TIN LIÊN QUAN
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 07
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 07
MỤC LỤC
Trang
|
|
Lời
mở đầu
|
2
|
I.Mô
tả tình huống
|
3
|
II.
Phân tích nguyên nhân và hậu quả
|
4
|
1.
Phân tích nguyên nhân
|
4
|
2.
Hậu quả
|
8
|
III.
Xác định mục tiêu xử lý tình huống
|
11
|
IV.
Xây dựng phương án, phân tích và lựa chọn phương án giải quyết tình huống
|
11
|
V.
Lập kế hoạch tổ chức thực hiện phương án đã lựa chọn
|
15
|
VI.
Kiến nghị
|
18
|
Kết
luận
|
20
|
Tài
liệu tham khảo
|
21
|
LỜI MỞ ĐẦU
Luật Thuế Thu nhập cá
nhân có hiệu lực từ ngày 1/1/2009 quy định thu nhập từ hoạt động chuyển nhượng
bất động sản (BĐS) sẽ phải nộp thuế. Sau hơn một năm thực hiện, cách tính thuế
chuyển nhượng BĐS được các chuyên gia đánh giá là có nhiều tiến bộ so với quy
định cũ.
Tuy nhiên, với thực trạng hệ thống đăng ký đất đai ở nước ta chưa kiểm soát được, việc thu đúng, thu đủ khoản thuế này vẫn còn nhiều bất cập. Bởi, trên thực tế không ít trường hợp đã lách luật, trốn thuế. Chẳng hạn như Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất được miễn thuế; đồng thời người chuyển nhượng BĐS tự khai và chịu trách nhiệm về tính trung thực khi kê khai của mình. Trong bối cảnh hệ thống thông tin quản lý cá nhân của cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có ngành thuế còn chưa đáp ứng được yêu cầu; việc kiểm tra, đối chiếu cần nhiều thời gian, nên trong những năm đầu thực hiện thuế thu nhập cá nhân ở lĩnh vực này, ngành chức năng chưa thể kiểm soát được từng cá nhân có bao nhiêu nhà ở, đất ở. Đây là kẽ hở để những tiêu cực trong việc thu thuế thu nhập cá nhân qua hoạt động chuyển nhượng BĐS có đất tồn tại.
Tuy nhiên, với thực trạng hệ thống đăng ký đất đai ở nước ta chưa kiểm soát được, việc thu đúng, thu đủ khoản thuế này vẫn còn nhiều bất cập. Bởi, trên thực tế không ít trường hợp đã lách luật, trốn thuế. Chẳng hạn như Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định thu nhập từ chuyển nhượng nhà ở, quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với đất ở trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất được miễn thuế; đồng thời người chuyển nhượng BĐS tự khai và chịu trách nhiệm về tính trung thực khi kê khai của mình. Trong bối cảnh hệ thống thông tin quản lý cá nhân của cơ quan quản lý nhà nước, trong đó có ngành thuế còn chưa đáp ứng được yêu cầu; việc kiểm tra, đối chiếu cần nhiều thời gian, nên trong những năm đầu thực hiện thuế thu nhập cá nhân ở lĩnh vực này, ngành chức năng chưa thể kiểm soát được từng cá nhân có bao nhiêu nhà ở, đất ở. Đây là kẽ hở để những tiêu cực trong việc thu thuế thu nhập cá nhân qua hoạt động chuyển nhượng BĐS có đất tồn tại.
