, có thể được tiếp cận nghiên cứu dươí nhiều góc độ khác nhau như: luật học, chính sách, quản lý nhà nước, kinh tế tài chính,... Mỗi góc độ sẽ chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm cũng như nguyên nhân của nó từ đó góp phần khắc phục những tồn tại bằng những giải pháp hữu hiệu nhất. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế, nhất và việc quản lý và xử lý những vi phạm trong quá trình tổ chức thực hiện các chính sách của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thuế tại địa phương đòi hỏi tình huống trên phải được đánh giá, phân tích, làm sáng tỏ dưới góc độ của khoa học quản lý nhà nước.
          2.1. Cơ sở phân tích tình huống
Theo quy định của Luật thuế giá trị gia tăng[1] thì Thuế GTGT là một sắc thuế đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ. Theo phương pháp khấu trừ, thuế GTGT phải nộp của khâu sau được khấu trừ phần thuế đã nộp ở khâu trước. Do vậy, khấu trừ là một đặc trưng cơ bản của thuế GTGT. Nói một cách khác, bỏ khấu trừ thì thuế GTGT mất đi thuộc tính vốn có của nó, lúc bấy giờ thuế GTGT không còn có ý nghĩa tồn tại.
Theo Luật thuế GTGT, đối với hàng hoá xuất khẩu chịu thuế suất là 0% và được khấu trừ toàn bộ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Đây là một chủ trương nhằm khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước. Để được hoàn thuế, doanh nghiệp phải có đầy đủ các hoá đơn hợp pháp. Tuy nhiên, do điều kiện đặc thù của nền kinh tế nước ta, những trường hợp mua hàng là nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất không có hoá đơn được khấu trừ theo tỷ lệ tính trên giá trị theo bảng kê. Ngoài ra, ta cũng ban hành cơ chế hoàn trước - kiểm sau, nhằm tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp. Căn cứ chủ yếu để được hoàn thế là hoá đơn hợp pháp và thông qua những tình tiết mà tình huống nên lên có thể thấy những hình thức gian lận và trốn thuế của Công ty TNHH Hoàng H như sau:
Thứ nhất, kế toán Công ty TNHH Hoàng H khi bán các linh kiện, phụ kiện của máy vi tính không sử dụng hoá đơn do Bộ Tài chính phát hành, thực chất chỉ là hoá đơn thông thường hay còn gọi là hoá đơn giả. Điều này phản ánh cả một quá trình bán các sản phẩm linh kiện, phụ kiện hay thành phẩm của Công ty TNHH Hoàng H không viết hoá đơn theo quy định. Mục đích của hành vi này là nhằm để hợp thức hoá số linh kiện, phụ kiện do Công ty nhập khẩu từ các nước thành các sản phẩm do Công ty lắp giáp và bán cho khác hàng. Điều này có thể làm phát sinh hành vi lợi dụng hoá đơn thật để ghi các nội dung, chi tiết không đúng.
Thứ hai, việc làm của kế toán Công ty TNHH Hoàng H có thể làm nảy sinh hành vi mua, bán hoá đơn giữa các doanh nghiệp. Vì việc kê khai bán hàng thành phẩm có thể thừa hoá đơn hoặc thiếu hoá đơn. Mặt khác, có thể bán hoá đơn cho khách hàng với nội dung theo yêu cầu của khách hàng để lấy phần % chênh lệch. Hành vi này tuy chưa có căn cứ trong tình huống nhưng vẫn là thực trạng chung mà đa số các doanh nghiệp liên kết, cấu kết với nhau để đạt được mục đích của mình.
Thứ ba, tình huống trên chỉ ra quy trình thanh tra kiểm tra chỉ mang tính chất hậu kiểm, nên khó có thể phát hiện những “dấu vết” do ghi không đúng với nội dung của hoá đơn như trường hợp của kế toán Công ty TTNHH Hoàng H.
2.2.Mục tiêu chung
Những hành vi gian lận của Công ty TNHH Hoàng H nêu trên đòi hỏi phải được lý giải một cách thoả đáng như: Tại sao Công ty TNHH Hoàng H lại có thể dễ dàng thực hiện hành vi vi phạm của mình ? Thông qua đó làm sáng tỏ những hạn chế của thể chế, chính sách, điều kiện kinh tế-xã hội,... ở nước ta hiện nay.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến hậu quả của tình huống trên
          Từ những phân tích trên, có thể thấy những sai phạm trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nhìn chung, có các nguyên nhân cơ bản như:
          Thứ nhất, những nguyên nhân khách quan:
          Một là, điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mở ra là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam phát triển trong điều kiện kinh doanh lành mạnh và hợp pháp. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường và những hạn chế về kinh nghiệm của một quốc gia mới hơn 23 năm chuyển đổi nền kinh tế đã tạo ra những hạn chế trong việc quản lý nhằm đảm đảm sự phát triển lành mạnh, ổn định và vững chắc của các thành phần kinh tế. Những hành vi tiêu cực trong kinh doanh, gian lận thương mại, buôn lậu,... là một thực tế khách quan mà chúng ta phải chấp nhận. Do đó, những biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực tính thuế và hoàn thuế GTGT vẫn có cơ sở để nảy sinh.
          Hai là, những hạn chế của quy định về hoàn thuế GTGT dẫn đến sự lạm dụng trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT. Bởi lẽ, việc tính thuế được tiến hành theo phương pháp khấu trừ: “ Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào”. Kết quả khấu trừ này có thể dương hay âm. Kết quả khấu trừ âm chính là cơ sở để tính toán hoàn thuế - tức trả lại tiền từ quỹ hoàn thuế, cũng có nghĩa là từ NSNN, cho các DN. Để được tính khấu trừ hay hoàn thuế, cả số thuế GTGT đầu ra, đầu vào đều phải được căn cứ trên chứng từ, hoá đơn. Do vậy hiện nay, chứng từ, hoá đơn mà kế toán Công TNHH Hoàng H sử dụng chính là công cụ trực tiếp để thực hiện hành vi gian lận trốn thuế và thu lợi bất hợp pháp từ việc hoàn thuế-tức kê khai giá mua vào cao hơn giá bán ra và được phù phép bằng con đường xuất khẩu khống. Với thuế suất TTTĐB 70%, chi phí lắp ráp là 12.000.000 đồng/bộ, giá bán nội địa 18.000.000 đồng/bộ. Với cách khai khống bằng con đường xuất khẩu, thì không những Công ty H được hoàn thuế mà không phải nộp cả phần thuế chi chi phí lắp ráp. Mặt khác, khái niệm thuế GTGT đầu vào, thuế GTGT đầu ra và đặc biệt là thuế GTGT đầu ra bằng 0 đồng còn quá mới mẻ đối với người kinh doanh. Những điểm nói trên không chỉ mới đối với người nộp mà đối với cả cơ quan thu thuế.
          Ba là, thiếu công nghệ cần thiết phục vụ cho quá trình kiểm soát nghiêm ngặt các lô hàng được hoàn thuế nên dẫn đến tình trạng đa số hoá đơn, chứng từ nằm ngoài tầm kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước. Mặt khác, quy trình sử dụng phương pháp truy xuất, đối chiếu chứng từ, hoá đơn hiện nay vẫn còn mang tính thủ công. Do vậy, những hạn chế mà tình huống nêu được kế toán Công ty TNHH Hoàng H sử dụng khá triệt để. Không gian của hoạt động kinh doanh thường rộng lớn.
          Thứ hai, những nguyên nhân chủ quan
          Một là, số lượng biên chế đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay ở Chi cục thuế Thành phố H vẫn còn quá ít, trong khi đó số lượng doanh nghiệp đã và đang hoạt động rất lớn. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp mới xin phép hoạt động nên việc kiểm soát một khối lượng hoá đơn rất lớn đã không thể đáp ứng được một cách chi tiết và cụ thể. Từ sự quá tải này nên trong thực tế ở địa phương, ngay đối với các trường hợp đã được hoàn thuế, tỷ lệ kiểm tra sau hoàn thuế hàng năm vẫn chưa đạt đến 30% số doanh nghiệp đã được. Đại bộ phận cơ sở kinh doanh quy mô dưới doanh nghiệp tư nhân không quan tâm đến chế độ kế toán quốc dân mà phản ánh hoạt động kinh doanh theo logic thô sơ. Nguy hiểm hơn là họ cho rằng sổ sách kế toán là công cụ của cơ quan Nhà nước kiểm tra, kiểm soát họ mà không nghĩ rằng sổ sách, tài khoản, chứng từ,... là những phương tiện căn bản giúp họ tiếp cận hoạt động kinh doanh một cách hệ thống để đánh giá, đo lường và phân tích kết quả kinh doanh cũng như dự báo tương lai. Thêm nữa, nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế tiền mặt. Mọi thanh toán và giao dịch đều có thể dùng tiền mặt: tiền Việt, vàng và ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ). Điều này được các doanh nghiệp khai thác lập bộ hồ sơ thanh toán khống; đồng thời cơ quan thuế cũng khó phát hiện để ngăn chặn kịp thời.
Hai là, năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện việc kiểm tra quyết toán thuế còn nhiều yếu kém và hạn chế. Có thể thấy năng lực kiểm tra của cán bộ Chi cục thuế thành phố H thông qua tình huống trên như: 3 lần liên tiếp Công ty TNHH Hoàng H xin hoàn thuế mà không phát hiện ra, chỉ khi cán bộ thuế Nguyễn Thị T tình cơ mua linh kiện, phụ kiện tại Công ty này mới phát hiện ra những sai phạm của Công ty. Mặt khác, tình trạng về những biểu hiện tiêu cực của một số nhân viên thuế thực hiện khi thực hiện kiểm tra quyết toán thuế nên khả năng tiêu cực ở đây rất lớn. Không hiếm trường hợp chính cán bộ thuế gợi ý và tiếp tay cho một số cá nhân ăn cắp tiền thuế. Chủ trương xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới bị lợi dụng với sự tiếp sức của một vài cán bộ thuế biến chất. Để thu một tỷ đồng thuế, nhiều cán bộ thuế phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian có khi cả năm. Thế nhưng chỉ cần hai ba cán bộ thuế thoái hoá cũng đủ gây thất thoát nhiều lần hơn trong thời gian ngắn. Điều này khiến cho hình ảnh về cơ quan thuế dưới con mắt doanh nghiệp và dân chúng bị hoen ố.
Ba là, những yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và thói quen mua hàng lấy hoá đơn chưa hình thành, có nhiều trường hợp được quy tội gian lận thuế không do chủ ý của cá nhân kinh doanh mà do hiểu không đúng các quy định của thuế. Về phía người tiêu dùng, bản thân họ tiếp tay một cách vô ý cho doanh nghiệp gian dối khi mua hàng không lấy hoá đơn. Hơn nữa họ cũng không có động cơ giữ hoá đơn. Vì vậy, nếu được người bán đề nghị không lấy hoá đơn để khỏi mất thêm 10% tiền thì họ đồng ý ngay.
Từ những đánh giá trên, đòi hỏi phải lựa chọn và xây dựng cách khắc phục các nhược điểm nhằm hạn chế đến mức thấp nhấp những vi phạm trong lĩnh vực thuế nói chung, trong kê khai hoàn thuế nói riêng.
III. XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Tình huống trên cho phép mỗi cấp, ngành, cơ quan xây dựng cho mình phương án giải quyết khác nhau. Song, nhìn chung tiểu luận nêu lên một số phương án giải quyết cơ bản như:
3.1.Phương án 1: Tiến hành tuy tố, điều tra và kiên quyết trừng trị nghiêm minh những hành vi vi phạm của Công ty TTHH Hoàng H
*Mục tiêu của phương án: Có tác dụng răn đe, trừng trị và giáo dục những hành vi vi phạm nói chung và của Công ty H nói riêng.
*Nội dung chính của phương án:
-Có văn bản yêu cầu cơ quan điều tra tội phạm về kinh tế thành phố H vào cuộc để tiến hành điều tra về những vi phạm của Công ty H.
-Tiến hành xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm này.
*Nguồn lực để thực hiện phương án.
-Chi phí cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là nguồn kinh phí nằm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ “tố tụng hình sự” của Nhà nước nên không tốn kém.
-Sử dụng công cụ pháp luật hình sự và biện pháp hình sự là cơ sở để đảm bảo phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.
-Cơ quan tiến hành hoạt động tố tụng được xác định theo quy định của Luật tố tụng hình sự năm 2004, bao gồm: cơ quan điều tra, cơ quan viện kiểm sát, cơ quan toà án và cơ quan thi hành án.
3.2. Phương án 2: Hoàn thiện các quy định của Luật thuế giá trị gia tăng hiện nay
*Mục tiêu của phương án: Nhằm xây dựng một khung khổ pháp lý đủ mạnh, thống nhất và phù hợp tránh việc lợi dụng các kẽ hở, mâu thuẫn của Luật để trục lợi gây thất thoát ngân sách nhà nước.
*Nội dung chính của phương án:
-Tiến hành rà soát, đánh giá và phân tích các quy định hiện hành nhằm phát hiện những mâu thuẫn, chồng chéo và thiếu hợp lý.
-Tiến hành làm văn bản trình cấp có thẩm quyền theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004.
*Nguồn lực chính để thực hiện phương án:
-Chi phí cho rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật về thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay rất tốn kém vì phải thuê các chuyên gia có kinh nghiệm.
-Sử dụng phương pháp nghiên cứu Luật, nghiên cứu hành chính để làm sáng tỏ các nội dung đặt ra.
-Cơ quan chủ trì là Uỷ ban nhân dân thành phố H, và những chuyên gia được hợp đồng để thực hiện nội dung.
-Thời gian thực hiện phương án ít nhất phải mất 3 tháng.
3.3. Phương án 3: Tiến hành thanh tra kiểm tra theo quy trình hành chính để xử lý vi phạm của Công ty TNHH Hoàng H
*Mục tiêu của phương án: Nhằm làm sáng tỏ hành vi vi phạm trong lĩnh vực thuế để kợp thời truy thu thuế cho Nhà nước.
* Nội dung chính của phương án:
-Tiến hành thanh tra kiểm tra Công ty TNHH Hoàng H theo đúng quy định tại Quyết định số 1166/2005/QĐ-TCTC ngày 31/10/2005 của Tổng cục trưởng Tổng Cục thuế về việc ban hành quy trình thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp để xác định những hành vi vi phạm cụ thể về hoá đơn, chứng từ, sổ sách của Công ty H.
-Tiến hành xử lý vi phạm hành chính theo quy định của các văn bản, như: Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính[2] và những văn bản hướng dẫn xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế như: Nghị định của Chính phủ số 185/2004/NĐ-CP ngày 04/11/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán; Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 07/06/2007 của Chính phủ, quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; Thông tư của Bộ Tài chính số 41/2004/TT-BTC ngày 18/05/2004 hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 của Chính phủ quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế;...
*Nguồn lực chính để thực hiện phương án
-Chi phí cho quá trình thanh tra, kiểm tra được xác định theo quy trình thanh tra, kiểm tra đột xuất nên chi phí thường không lớn.
-Sử dụng công cụ pháp luật hành chính và biện pháp hành chính, biện pháp nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra để làm sáng tỏ hành vi vi phạm trên.
-Cơ quan tiến hành: Thủ trưởng Chi cục thuế; cán bộ, nhân viên thu và hoàn thuế giá trị gia tăng; các cơ quan có liên quan phải tham gia và được mời tham gia.
-Thời gian để thực hiện phương án: từ 15 đến 30 ngày.
IV. LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Trên đây là 03 phương án cơ bản mà tiểu luận đưa ra, mỗi phương án đều có những ưu điểm, nhược điểm nhất định. Để lựa chọn được phương án tối ưu để giải quyết trong tình huống này, có thể xem xét qua bảng so sánh sau:
PHƯƠNG ÁN
ƯU ĐIỂM
NHƯỢC ĐIỂM
Phương án 1
-Có tác dụng không chỉ trừng trị hành vi vi phạm của Công ty H mà còn có tác dụng giáo dục, răn đe các hành vi vi phạm về thuế của các doanh nghiệp khác trên địa bàn.
-Có tính khả thi cao vì chỉ có thể sử dụng các biện pháp nghiệp vụ điều tra để làm rõ được hành vi vi phạm
-Ít tốn kém nguồn lực.
-Không có căn cứ để khởi tố vụ án hình sự nên rất khó để cơ quan điều tra có thể vào cuộc
-Thời gian tiến hành lâu vì phải trải qua nhiều cơ quan, công đoạn theo đúng trình tự thủ tục tố tụng hình sự.
Phương án 2
-Xây dựng được một hệ thống cơ sở pháp lý nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của doanh nghiệp diễn ra công bằng, lành mạnh.
-Đảm bảo cho mục tiêu, chính sách của Đảng và Nhà nước phát huy được hiệu quả trong thực tế.
-Tốn kém nguồn kinh phí
-Thời gian thực hiện lâu
Phương án 3
-Là phương án nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của cơ quan hành chính Nhà nước nên thái độ, ý thức và trách nhiệm rất cao.
-Có tác dụng trực tiếp trong việc xử lý hành vi vi phạm của Công ty H theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
-Ít tốn kém chi phí
-Phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Thủ trưởng cơ quan thuế và cán bộ, công chức thuế tham gia.
-Cần có sự đồng thuận của nhiều chủ thể như: công an, Uỷ ban nhân dân, Chính trị xã hội và nhân dân,..
          Qua những so sánh trên, tiểu luận xác định phương án 3 là phương án tối ưu để giải quyết tình huống này. Bởi lẽ, nếu sử dụng phương án 1 còn thiếu căn cứ nên dễ có thể bị bỏ qua mà không thể xử lý được hành vi vi phạm còn nếu sử dụng phương án 3 thì thời gian, nhân lực cần nhiều nên chỉ có thể là biện pháp lâu dài mà không thể giải quyết trực tiếp tình huống cụ thể. Do vậy, phương án 3 là phương án phù hợp nhất với tình huống và các quy định hiện hành của pháp luật nước ta.
          V. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
          5.1.Giải pháp tổ chức thực hiện phương án tối ưu
          Để thực hiện được phương án 3 (phương án mà tiểu luận lựa chọn) cần phải tiền hành các bước cơ bản sau:
          -Bước 1: Chi cục Trưởng Chi cục thuế thành phố H ra Quyết định tiến hành thanh tra, kiểm tra đột xuất Công ty TNHH H. Trong quyết định này xác định thời gian, địa điểm, tổ chức, cơ quan chịu trách nhiệm tiến hành cụ thể theo quy định. Thời gian ban hành Quyết định này là 01 ngày.
          -Bước 2: Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ, thẩm quyền tiến hành thực hiện thanh tra, kiểm tra đột xuất Công ty TNHH H thời gian tiến hành 02 ngày. Quá trình thanh tra, kiểm tra cần có biên bản xác định vi phạm dự kiến mức xử lý theo quy định hiện hành của Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn khác.
          -Bước 3: Chi cục Trưởng Chi Cục thuế tiến hành mời đại diện hợp pháp của Công ty TNHH đến cơ quan để xem xét giải quyết. Thời gian tiến hành 01 ngày (trừ trường hợp Công ty không đến).
          -Bước 4: Chi cục Trưởng ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Thời gian tiến hành 01 ngày và chuyển Quyết định đến các cơ quan có liên quan và Công ty TNHH Hoàng H.
          -Bước 5: Tổ chức thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Thời gian 01 ngày. Trong trường hợp phải cưỡng chế thì thời gian từ 2 đến 3 ngày để làm các thủ tục cần thiết.
          5.2.Một số kiến nghị
          Để góp phần hoàn thiện giải pháp tối ưu trong tính thống nhất biện chứng của nó nhằm phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tiểu luận mạnh dạn nêu lên một số kiến nghị cơ bản như sau:
* Đối với Trung ương
          -Sớm kiện toàn hệ thống văn bản về thuế và các quy định liên quan đến quản lý và xử lý vi phạm về thuế. Chính phủ, cần tổng kết, đánh giá và nghiên cứu làm tờ trình Quốc hội trong kỳ họp gần nhất hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội để xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng theo hướng thu hẹp khoảng cách các mức thuế suất; cho phép doanh nghiệp tự in và chịu trách nhiệm về hoá đơn của mình;...
          -Các bộ và cơ quan ngang bộ, trong phạm vi trách nhiệm của mình cần nghiên cứu, tổng kết và rút kinh nghiệm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn các quy định về thuế và quản lý thuế ở địa phương. Chủ động phân cấp, tạo điều kiện cho UBND và cơ quan thuế ở địa phương phát huy tính sáng tạo và nghiệp vụ của mình trong quản lý hiệu quả  đối với các doanh nghiệp đóng trên địa bàn.
          * Đối với địa phương
          -Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về thuế cho mọi đối tượng trên địa bàn bằng nhiều kênh và hình thức khác nhau. Trong đó, cần tập trung tuyên truyền vào đối tượng doanh nghiệp và người tiêu dùng để họ có ý thức trong việc chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật.
          -Nên Chi cục thuế thành phố H cần chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc chuyển các hộ kinh doanh nhỏ ra khỏi diện chịu thuế GTGT để quá trình vận hành của thuế thông suốt và sử dụng duy nhất một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ.
          -UBND chỉ đạo các cơ quan ra khuyến cáo nhằm khuyến khích cá nhân đòi hoá đơn khi mua hàng. Có thể khẳng định rằng hoá đơn là khâu then chốt bảo đảm thành công khi áp dụng thuế GTGT. Do đó, cần xây dựng các hình thức và biện pháp nhằm khuyến khích người tiêu dùng lấy hoá đơn khi mua hàng.
KẾT LUẬN
Tóm lại, thuế và công tác quản lý thuế của cơ quan, người có thẩm quyền có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn. Một mặt, nó phần phần hoàn thiện lý luận về khoa học quản lý tài chính công, quản lý nhà nước hiệu quả,... Mặt khác, nó chính là nguồn quan trọng để bổ sung vào ngân sách nhà nước góp phần tạo nguồn lực để đáp ứng các dịch vụ công cho xã hội công dân. Do vậy, cần phải có lộ trình, giải pháp và những bước đi thích hợp để kiện toàn, hoàn thiện và xây dựng mới từ cơ chế, quy định, đến nguồn lực nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động quản lý nhà nước về thuế ở địa phương đúng hướng, đạt được mục tiêu đã đặt ra. Đồng thời, cần chủ động phát huy hơn nữu tính năng động, sáng tạo của mỗi cán bộ, công chức góp phần lành mạnh hoá, trong sách hoá công tác quản lý thuế trong điều kiện hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính, Quyết định 146 ngày 4/12/2002, về điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng trong đó chủ yếu là linh kiện sản xuất ôtô chưa đầy một tháng đã bị ngừng thực hiện.
2. Bộ tài Chính, Quyết định số 189/2003/QĐ-BTC ngày 14/11/2003, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục thuế trực thuộc Tổng cục Thuế.         
3. Bộ Tài chính, Thông tư số 41/2004/TT-BTC ngày 18/05/2004, hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 của Chính phủ quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.
4. Bộ Tài chính, Quyết định số 3483/QĐ-BTC ngày 7/10/2005, về việc mở rộng thí điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh.
5. Chính phủ, Nghị định số 185/2004/NĐ-CP ngày 04/11/2004, về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán.
6. Chính phủ, Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 07/06/2007, quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
7. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 197/2003/QĐ-TTg ngày 23/9/2003, về việc thí điểm thực hiện cơ chế cơ sở sản xuất, kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế.
8. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 218/2003/QĐ-TTg ngày 28/10/2003, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính.
9. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg ngày 6/12/2004, về việc phê duyệt chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010.
10. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 161/2005/QĐ-TTg ngày 30/6/2005, về việc mở rộng thí điểm cơ sở sản xuất kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế đối với thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu sản xuất trong nước; thuế tài nguyên; thuế nhà, đất; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và thuế môn bài.
11. Quốc hội, Luật thanh tra, được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004.
12. Quốc hội, Luật thuế giá trị gia tăng, được Quốc hội thông qua ngày 03/6/2008.
          13. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính, ngày 16/7/2002.