Bên cạnh đó, hệ thống
văn bản pháp luật về thuế thu nhập cá nhân quy định, giá chuyển nhượng quyền sử
dụng đất là giá thực tế ghi trên hợp đồng tại thời điểm chuyển nhượng, nhưng
không thấp hơn giá đất do UBND tỉnh, thành phố trực thuộc TƯ quy định. Song,
thực tế trên thị trường BĐS, giá đất mua - bán thường cao hơn. Nhưng, vì lợi
ích của cả người mua và người bán, nên họ thường thỏa thuận ghi giá trên hợp
đồng chuyển nhượng thấp hơn giá trị. Để được cơ quan nhà nước chấp nhận hồ sơ,
họ chỉ ghi trên hợp đồng mức giá ngang hoặc cao hơn tý chút so với giá UBND
tỉnh, thành phố quy định. Như vậy số tiền thuế phải nộp thấp hơn số thực tế và
cả 2 bên mua - bán đất cùng có lợi, chỉ Nhà nước chịu thiệt. Lợi dụng quy định
tại khoản 1, điều 4, Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định, nhiều trường hợp đã
sử dụng mối quan hệ bắc cầu để trốn thuế (chẳng hạn, hai chị em dâu chuyển
nhượng BĐS cho nhau là đối tượng phải nộp thuế. Nhưng, để lách luật người chị
dâu làm thủ tục chuyển nhượng cho bố chồng, sau đó bố chồng lại chuyển nhượng
tiếp cho người em dâu)...
Trên
cơ sở đó, với những kiến thức được trang bị tại khoá đào tạo cùng với những trải
nghiệm của bản thân trên cương vị một cán bộ, công chức thực hiện quản lý nhà nước
về thuế, tiểu luận xác định: “Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý
nhà nước về thuế thu nhập cá nhân trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở địa
phương hiện nay” làm nội dung cơ bản để viết bài tiểu luận cuối khoá
I.Mô tả tình huống
Ngày
20 tháng 5 năm 2010, ông Võ Văn K (35 tuổi) trú tại xã KS, thị xã ST, thành phố
HN chuyển nhượng 96,5 m2 đất
ở và 500 m2 đất vườn cho ông
Đào Duy H trú tại quận BĐ, thành phố HN. Diện tích đất này có nguồn gốc từ tài
sản thừa kế do bố mẹ để lại cho ông K. Sau khi thoả thuận giá thực tế chuyển
nhượng được xác định là 1.780.000.000 đồng.
Được biết mức giá này cao hơn rất nhiều khung giá đất do Uỷ ban nhân dân
thành phố HN ban hành. Theo ông K : “Giá đất cao như vậy này là do diện tích
đất này nằm trong khu dự án quy hoạch khu nghỉ mát, an dưỡng và một số công
trình vui chơi giải trí khác. Cũng diện tích đất như thế này của một hộ gia
đình khác tháng trước chuyển nhượng với giá 1.100.000 đồng. Nếu không mua ngay
thì giá chuyển nhượng sẽ còn tiếp tục lên nữa..”. Sau khi ông H đặt cọc cho ông
K khoản tiền là 50.000.000 đồng thì hai bên hẹn nhau sẽ ký hợp đồng chuyển
nhượng vào ngày 30/5/2010.
Tiếp
đó, vào ngày 21/5/2010, ông K tiến hành chuyển nhượng diện tích đất ở có nhà
trên đất của gia đình ông cho con gái. Các hành vi trên của ông K đã đặt ông ra
ngoài đối tượng phải chịu thuế thu nhập cá nhân từ các hoạt động chuyển nhượng các
bất động sản trên. Ngày 30/5/2010 khi hai bên (ông K và ông H) ký kết hợp đồng
chuyển nhượng thì ông K yêu cầu chỉ ghi trên hợp đồng giá chuyển nhượng là
85.000.000 đồng, trong đó bao gồm giá chuyển nhượng diện tích của hai loại đất
là đất ở (65.000.000 đồng) và đất vườn (20.000.000 đồng). Sau đó các bên đến
Phòng Công chứng của thị xã ST để làm các thủ tục chuyển nhượng.
II.
Phân tích nguyên nhân và hậu quả
1.
Phân tích nguyên nhân
Việc
các cá nhân chuyển nhượng bất động sản cố tìm mọi cách để trốn thuế thu nhập cá
nhân như trường hợp của ông K đang diễn ra hết sức phổ biến trên thực tế mà
nguyên nhân bao gồm cả nguyên nhân khách quan và chủ quan. Cụ thể như sau:
a) Nguyên nhân khách quan
Nguyên
nhân khách quan dẫn đến cách hành xử trên là bắt nguồn từ các yếu tố sau:
Thứ nhất, sự thiếu chặt chẽ trong
các quy định về đối tượng phải nộp thuế thu nhập cá nhân trong chuyển nhượng
bất động sản.
Theo
quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 4 Luật Thuế thu nhập cá nhân năm 2007 và
khoản 1, khoản 2 Điều 4 Nghị định của Chính phủ số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/92008
quy định chi tiết một số điều của Luật thuế thu nhập cá nhân thì thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản giữa
cha đẻ, mẹ đẻ với con đẻ ; thu nhập từ chuyển nhượng quyền sử dụng đất ở và tài sản gắn liền với
đất ở của cá nhân trong trường hợp cá nhân chỉ có một nhà ở, đất ở duy nhất sẽ
được miễn thuế. Do đó, ông K tìm cách tạo ra các điều kiện để không phải chịu
thuế thu nhập khi chuyển nhượng phần diện tích đất ở 96,5 m2, còn về
diện tích đất vườn nếu có chịu thuế thì mức thuế phải nộp cũng không nhiều vì
theo khoản 2 Điều 22 Nghị định của Chính phủ số 100/2008/NĐ-CP thì ông K được
áp dụng thuế suất 2% trên giá chuyển nhượng. Lợi dụng
quy định này, nhiều trường hợp đã sử dụng mối quan hệ bắc cầu để trốn thuế
(chẳng hạn, hai chị em dâu chuyển nhượng BĐS cho nhau là đối tượng phải nộp
thuế. Nhưng, để lách luật người chị dâu làm thủ tục chuyển nhượng cho bố chồng,
sau đó bố chồng lại chuyển nhượng tiếp cho người em dâu)...Trường hợp của ông K
cũng vậy, để không phải nộp thuế đối với diện tích đất ở chuyển nhượng cho ông
H, ông K đã tìm cách chuyển nhượng đất ở mà mình đang sử dụng cho con gái để
được hưởng quy định miễn thuế khi chuyển nhượng đất ở mà người chuyển nhượng
chỉ có một quyền sử dụng đất ở tại Việt Nam.
Hệ thống văn bản pháp luật về thuế thu nhập cá nhân quy định, giá
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là giá thực tế ghi trên hợp đồng tại thời điểm
chuyển nhượng, nhưng không thấp hơn giá đất do Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương quy định. Song, thực tế trên thị trường bất động sản, giá
đất mua - bán thường cao hơn. Nhưng, vì lợi ích của cả người mua và người bán,
nên họ thường thỏa thuận ghi giá trên hợp đồng chuyển nhượng thấp hơn giá trị.
Để được cơ quan nhà nước chấp nhận hồ sơ, họ chỉ ghi trên hợp đồng mức giá
ngang hoặc cao hơn tý chút so với giá Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố quy định.
Như vậy, số tiền thuế phải nộp thấp hơn số thực tế và cả 2 bên mua - bán đất
cùng có lợi, chỉ Nhà nước chịu thiệt.
Điều
đó cho thấy, việc pháp luật cho phép người chuyển nhượng bất động sản tự khai và chịu trách nhiệm về tính trung thực khi kê khai của
mình, kết hợp với các quy định liên quan đến đối tượng không phải nộp thuế thu
nhập cá nhân khi chuyển nhượng bất động sản đã tạo nên kẽ hở để cho các cá nhân
chuyển nhượng bất động sản lợi dụng trốn thuế. Mặt khác, trách nhiệm về tính
trung thực khi kê khai của người phải nộp thuế chỉ được quy định một cách chung
chung, không có cơ chế để kiểm tra, giám sát để xử lý khi khai không đúng sự
thật. Ngoài ra, Nhà nước ta cũng chưa xây dựng được quy định chuẩn cho vấn đề
định giá bất động sản.