[1] Luật số 13/2008/QH12, Luật thuế giá trị gia tăng được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 03 tháng 6 năm 2008.

[2] Pháp lệnh số 44/2002/PL-UBTVQH10 ngày 16/07/2002 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử lý vi phạm hành chính

 

1 comment:

  1. Nhận làm chuyên đề tốt nghiệp, luận văn tốt nghiệp, báo cáo thực tập tốt nghiệp, khóa luận, đề án, tiểu luận các trường khối kinh tế trung cấp, cao đẳng, đại học, cao học
    Giá luận văn, báo cáo, chuyên đề các trường TC, CĐ, ĐH ( giá từ 200K – 1 triệu) tùy mức độ khó dễ của từng trường
    Tiểu luận cao đẳng, đại học ( 200K – 500K)
    Tiểu luận cao học ( 500K – 1tr)
    Luận văn Cao học ( Từ 2 triệu – 5triệu)
    Liên hệ nick: lvkinhte
    Email: lvkinhte@gmail.com
    Điện thoại: 098.513.0242
    Zalo: 0985 130 242

    ReplyDelete

Saturday, December 5, 2015

TIỂU LUẬN TÌNH HUỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC THAM KHẢO SỐ 10

TIN LIÊN QUAN

>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 09



MỤC LỤC



Trang
Lời nói đầu

I. Giới thiệu tình huống

II. Phân tích tình huống

2.1.Căn cứ phân tích tình huống

2.2. Nguyên nhân dẫn đến hậu quả tình huống

III. Xây dựng phương án xử lý tình huống

3.1. Phương án 1

3.2. Phương án 2

3.3. Phương án 3

IV. Lựa chọn phương án xử lý tình huống

V. Giải pháp và kiến nghị

5.1. Giải pháp tổ chức thực hiện phương án tối ưu

5.2. Một số kiến nghị

Kết luận

Tài liệu tham khảo


 