Thứ hai, những hạn chế
về năng lực quản lý thông tin cá nhân của các cơ quan quản lý nhà nước, trong
đó có ngành thuế.
Trong bối cảnh hệ thống thông tin quản lý cá nhân của các cơ quan
quản lý nhà nước, trong đó có ngành thuế còn chưa đáp ứng được yêu cầu; nhất là
các thông tin có liên quan đến quỹ đất và quyền sử dụng đất trên thực tế của
các cá nhân, tổ chức tại từng địa phương trên phạm vi cả nước thì việc kiểm
tra, đối chiếu thường cần nhiều thời gian, hoặc thậm chí không có thông tin để
kiểm tra. Vì vậy, các ngành chức năng chưa thể kiểm soát được từng cá nhân có
bao nhiêu nhà ở, đất ở và các loại đất khác, nên không ít người có nhiều nhà ở, đất ở khi chuyển nhượng sẵn sàng kê
khai là tài sản duy nhất để không phải nộp thuế. Đây là kẽ hở để những tiêu cực
trong việc thu thuế thu nhập cá nhân qua hoạt động chuyển nhượng bất động sản
có đất tồn tại.
Thứ ba, vai trò của các
cơ quan, doanh nghiệp hoạt động thẩm định giá trên thị trường bất động sản còn
rất mờ nhạt và chưa phát huy được tác dụng trong đấu tranh với các hành vi trốn
thuế chuyển nhượng bất động sản.
Hoạt động thẩm định giá đang dần là một nhu cầu không thể thiếu
trong các giao dịch trên thị trường bất động sản. Bởi lẽ, hiện nay chúng ta
đang hướng đến việc giao đất, bồi thường giá đất cho những người bị thu hồi đất
theo giá thị trường hay việc cổ phần hóa doanh nghiệp thì giá trị đất cũng phải
định theo giá thị trường... Nhưng làm thế nào để định ra giá thị trường thì lại
chưa có cơ sở pháp lý đầy đủ. Thế nào là giá thị trường? Làm sao để xác định
được đúng là giá thị trường? Nhà nước cần giải đáp được các câu hỏi này thì mới
khẳng định được vai trò của thẩm định giá trên thị trường bất động sản.
Thẩm định để xác định đúng giá trị quyền sử dụng đất trong các hợp
đồng chuyển nhượng là một trong những cơ sở để tính thuế nhằm đấu tranh với
hành vi trốn thuế chưa phát huy được tác dụng trên thực tế. Nói cách khác, vai
trò của thẩm định giá trên thị trường bất động sản vẫn rất mờ nhạt. Lý do là
Nhà nước vẫn chưa có một khung pháp lý hoàn chỉnh cho lĩnh vực này. Mặc dù Luật
Kinh doanh bất động sản có đề cập đến hoạt động định giá bất động sản, thế
nhưng ngay việc triển khai thực hiện thì thẩm định giá vẫn chỉ nằm trong nhóm
một loạt các dịch vụ hỗ trợ mà thôi. Còn giá các cơ quan thẩm định đưa ra để
làm gì, nó có giá trị pháp lý như thế nào thì chưa rõ. Hiện nay, tất cả chỉ số
giá mà họ thẩm định, đưa ra chỉ có giá trị tham khảo. Giá cuối cùng vẫn do các
tổ chức, cá nhân giao dịch định với nhau.
b) Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, lợi ích kinh tế thu được
từ hành vi trốn thuế của người chuyển nhượng.
Người
chuyển nhượng quyền sử dụng đất là người tìm đến các lợi ích kinh tế từ việc
chuyển nhượng, đây chính là mục tiêu tối cao của họ. Vì vậy, họ không chỉ mong
muốn chuyển nhượng được giá trị quyền sử dụng đất với giá càng cao càng tốt mà
còn mong muốn trốn được thuế của Nhà nước nếu có thể.
Luật Thuế thu nhập cá nhân đã đặt ra 2 lựa chọn với người nộp thuế
chuyển nhượng bất động sản. Cụ thể, họ có thể chọn cách nộp 25% tiền lãi thu
được từ hoạt động chuyển nhượng (chênh lệch giá giữa mua và bán) hoặc nộp
2%/tổng giá trị chuyển nhượng bất động sản ghi trên hợp đồng. Trong hai phương
án này, người nộp thuế luôn chọn cách nộp thuế có lợi nhất cho mình.
Thứ hai ý thức chấp hành pháp luật
về thuế của các bên trong quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng đất chưa cao.
Không
chỉ có người chuyển nhượng mà người nhận chuyển nhượng khi việc kê khai không
đúng giá chuyển nhượng không ảnh hưởng gì đến lợi ích của họ thì họ cũng mặc
nhiên coi đó là điều cần thiết để cho quan hệ giữa hai bên được thực hiện suôn
sẻ, người chuyển nhượng sẽ vì thế mà tiến hành nhanh chóng các thủ tục chuyển
nhượng hoặc trong trường hợp kinh doanh bất động sản thì họ còn thông qua người
chuyển nhượng để trực tiếp chuyển nhượng quyền sử dụng đất cho người thứ ba mà
không phải đóng thuế. Tóm lại, cả hai bên đều chỉ nghĩ đến lợi ích của mình mà
không hề quan tâm đến mục đích của các chính sách thuế của Nhà nước đều nhằm
xây dựng Nhà nước và kiến thiết xã hội ngày càng giàu mạnh hơn.
Thứ ba, những vướng mắc từ phía cơ
quan thuế.
Luật Thuế thu nhập cá nhân quy định, người có từ hai bất động sản trở
lên khi bán sẽ phải nộp thuế thu nhập cá nhân. Điều này đồng nghĩa với việc khi
một người bán bất động sản duy nhất sẽ được miễn thuế. Như vậy, luật đã quy
định cụ thể đối tượng chịu thuế và miễn thuế khi chuyển nhượng bất động sản.
Song, nhiều cục thuế địa phương phản ánh, việc thu khoản thuế này đang vướng
mắc. Nguyên nhân là do ngành thuế còn lúng túng trong việc xác định đâu là bất
động sản duy nhất của người chuyển nhượng. Việc xác định cá nhân nào đó bán bất
động sản có phải là bất động sản duy nhất hay không lại không thuộc thẩm quyền
của cơ quan thuế. Trong khi đây là điều kiện quan trọng để xác định một hợp
đồng chuyển nhượng bất động sản nào đó có phải nộp thuế thu nhập cá nhân hay
không?
Thực tế cũng cho thấy, nhiều hợp đồng mua, bán nhà đất hiện vẫn
tồn tại theo hình thức viết tay giữa các cá nhân, nên không đủ căn cứ pháp lý
để tính thuế. Bởi theo quy định, việc xác định căn cứ tính thuế thu nhập từ
chuyển nhượng bất động sản chỉ xảy ra khi hoạt động chuyển nhượng đã được cơ
quan nhà nước chứng thực. Điều này khiến các cơ quan chức năng ở địa phương,
nơi cá nhân mua bán bất động sản cư trú, khó xác định người chuyển nhượng hiện
có bao nhiêu bất động sản và đâu là bất động sản duy nhất.