LỜI NÓI ĐẦU
Khoá học......... được tổ chức tại Trường........... từ ngày........ đến ngày do Học viện Chính trị-Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức và đào tạo đã thu hút được...... học viên là cán bộ, công chức đang công tác tại các bộ phận, các cơ quan chuyên môn thuộc các lĩnh vực của Uỷ ban nhân dân các cấp trong tỉnh.
Để nâng cao trình độ, kỹ năng nghiệp vụ quản lý cho cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về mọi mặt. Khoá học này, có thể ví như một khoá đào tạo ngắn hạn nhằm nâng cao kỹ năng quản lý nhà nước cho cán bộ, công chức ở địa phương. Bởi lẽ, một mặt khoá học đã tập trung đi sâu trang bị những kiến thức cơ bản, những vấn đề mang tính lý luận và những quy định mới trong chính sách của Đảng và Nhà nước cho học viên. Mặt khác, khoá học là nơi để cán bộ, công chức được hướng dẫn, thực hành các kỹ năng, nghiệp vụ cần thiết có liên quan đến các nội dung quản lý nhà nước, đặc biệt là hướng cán bộ, công chức có khả năng làm việc nhóm, làm việc độc lập một cách sáng tạo gắn với những yêu cầu của học viên.
 Vấn đề về thuế giá trị gia tăng và công tác quản lý nhà nước về thuế giá trị gia tăng của chính quyền địa phương các cấp ở nước ta hiện nay luôn nhận được sự quan tâm của đối tượng. Điều này khẳng định, các quy định của Luật thuế giá trị gia tăng bên cạnh những ưu điểm của nó đối với nhà nước và xã hội như: thu ngân sách Nhà nước không giảm mà còn tăng nhiều so với thuế doanh thu; hoạt động sản xuất – kinh doanh ngày càng đi vào mạnh mẽ; và, sản xuất nội địa được gia tăng áp lực bảo hộ thì vẫn còn nhiều hạn chế làm phát sinh các hiện tượng tiêu cực nảy sinh trong quá trình thực thi thuế giá trị gia tăng, gian lận và chiếm đoạt tiền thuế,... Thực trạng những năm gần đây về hiện tượng gian lận trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT của cá doanh nghiệp (DN) để bòn rút tiền ngân sách Nhà nước (NSNN) đã trở thành một vấn nạn của toàn xã hội. Bởi các hành vi gian lận này diễn ra trên phạm vi rất rộng, không chỉ ở các thành phố lớn mà còn ở nhiều tỉnh lẻ, đồng thời số tiền gian lận, bòn rút tiền từ NSNN bị phát hiện đã lên đến hàng trăm tỷ đồng và chừng như các vụ gian lận bị phát hiện ngày càng lớn, càng nghiêm trọng hơn. Với những kiến thức và kỹ năng được trang bị tại khoá đào tạo, cùng với những kinh nghiệm của một cán bộ, công chức đang công tác tại ngành tài chính, tôi mạnh dạn lựa chọn: “Khắc phục những yếu kém trong thanh tra kiểm tra ở Chi cục thuế thành phố H” làm nội dung cơ bản để nghiên cứu viết bài tiểu luận cuối khoá.
I. GIỚI THIỆU TÌNH HUỐNG
          Thuế và quản lý nhà nước về thuế là một nội dung phức tạp, có nội dung rộng bao gồm các lĩnh vực như: thuế thu nhập cá nhân, thuế kinh doanh, thuế giá trị gia tăng,... áp dụng cho các tổ chức và cá nhân tiến hành hoạt động sản xuất, kinh doanh và dịch vụ. Tuy nhiên, thực tiễn nảy sinh nhiều vấn đề, nhiều bất cập trong hoạt động quản lý như: quy trình kê khai đánh giá đến thanh tra, kiểm tra thuế... ở mỗi địa bàn trong phạm vi cả nước. Với phạm vi của một tiểu luận, tôi nêu lên một tình huống cụ thể xảy trên địa bàn thành phố H về trường hợp Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H lợi dụng các quy định của pháp luật hiện hành và năng lực thẩm tra của cán bộ thuế để trốn lậu thuế và truy thu hoàn thuế giá trị gia tăng bất hợp pháp. Có thể thấy, diễn biến tình huống như sau:
          Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoang H,-là công ty kinh doanh máy tính nguyên chiếc có nhập khẩu linh kiện từ một số nước như Trung Quốc, Nhật, Hàn Quốc,... để lắp giáp thành phẩm máy vi tính sách tay, máy bàn và các thiết bị phụ kiện khác. Năm 2009, doanh nghiệp đã tiến hành nhập khẩu con chíp điện tử, ram từ Trung Quốc với trị giá hàng hơn 1tỷ đồng Việt Nam và nhập loa, màn hình, USB,.... từ Nhật Bản trị giá 18 tỷ đồng Việt Nam,... và tiến hành bán lẻ các linh kiện, phụ kiện này cho mọi khác hàng trên địa bàn thành phố H. Sau mỗi lần bán linh kiện, phụ kiện cho khách hàng, kế toán của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H không viết hoá đơn bán linh kiện, phụ kiện cho khách hàng đến mua. Sau mỗi ngày, kế toán công ty trách nhiệm Hoàng H vẫn tiến hành lập hoá đơn xuất bán không phải dưới dạng linh kiện mà dưới dạng thành phẩm máy tính trọn bộ nhằm hợp thức hoá các linh kiện và số dư hàng linh kiện, phụ kiện còn tồn trong kho của Công ty.
          Tháng 03 năm 2009, Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H làm đơn xin hoàn thuế giá trị gia tăng lần 1 và được Cục thuế Thành phố H, cho hoàn thuế giá trị gia tăng là 1.235.672.000 đồng. Sau đó, Công ty này tiếp tục làm đơn xin hoàn thuế vào tháng 6 và tháng 9 năm 2010. Mỗi lần Công ty đều thu về hàng tỷ đồng tiền hoàn thuế giá trị gia tăng. Đến ngày 6/12/2010 cán bộ chi cục thuế Nguyễn Thị T Thành phố H, trong một lần tình cơ có đi mua một con chíp điện tử, con chuột và 1 bàn phím máy tính tại cơ sở kinh doanh của Công ty hữu hạn trách nhiệm Hoàng H tại 43 phố TH quận Đ Đ thành phố H, khi lấy các phụ kiện đã mua, kế toán cũng không ghi hoá đơn theo mẫu quy định mà chỉ ghi loại mẫu hoá đơn thông thường dùng để tính tiền và lưu tại Công ty. Phát hiện ra dấu hiệu vi phạm này, cán bộ Nguyễn Thị T có yêu cầu kế toán ghi đúng hoá đơn theo mẫu do Bộ Tài chính áp dụng thì kế toán của Công ty Trần Bảo V nói rằng: “chị mua về gia đình để sử dụng nên cần gì phải hoá đơn,...”. Sự việc này, đã được cán bộ Nguyễn Thị T báo cáo Chi cục trưởng Chi cục thuế Thành phố H về tình trạng Công ty này chuyên bán linh kiện, phụ kiện cho khách hàng mà không sử dụng hoá đơn. Mặt khác, trong 3 lần xin hoàn thuế trước không hề có một hoá đơn nào kê khai về bán linh kiện hay phụ kiện mà toàn bộ đã thành phẩm hoàn chỉnh. Ngày 14/12/2009, Chi cục trưởng Chi cục thuế thành phố H cho tiến hành thanh tra kiểm tra toàn bộ số hoá đơn của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H nhưng không phát hiện được những sai phạm vi toàn bộ số hoá đơn này đều hợp lệ và đúng với quy định của pháp luật,...
          Để ngăn chặn hành vi “chốn thuế và xin hoàn thuế” làm thất thoát nguồn ngân sách nhà nước trong trường hợp của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H, cần phải cho thanh tra kiểm tra việc ghi chép hoá đơn hàng ngày tại cơ sở kinh doanh. Đồng thời, tăng cường kiểm soát, quản lý quy trình xem xét hoàn thuế của các doanh nghiệp trên địa bàn nói chung và của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H nói riêng nhằm phát hiện ra sai phạm để xử lý vi phạm hành chính và truy thu lại thuế và hoàn thuế do những vi phạm mà doanh nghiệp đã gây ra.
          Song, vấn đề đặt ra đòi hỏi cơ quan quản lý nhà nước, nhất là cơ quan có chức năng kiểm định, thanh tra, kiểm tra về thuế cần phải làm gì ? có biện pháp cụ thể nào ? để có thể phát hiện được vi phạm của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H ? là vấn đề đặt ra đối với Chi cục thuế Thành phố H. Mặt khác, cần phải làm gì để khắc phục những kẽ hở trong quy định của pháp luật ? những yếu kém của quy trình thanh tra, kiểm tra ? ... làm cơ sở để hoàn thiện các quy định này nhằm đáp ứng việc thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Nhà nước đối với các doanh nghiệp trên địa bàn.