Các khó khăn hiện nay xuất phát từ việc hệ thống đăng ký đất đai
của chúng ta chưa kiểm soát được một người hiện có bao nhiêu bất động sản. Vì
vậy, cơ quan thuế chưa xác định được những trường hợp có hai bất động sản trở
lên có chuyển nhượng nhà đất mà trốn thuế. Một khó khăn nữa là nếu một người có
nhiều bất động sản ở các địa phương khác nhau, việc kê khai trốn thuế hoàn toàn
có thể xảy ra. Với thực trạng hệ thống đăng ký đất đai ở nước ta chưa kiểm soát
được một người có bao nhiêu bất động sản, việc thu đúng, thu đủ khoản thuế này
vẫn còn nhiều lỗ hổng.
2. Hậu quả
Hành vi trốn thuế thu nhập cá nhân
trong chuyển nhượng bất động sản hiện nay đã và đang gây nhiều hậu quả không
tốt cho công tác quản lý của Nhà nước về đất đai và cho xã hội. Cụ thể:
Thứ
nhất, về phía Nhà nước.
Việc ban hành và triển khai thực hiện
một chính sách thuế thể hiện cách Nhà nước sử dụng công cụ tài chính vào những
mục tiêu nhất định như : tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, xây dựng thị
trường bất động sản minh bạch hơn…Việc các chủ thể không tự giác kê khai để nộp
thuế không chỉ gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước mà còn khiến cho các mục
tiêu đã đề ra không thể thực hiện được, nhất là trong bối cảnh xây dựng thị
trường bất động sản minh bạch, một trong 5 loại thị trường để khẳng định nền
kinh tế thị trường xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam theo cam kết khi gia nhập WTO
của Việt Nam. Bên cạnh đó, việc thiếu ý thức thực hiện quy định pháp luật thuế
của nhiều cá nhân trong xã hội, vi phạm pháp luật về thuế mà không bị xử lý về
lâu dài sẽ tạo nên tâm lý, thái độ coi thường pháp luật, đi ngược lại mục tiêu
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Thứ
hai, về phía xã hội.
Thuế là một nguồn thu quan trọng để
tái thiết xã hội: xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, phát triển
hệ thống giáo dục, giữ gìn và phát huy các giá trị văn hoá tinh thần của dân
tộc…Vì vậy, thất thu thuế sẽ trực tiếp làm giảm nguồn thu, gây khó khăn cho
tiến trình xây dựng đất nước. Mặt khác, các thoả thuận không phù hợp với quy
định pháp luật về chuyển nhượng quyền sử dụng đất của các bên hiện nay khiến cho
không ít trường hợp gây thiệt hại cho lợi ích của chính người có đất chuyển
nhượng bởi những đối tượng cò mồi, đầu cơ đất đai.
III. Xác định mục tiêu xử lý tình
huống
Mục
tiêu xử lý tình huống trốn thuế trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất hiện nay
là trên cơ sở phân tích các khía cạnh pháp lý trong hành vi của các chủ thể,
nguyên nhân, hậu quả đối với xã hội để xây dựng phương án, phân tích và lựa
chọn phương án tốt nhất cho việc giải quyết tình huống đã đề ra.
IV. Xây dựng phương án, phân tích
và lựa chọn phương án giải quyết tình huống
Để
giải quyết tình huống trên, tiểu luận đề xuất một số phương án như sau:
Tên phương án
|
Ưu điểm
|
Nhược điểm
|
Điều
chỉnh thuế suất đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản theo hướng
giảm đi.
|
Ưu
điểm của phương án này là khuyến khích người dân công khai giao dịch, làm
minh bạch thị trường bất động sản và làm giảm nguy cơ “lách luật” để trốn
thuế của người chuyển nhượng.
|
Nhược
điểm của phương án này là thẩm quyền
điều chỉnh thuế suất đối với thu nhập từ chuyển nhượng bất động sản
theo hướng giảm đi thuộc Chính phủ, trên cơ sở đề xuất của Bộ Tài chính. Tức
là để xây dựng và ban hành quy định này phải qua các thủ tục pháp lý thuộc về
trình tự xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, rất
tiêu tốn về thời gian và kinh phí.
|
Buộc
các bên tiến hành hợp đồng chuyển nhượng tại Công chứng nhà nước và giao cho
Công chứng nhà nước thẩm định giá chuyển nhượng trên bằng phương pháp so sánh
trực tiếp giữa khung giá đất do địa phương quy định với các thông tin về bất
động sản trên thực tế.
|
Ưu
điểm của phương án này là phù hợp với nhiệm vụ hiện đang được quy định cho
Công chứng Nhà nước.
|
Nhược
điểm của phương án này là hiện chưa có cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền
của công chứng nhà nước trong thẩm định giá và lấy đó làm căn cứ để xác định
giá trị quyền sử dụng đất được chuyển nhượng. Mặt khác, để thực hiện phương
án này cần bồi dưỡng về năng lực, tinh thần trách nhiệm cho cán bộ của các
Phòng Công chứng. Đặc biệt là phải có chế độ đãi ngộ phù hợp nhằm phòng ngừa
các hành vi tiêu cực, câu kết với các bên trong định giá bất động sản nhằm
thu lợi bất chính – vốn là hiện tượng diễn ra ở không ít địa phương. Cơ quan
có thẩm quyền quyết định vấn đề này là Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Tư pháp.
Vì vậy, cần có thời gian nghiên cứu, thẩm định để đi đến quyết định có triển
khai thực hiện trên thực tế hay không.
|
Phát
hiện hành vi gian lận thuế của ông K để xử lý theo quy định pháp luật về quản
lý thuế.
|
Ưu
điểm của phương án này là giải quyết nhanh chóng hành vi trái pháp luật thuế
của ông K và có tác dụng răn đe đối với hành vi của các chủ thể khác khi chấp
hành các quy định của pháp luật về thuế thu nhập cá nhân.
|
Nhược
điểm của phương án này là không giải quyết triệt để được các nguyên nhân dẫn
đến vi phạm. Mặt khác, theo quy định của Luật quản lý thuế năm 2006, Luật
thuế thu nhập cá nhân, Nghị định của Chính phủ số 100/2004/NĐ-CP ngày
25/02/2004 quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế thì
không có chế tài nào đối với hành vi vi phạm về thuế của ông K. Vì vậy, không
thể xử lý hành chính đối với ông K được.
|
Tiến
hành thẩm định giá theo từng năm hoặc khi đặc điểm địa phương có sự thay đổi
về tính chất quản lý (nâng cấp lên đô thị hoặc có các dự án phát triển khiến
nhu cầu về đất tại địa phương tăng kéo theo giá bất động sản biến động trên
thị trường) đối với từng loại đất và lấy chỉ số giá đó để xác định giá trị
chuyển nhượng thực tế làm cơ sở để tính thuế thu nhập cá nhân.
|
Ưu
điểm của phương án này là Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh sẽ xác định được một cách hợp
lý nhất chỉ số giá để tính giá trị chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thực
tế. Chỉ số giá được xác định qua thẩm định là mức giá gần sát thực tế nhất
bởi các thông tin có tính xác thực được thu thập trên thị trường. Hiện nay ở
Việt
|
Nhược
điểm của phương án này là các quy định pháp luật hiện chưa xác định rõ làm
thế nào để định ra giá thị trường ? làm thế nào để xác định được đúng là giá
thị trường ? Tuy nhiên, nếu thực hiện theo các phương pháp xác định giá đất
và khung giá các loại đất như quy định tại Điều 4 Nghị định của Chính phủ số
188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về phương pháp xác định giá đất và khung giá
các loại đất trên cơ sở bồi dưõng năng lực cho cán bộ làm công tác quản lý và
thu thuế thì phương án này có thể mang lại kết quả cao và trong các phương án
thì đây là phương án có tính khả thi nhất hiện nay.
|
V. Lập kế hoạch tổ chức thực hiện
phương án đã lựa chọn
Để
thực hiện phương án tối ưu đã xác định cần thực hiện theo các bước cụ thể sau:
TT
|
Nội dung
|
Biện pháp bảo đảm
|
1
|
Tạm
dừng cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên địa bàn.