          Khi cán bộ Nguyễn Thị T phát hiện những sai phạm của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H, đã có những động thái tích cực như, yêu cầu kế toán ghi hoá đơn, báo cáo Chi cục trưởng, Chi cục trưởng đã tổ chức tiến hành thanh tra kiểm tra lại nhưng không phát hiện được sai phạm cụ thể của Công ty trách nhiệm hữu hạn Hoàng H. Tuy không phát hiện được, nhưng bước đầu đã có cơ sở để Chi cục thuế tiến hành các biện pháp cần thiết nhằm phát hiện những biểu hiện gian lận trong trốn thuế và hoàn thuế của Công ty Hoàng H.
          II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
          Thuế GTGT nói chung và công tác thu thế nói riêng, có thể được tiếp cận nghiên cứu dươí nhiều góc độ khác nhau như: luật học, chính sách, quản lý nhà nước, kinh tế tài chính,... Mỗi góc độ sẽ chỉ ra những ưu điểm, khuyết điểm cũng như nguyên nhân của nó từ đó góp phần khắc phục những tồn tại bằng những giải pháp hữu hiệu nhất. Để nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế, nhất và việc quản lý và xử lý những vi phạm trong quá trình tổ chức thực hiện các chính sách của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thuế tại địa phương đòi hỏi tình huống trên phải được đánh giá, phân tích, làm sáng tỏ dưới góc độ của khoa học quản lý nhà nước.
          2.1. Cơ sở phân tích tình huống
Theo quy định của Luật thuế giá trị gia tăng[1] thì Thuế GTGT là một sắc thuế đánh trên phần giá trị tăng thêm của hàng hoá dịch vụ. Theo phương pháp khấu trừ, thuế GTGT phải nộp của khâu sau được khấu trừ phần thuế đã nộp ở khâu trước. Do vậy, khấu trừ là một đặc trưng cơ bản của thuế GTGT. Nói một cách khác, bỏ khấu trừ thì thuế GTGT mất đi thuộc tính vốn có của nó, lúc bấy giờ thuế GTGT không còn có ý nghĩa tồn tại.
Theo Luật thuế GTGT, đối với hàng hoá xuất khẩu chịu thuế suất là 0% và được khấu trừ toàn bộ thuế giá trị gia tăng đầu vào. Đây là một chủ trương nhằm khuyến khích xuất khẩu, bảo hộ sản xuất trong nước. Để được hoàn thuế, doanh nghiệp phải có đầy đủ các hoá đơn hợp pháp. Tuy nhiên, do điều kiện đặc thù của nền kinh tế nước ta, những trường hợp mua hàng là nông, lâm, thuỷ sản chưa qua chế biến của người sản xuất không có hoá đơn được khấu trừ theo tỷ lệ tính trên giá trị theo bảng kê. Ngoài ra, ta cũng ban hành cơ chế hoàn trước - kiểm sau, nhằm tạo điều kiện thông thoáng cho các doanh nghiệp. Căn cứ chủ yếu để được hoàn thế là hoá đơn hợp pháp và thông qua những tình tiết mà tình huống nên lên có thể thấy những hình thức gian lận và trốn thuế của Công ty TNHH Hoàng H như sau:
Thứ nhất, kế toán Công ty TNHH Hoàng H khi bán các linh kiện, phụ kiện của máy vi tính không sử dụng hoá đơn do Bộ Tài chính phát hành, thực chất chỉ là hoá đơn thông thường hay còn gọi là hoá đơn giả. Điều này phản ánh cả một quá trình bán các sản phẩm linh kiện, phụ kiện hay thành phẩm của Công ty TNHH Hoàng H không viết hoá đơn theo quy định. Mục đích của hành vi này là nhằm để hợp thức hoá số linh kiện, phụ kiện do Công ty nhập khẩu từ các nước thành các sản phẩm do Công ty lắp giáp và bán cho khác hàng. Điều này có thể làm phát sinh hành vi lợi dụng hoá đơn thật để ghi các nội dung, chi tiết không đúng.
Thứ hai, việc làm của kế toán Công ty TNHH Hoàng H có thể làm nảy sinh hành vi mua, bán hoá đơn giữa các doanh nghiệp. Vì việc kê khai bán hàng thành phẩm có thể thừa hoá đơn hoặc thiếu hoá đơn. Mặt khác, có thể bán hoá đơn cho khách hàng với nội dung theo yêu cầu của khách hàng để lấy phần % chênh lệch. Hành vi này tuy chưa có căn cứ trong tình huống nhưng vẫn là thực trạng chung mà đa số các doanh nghiệp liên kết, cấu kết với nhau để đạt được mục đích của mình.
Thứ ba, tình huống trên chỉ ra quy trình thanh tra kiểm tra chỉ mang tính chất hậu kiểm, nên khó có thể phát hiện những “dấu vết” do ghi không đúng với nội dung của hoá đơn như trường hợp của kế toán Công ty TTNHH Hoàng H.
2.2.Mục tiêu chung
Những hành vi gian lận của Công ty TNHH Hoàng H nêu trên đòi hỏi phải được lý giải một cách thoả đáng như: Tại sao Công ty TNHH Hoàng H lại có thể dễ dàng thực hiện hành vi vi phạm của mình ? Thông qua đó làm sáng tỏ những hạn chế của thể chế, chính sách, điều kiện kinh tế-xã hội,... ở nước ta hiện nay.
2.3. Nguyên nhân dẫn đến hậu quả của tình huống trên
          Từ những phân tích trên, có thể thấy những sai phạm trên xuất phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan. Nhìn chung, có các nguyên nhân cơ bản như:
          Thứ nhất, những nguyên nhân khách quan:
          Một là, điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mở ra là cơ hội để các doanh nghiệp Việt Nam phát triển trong điều kiện kinh doanh lành mạnh và hợp pháp. Tuy nhiên, mặt trái của cơ chế thị trường và những hạn chế về kinh nghiệm của một quốc gia mới hơn 23 năm chuyển đổi nền kinh tế đã tạo ra những hạn chế trong việc quản lý nhằm đảm đảm sự phát triển lành mạnh, ổn định và vững chắc của các thành phần kinh tế. Những hành vi tiêu cực trong kinh doanh, gian lận thương mại, buôn lậu,... là một thực tế khách quan mà chúng ta phải chấp nhận. Do đó, những biểu hiện tiêu cực trong lĩnh vực tính thuế và hoàn thuế GTGT vẫn có cơ sở để nảy sinh.
          Hai là, những hạn chế của quy định về hoàn thuế GTGT dẫn đến sự lạm dụng trong khấu trừ, hoàn thuế GTGT. Bởi lẽ, việc tính thuế được tiến hành theo phương pháp khấu trừ: “ Thuế GTGT phải nộp = Thuế GTGT đầu ra - Thuế GTGT đầu vào”. Kết quả khấu trừ này có thể dương hay âm. Kết quả khấu trừ âm chính là cơ sở để tính toán hoàn thuế - tức trả lại tiền từ quỹ hoàn thuế, cũng có nghĩa là từ NSNN, cho các DN. Để được tính khấu trừ hay hoàn thuế, cả số thuế GTGT đầu ra, đầu vào đều phải được căn cứ trên chứng từ, hoá đơn. Do vậy hiện nay, chứng từ, hoá đơn mà kế toán Công TNHH Hoàng H sử dụng chính là công cụ trực tiếp để thực hiện hành vi gian lận trốn thuế và thu lợi bất hợp pháp từ việc hoàn thuế-tức kê khai giá mua vào cao hơn giá bán ra và được phù phép bằng con đường xuất khẩu khống. Với thuế suất TTTĐB 70%, chi phí lắp ráp là 12.000.000 đồng/bộ, giá bán nội địa 18.000.000 đồng/bộ. Với cách khai khống bằng con đường xuất khẩu, thì không những Công ty H được hoàn thuế mà không phải nộp cả phần thuế chi chi phí lắp ráp. Mặt khác, khái niệm thuế GTGT đầu vào, thuế GTGT đầu ra và đặc biệt là thuế GTGT đầu ra bằng 0 đồng còn quá mới mẻ đối với người kinh doanh. Những điểm nói trên không chỉ mới đối với người nộp mà đối với cả cơ quan thu thuế.
          Ba là, thiếu công nghệ cần thiết phục vụ cho quá trình kiểm soát nghiêm ngặt các lô hàng được hoàn thuế nên dẫn đến tình trạng đa số hoá đơn, chứng từ nằm ngoài tầm kiểm soát của cơ quan quản lý nhà nước. Mặt khác, quy trình sử dụng phương pháp truy xuất, đối chiếu chứng từ, hoá đơn hiện nay vẫn còn mang tính thủ công. Do vậy, những hạn chế mà tình huống nêu được kế toán Công ty TNHH Hoàng H sử dụng khá triệt để. Không gian của hoạt động kinh doanh thường rộng lớn.
          Thứ hai, những nguyên nhân chủ quan
          Một là, số lượng biên chế đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay ở Chi cục thuế Thành phố H vẫn còn quá ít, trong khi đó số lượng doanh nghiệp đã và đang hoạt động rất lớn. Mặt khác, nhiều doanh nghiệp mới xin phép hoạt động nên việc kiểm soát một khối lượng hoá đơn rất lớn đã không thể đáp ứng được một cách chi tiết và cụ thể. Từ sự quá tải này nên trong thực tế ở địa phương, ngay đối với các trường hợp đã được hoàn thuế, tỷ lệ kiểm tra sau hoàn thuế hàng năm vẫn chưa đạt đến 30% số doanh nghiệp đã được. Đại bộ phận cơ sở kinh doanh quy mô dưới doanh nghiệp tư nhân không quan tâm đến chế độ kế toán quốc dân mà phản ánh hoạt động kinh doanh theo logic thô sơ. Nguy hiểm hơn là họ cho rằng sổ sách kế toán là công cụ của cơ quan Nhà nước kiểm tra, kiểm soát họ mà không nghĩ rằng sổ sách, tài khoản, chứng từ,... là những phương tiện căn bản giúp họ tiếp cận hoạt động kinh doanh một cách hệ thống để đánh giá, đo lường và phân tích kết quả kinh doanh cũng như dự báo tương lai. Thêm nữa, nền kinh tế Việt Nam vẫn là nền kinh tế tiền mặt. Mọi thanh toán và giao dịch đều có thể dùng tiền mặt: tiền Việt, vàng và ngoại tệ (chủ yếu là đô la Mỹ). Điều này được các doanh nghiệp khai thác lập bộ hồ sơ thanh toán khống; đồng thời cơ quan thuế cũng khó phát hiện để ngăn chặn kịp thời.
Hai là, năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ, công chức thực hiện việc kiểm tra quyết toán thuế còn nhiều yếu kém và hạn chế. Có thể thấy năng lực kiểm tra của cán bộ Chi cục thuế thành phố H thông qua tình huống trên như: 3 lần liên tiếp Công ty TNHH Hoàng H xin hoàn thuế mà không phát hiện ra, chỉ khi cán bộ thuế Nguyễn Thị T tình cơ mua linh kiện, phụ kiện tại Công ty này mới phát hiện ra những sai phạm của Công ty. Mặt khác, tình trạng về những biểu hiện tiêu cực của một số nhân viên thuế thực hiện khi thực hiện kiểm tra quyết toán thuế nên khả năng tiêu cực ở đây rất lớn. Không hiếm trường hợp chính cán bộ thuế gợi ý và tiếp tay cho một số cá nhân ăn cắp tiền thuế. Chủ trương xuất khẩu tiểu ngạch qua biên giới bị lợi dụng với sự tiếp sức của một vài cán bộ thuế biến chất. Để thu một tỷ đồng thuế, nhiều cán bộ thuế phải nỗ lực phấn đấu trong thời gian có khi cả năm. Thế nhưng chỉ cần hai ba cán bộ thuế thoái hoá cũng đủ gây thất thoát nhiều lần hơn trong thời gian ngắn. Điều này khiến cho hình ảnh về cơ quan thuế dưới con mắt doanh nghiệp và dân chúng bị hoen ố.
Ba là, những yếu kém về mặt nhận thức của một bộ phận khá lớn công chúng và thói quen mua hàng lấy hoá đơn chưa hình thành, có nhiều trường hợp được quy tội gian lận thuế không do chủ ý của cá nhân kinh doanh mà do hiểu không đúng các quy định của thuế. Về phía người tiêu dùng, bản thân họ tiếp tay một cách vô ý cho doanh nghiệp gian dối khi mua hàng không lấy hoá đơn. Hơn nữa họ cũng không có động cơ giữ hoá đơn. Vì vậy, nếu được người bán đề nghị không lấy hoá đơn để khỏi mất thêm 10% tiền thì họ đồng ý ngay.
Từ những đánh giá trên, đòi hỏi phải lựa chọn và xây dựng cách khắc phục các nhược điểm nhằm hạn chế đến mức thấp nhấp những vi phạm trong lĩnh vực thuế nói chung, trong kê khai hoàn thuế nói riêng.
III. XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Tình huống trên cho phép mỗi cấp, ngành, cơ quan xây dựng cho mình phương án giải quyết khác nhau. Song, nhìn chung tiểu luận nêu lên một số phương án giải quyết cơ bản như:
3.1.Phương án 1: Tiến hành tuy tố, điều tra và kiên quyết trừng trị nghiêm minh những hành vi vi phạm của Công ty TTHH Hoàng H
*Mục tiêu của phương án: Có tác dụng răn đe, trừng trị và giáo dục những hành vi vi phạm nói chung và của Công ty H nói riêng.
*Nội dung chính của phương án:
-Có văn bản yêu cầu cơ quan điều tra tội phạm về kinh tế thành phố H vào cuộc để tiến hành điều tra về những vi phạm của Công ty H.
-Tiến hành xử lý hình sự đối với hành vi vi phạm này.
*Nguồn lực để thực hiện phương án.
-Chi phí cho việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử là nguồn kinh phí nằm trong quá trình thực hiện nhiệm vụ “tố tụng hình sự” của Nhà nước nên không tốn kém.
-Sử dụng công cụ pháp luật hình sự và biện pháp hình sự là cơ sở để đảm bảo phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh.
-Cơ quan tiến hành hoạt động tố tụng được xác định theo quy định của Luật tố tụng hình sự năm 2004, bao gồm: cơ quan điều tra, cơ quan viện kiểm sát, cơ quan toà án và cơ quan thi hành án.
3.2. Phương án 2: Hoàn thiện các quy định của Luật thuế giá trị gia tăng hiện nay
*Mục tiêu của phương án: Nhằm xây dựng một khung khổ pháp lý đủ mạnh, thống nhất và phù hợp tránh việc lợi dụng các kẽ hở, mâu thuẫn của Luật để trục lợi gây thất thoát ngân sách nhà nước.
*Nội dung chính của phương án:
-Tiến hành rà soát, đánh giá và phân tích các quy định hiện hành nhằm phát hiện những mâu thuẫn, chồng chéo và thiếu hợp lý.
-Tiến hành làm văn bản trình cấp có thẩm quyền theo quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 và Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân năm 2004.
*Nguồn lực chính để thực hiện phương án:
-Chi phí cho rà soát, hệ thống hoá văn bản quy phạm pháp luật về thuế giá trị gia tăng ở nước ta hiện nay rất tốn kém vì phải thuê các chuyên gia có kinh nghiệm.
-Sử dụng phương pháp nghiên cứu Luật, nghiên cứu hành chính để làm sáng tỏ các nội dung đặt ra.
-Cơ quan chủ trì là Uỷ ban nhân dân thành phố H, và những chuyên gia được hợp đồng để thực hiện nội dung.
-Thời gian thực hiện phương án ít nhất phải mất 3 tháng.
3.3. Phương án 3: Tiến hành thanh tra kiểm tra theo quy trình hành chính để xử lý vi phạm của Công ty TNHH Hoàng H
*Mục tiêu của phương án: Nhằm làm sáng tỏ hành vi vi phạm trong lĩnh vực thuế để kợp thời truy thu thuế cho Nhà nước.
* Nội dung chính của phương án:
-Tiến hành thanh tra kiểm tra Công ty TNHH Hoàng H theo đúng quy định tại Quyết định số 1166/2005/QĐ-TCTC ngày 31/10/2005 của Tổng cục trưởng Tổng Cục thuế về việc ban hành quy trình thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp để xác định những hành vi vi phạm cụ thể về hoá đơn, chứng từ, sổ sách của Công ty H.
-Tiến hành xử lý vi phạm hành chính theo quy định của các văn bản, như: Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính[2] và những văn bản hướng dẫn xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế như: Nghị định của Chính phủ số 185/2004/NĐ-CP ngày 04/11/2004 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán; Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 07/06/2007 của Chính phủ, quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế; Thông tư của Bộ Tài chính số 41/2004/TT-BTC ngày 18/05/2004 hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 của Chính phủ quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế;...
*Nguồn lực chính để thực hiện phương án
-Chi phí cho quá trình thanh tra, kiểm tra được xác định theo quy trình thanh tra, kiểm tra đột xuất nên chi phí thường không lớn.
-Sử dụng công cụ pháp luật hành chính và biện pháp hành chính, biện pháp nghiệp vụ thanh tra, kiểm tra để làm sáng tỏ hành vi vi phạm trên.
-Cơ quan tiến hành: Thủ trưởng Chi cục thuế; cán bộ, nhân viên thu và hoàn thuế giá trị gia tăng; các cơ quan có liên quan phải tham gia và được mời tham gia.
-Thời gian để thực hiện phương án: từ 15 đến 30 ngày.
IV. LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Trên đây là 03 phương án cơ bản mà tiểu luận đưa ra, mỗi phương án đều có những ưu điểm, nhược điểm nhất định. Để lựa chọn được phương án tối ưu để giải quyết trong tình huống này, có thể xem xét qua bảng so sánh sau:
PHƯƠNG ÁN
ƯU ĐIỂM
NHƯỢC ĐIỂM
Phương án 1
-Có tác dụng không chỉ trừng trị hành vi vi phạm của Công ty H mà còn có tác dụng giáo dục, răn đe các hành vi vi phạm về thuế của các doanh nghiệp khác trên địa bàn.
-Có tính khả thi cao vì chỉ có thể sử dụng các biện pháp nghiệp vụ điều tra để làm rõ được hành vi vi phạm
-Ít tốn kém nguồn lực.
-Không có căn cứ để khởi tố vụ án hình sự nên rất khó để cơ quan điều tra có thể vào cuộc
-Thời gian tiến hành lâu vì phải trải qua nhiều cơ quan, công đoạn theo đúng trình tự thủ tục tố tụng hình sự.
Phương án 2
-Xây dựng được một hệ thống cơ sở pháp lý nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động của doanh nghiệp diễn ra công bằng, lành mạnh.
-Đảm bảo cho mục tiêu, chính sách của Đảng và Nhà nước phát huy được hiệu quả trong thực tế.
-Tốn kém nguồn kinh phí
-Thời gian thực hiện lâu
Phương án 3
-Là phương án nhằm thực hiện chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của cơ quan hành chính Nhà nước nên thái độ, ý thức và trách nhiệm rất cao.
-Có tác dụng trực tiếp trong việc xử lý hành vi vi phạm của Công ty H theo đúng quy định của pháp luật hiện hành.
-Ít tốn kém chi phí
-Phụ thuộc vào ý chí chủ quan của Thủ trưởng cơ quan thuế và cán bộ, công chức thuế tham gia.
-Cần có sự đồng thuận của nhiều chủ thể như: công an, Uỷ ban nhân dân, Chính trị xã hội và nhân dân,..
          Qua những so sánh trên, tiểu luận xác định phương án 3 là phương án tối ưu để giải quyết tình huống này. Bởi lẽ, nếu sử dụng phương án 1 còn thiếu căn cứ nên dễ có thể bị bỏ qua mà không thể xử lý được hành vi vi phạm còn nếu sử dụng phương án 3 thì thời gian, nhân lực cần nhiều nên chỉ có thể là biện pháp lâu dài mà không thể giải quyết trực tiếp tình huống cụ thể. Do vậy, phương án 3 là phương án phù hợp nhất với tình huống và các quy định hiện hành của pháp luật nước ta.
          V. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
          5.1.Giải pháp tổ chức thực hiện phương án tối ưu
          Để thực hiện được phương án 3 (phương án mà tiểu luận lựa chọn) cần phải tiền hành các bước cơ bản sau:
          -Bước 1: Chi cục Trưởng Chi cục thuế thành phố H ra Quyết định tiến hành thanh tra, kiểm tra đột xuất Công ty TNHH H. Trong quyết định này xác định thời gian, địa điểm, tổ chức, cơ quan chịu trách nhiệm tiến hành cụ thể theo quy định. Thời gian ban hành Quyết định này là 01 ngày.
          -Bước 2: Các cơ quan, tổ chức, cá nhân có nhiệm vụ, thẩm quyền tiến hành thực hiện thanh tra, kiểm tra đột xuất Công ty TNHH H thời gian tiến hành 02 ngày. Quá trình thanh tra, kiểm tra cần có biên bản xác định vi phạm dự kiến mức xử lý theo quy định hiện hành của Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính và các văn bản hướng dẫn khác.
          -Bước 3: Chi cục Trưởng Chi Cục thuế tiến hành mời đại diện hợp pháp của Công ty TNHH đến cơ quan để xem xét giải quyết. Thời gian tiến hành 01 ngày (trừ trường hợp Công ty không đến).
          -Bước 4: Chi cục Trưởng ra Quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Thời gian tiến hành 01 ngày và chuyển Quyết định đến các cơ quan có liên quan và Công ty TNHH Hoàng H.
          -Bước 5: Tổ chức thực hiện quyết định xử phạt vi phạm hành chính. Thời gian 01 ngày. Trong trường hợp phải cưỡng chế thì thời gian từ 2 đến 3 ngày để làm các thủ tục cần thiết.
          5.2.Một số kiến nghị
          Để góp phần hoàn thiện giải pháp tối ưu trong tính thống nhất biện chứng của nó nhằm phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, tiểu luận mạnh dạn nêu lên một số kiến nghị cơ bản như sau:
* Đối với Trung ương
          -Sớm kiện toàn hệ thống văn bản về thuế và các quy định liên quan đến quản lý và xử lý vi phạm về thuế. Chính phủ, cần tổng kết, đánh giá và nghiên cứu làm tờ trình Quốc hội trong kỳ họp gần nhất hoặc Uỷ ban thường vụ Quốc hội để xem xét sửa đổi, bổ sung các quy định của Luật Thuế giá trị gia tăng theo hướng thu hẹp khoảng cách các mức thuế suất; cho phép doanh nghiệp tự in và chịu trách nhiệm về hoá đơn của mình;...
          -Các bộ và cơ quan ngang bộ, trong phạm vi trách nhiệm của mình cần nghiên cứu, tổng kết và rút kinh nghiệm trong việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn các quy định về thuế và quản lý thuế ở địa phương. Chủ động phân cấp, tạo điều kiện cho UBND và cơ quan thuế ở địa phương phát huy tính sáng tạo và nghiệp vụ của mình trong quản lý hiệu quả  đối với các doanh nghiệp đóng trên địa bàn.
          * Đối với địa phương
          -Đẩy mạnh công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật về thuế cho mọi đối tượng trên địa bàn bằng nhiều kênh và hình thức khác nhau. Trong đó, cần tập trung tuyên truyền vào đối tượng doanh nghiệp và người tiêu dùng để họ có ý thức trong việc chấp hành nghiêm các quy định của pháp luật.
          -Nên Chi cục thuế thành phố H cần chỉ đạo và tổ chức thực hiện việc chuyển các hộ kinh doanh nhỏ ra khỏi diện chịu thuế GTGT để quá trình vận hành của thuế thông suốt và sử dụng duy nhất một phương pháp tính thuế là phương pháp khấu trừ.
          -UBND chỉ đạo các cơ quan ra khuyến cáo nhằm khuyến khích cá nhân đòi hoá đơn khi mua hàng. Có thể khẳng định rằng hoá đơn là khâu then chốt bảo đảm thành công khi áp dụng thuế GTGT. Do đó, cần xây dựng các hình thức và biện pháp nhằm khuyến khích người tiêu dùng lấy hoá đơn khi mua hàng.
KẾT LUẬN
Tóm lại, thuế và công tác quản lý thuế của cơ quan, người có thẩm quyền có ý nghĩa to lớn cả về mặt lý luận và thực tiễn. Một mặt, nó phần phần hoàn thiện lý luận về khoa học quản lý tài chính công, quản lý nhà nước hiệu quả,... Mặt khác, nó chính là nguồn quan trọng để bổ sung vào ngân sách nhà nước góp phần tạo nguồn lực để đáp ứng các dịch vụ công cho xã hội công dân. Do vậy, cần phải có lộ trình, giải pháp và những bước đi thích hợp để kiện toàn, hoàn thiện và xây dựng mới từ cơ chế, quy định, đến nguồn lực nhằm đảm bảo cho mọi hoạt động quản lý nhà nước về thuế ở địa phương đúng hướng, đạt được mục tiêu đã đặt ra. Đồng thời, cần chủ động phát huy hơn nữu tính năng động, sáng tạo của mỗi cán bộ, công chức góp phần lành mạnh hoá, trong sách hoá công tác quản lý thuế trong điều kiện hội nhập sâu rộng kinh tế quốc tế ở Việt Nam hiện nay.



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Tài chính, Quyết định 146 ngày 4/12/2002, về điều chỉnh thuế suất thuế nhập khẩu đối với một số mặt hàng trong đó chủ yếu là linh kiện sản xuất ôtô chưa đầy một tháng đã bị ngừng thực hiện.
2. Bộ tài Chính, Quyết định số 189/2003/QĐ-BTC ngày 14/11/2003, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục thuế trực thuộc Tổng cục Thuế.         
3. Bộ Tài chính, Thông tư số 41/2004/TT-BTC ngày 18/05/2004, hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25/02/2004 của Chính phủ quy định về việc xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế.
4. Bộ Tài chính, Quyết định số 3483/QĐ-BTC ngày 7/10/2005, về việc mở rộng thí điểm cơ chế tự kê khai, tự nộp thuế đối với các cơ sở sản xuất kinh doanh.
5. Chính phủ, Nghị định số 185/2004/NĐ-CP ngày 04/11/2004, về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực kế toán.
6. Chính phủ, Nghị định số 98/2007/NĐ-CP ngày 07/06/2007, quy định về xử lý vi phạm pháp luật về thuế và cưỡng chế thi hành quyết định hành chính thuế.
7. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 197/2003/QĐ-TTg ngày 23/9/2003, về việc thí điểm thực hiện cơ chế cơ sở sản xuất, kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế.
8. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 218/2003/QĐ-TTg ngày 28/10/2003, quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Tổng cục Thuế trực thuộc Bộ Tài chính.
9. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 201/2004/QĐ-TTg ngày 6/12/2004, về việc phê duyệt chương trình cải cách hệ thống thuế đến năm 2010.
10. Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 161/2005/QĐ-TTg ngày 30/6/2005, về việc mở rộng thí điểm cơ sở sản xuất kinh doanh tự kê khai, tự nộp thuế đối với thuế tiêu thụ đặc biệt ở khâu sản xuất trong nước; thuế tài nguyên; thuế nhà, đất; thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao và thuế môn bài.
11. Quốc hội, Luật thanh tra, được Quốc hội thông qua ngày 15/6/2004.
12. Quốc hội, Luật thuế giá trị gia tăng, được Quốc hội thông qua ngày 03/6/2008.
          13. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh xử phạt vi phạm hành chính, ngày 16/7/2002.





[1] Luật số 13/2008/QH12, Luật thuế giá trị gia tăng được Quốc hội nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XII, kỳ họp thứ 3 thông qua ngày 03 tháng 6 năm 2008.

[2] Pháp lệnh số 44/2002/PL-UBTVQH10 ngày 16/07/2002 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về xử lý vi phạm hành chính

 

1 comment:

  1. Nhận làm chuyên đề tốt nghiệp, luận văn tốt nghiệp, báo cáo thực tập tốt nghiệp, khóa luận, đề án, tiểu luận các trường khối kinh tế trung cấp, cao đẳng, đại học, cao học
    Giá luận văn, báo cáo, chuyên đề các trường TC, CĐ, ĐH ( giá từ 200K – 1 triệu) tùy mức độ khó dễ của từng trường
    Tiểu luận cao đẳng, đại học ( 200K – 500K)
    Tiểu luận cao học ( 500K – 1tr)
    Luận văn Cao học ( Từ 2 triệu – 5triệu)
    Liên hệ nick: lvkinhte
    Email: lvkinhte@gmail.com
    Điện thoại: 098.513.0242
    Zalo: 0985 130 242

    ReplyDelete