|
Uỷ
ban nhân dân thành phố HN ra quyết định hành chính để tạm dừng cho phép
chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên địa bàn trong khoảng thời gian 1 tháng
để nghiên cứu, xem xét lại khung giá các loại đất trong phiên họp Uỷ ban nhân
dân và trình ra Hội đồng nhân dân trong kỳ họp.
|
2
|
Tiến
hành thẩm định giá các loại đất trên địa bàn.
|
Uỷ
ban nhân dân thành phố HN xây dựng kế hoạch thẩm định giá các loại đất trên
địa bàn và trình lên Hội đồng nhân dân thành phố HN. Trong đó xác định chủ
thể nòng cốt thực hiện thẩm định giá các loại đất là Hội đồng giải phòng mặt
bằng. Các cơ quan khác (Xây dựng, giao thông, địa chính, tư pháp) có trách
nhiệm phối hợp cùng Hội đồng để thực hiện kế hoạch. Ngoài ra, có thể tham
khảo thông tin về chỉ số giá bất động sản của các doanh nghiệp thẩm định giá
trên địa bàn.
Đây
là thời điểm thích hợp để thực hiện công tác này vì có căn cứ để cho rằng ở
địa phương xảy ra hiện tượng sốt đất cục bộ, có thể dẫn đến nhiều hành vi vi
phạm pháp luật về thuế, về đất đai.
|
3
|
Dự
kiến khung giá các loại đất.
|
Hội
đồng giải phòng mặt bằng trên cơ sở thông tin về thị trường bất động sản trên
địa bàn và khung giá các loại đất do Chính phủ quy định để dự kiến khung giá
các loại đất trên phạm vi địa phương trình Uỷ ban nhân dân thành phố HN xem
xét, quyết định.
|
4
|
Xem
xét dự kiến khung giá các loại đất do Sở Tài chính trình.
|
Trong
phiên họp Uỷ ban nhân dân tiến hành xem xét dự kiến khung giá các loại đất do
Hội đồng giải phóng mặt bằng trình để lấy ý kiến các ban, ngành, tổ chức
chính trị-xã hội ở địa phương. Trên cơ sở đó, yêu cầu Hội đồng giải phóng mặt
bằng tiếp thụ, nghiên cứu, chỉnh sửa cho phù hợp.
|
5
|
Quyết
định khung giá các loại đất trên địa bàn trình Hội đồng nhân dân phê duyệt.
|
Uỷ
ban nhân dân quyết định khung giá các loại đất tại phiên họp và trình Hội
đồng nhân dân thành phố HN trong kỳ họp để phê duyệt và triển khai thực hiện
tại địa bàn.
|
6
|
Công
bố khung giá các loại đất mới được Hội đồng nhân dân phê duyệt và tổ chức
thực hiện.
|
Uỷ
ban nhân dân thành phố HN đăng toàn văn quyết định về khung giá các loại đất
trên công báo của địa phương và trên các phương tiện thông tin đại chúng để
toàn thể nhân dân địa phương được biết. Đồng thời, chỉ đạo các Sở, Uỷ ban
nhân dân cấp xã, cấp huyện quán triệt và tổ chức thực hiện văn bản.
|
7
|
Tiếp
tục cho phép chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên địa bàn.
|
Uỷ
ban nhân dân thành phố HN ra thông báo về việc tiếp tục thực hiện các thủ tục
để cho phép cá nhân, tổ chức trên địa bàn chuyển nhượng quyền sử dụng đất.
|
8
|
Tiếp
nhận và giải quyết yêu cầu chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông K và ông
H theo quy định của pháp luật và khung giá đất mới.
|
Chủ
thể thực hiện: Uỷ ban nhân dân thị xã ST và các cơ quan chuyên môn: địa
chính, thuế, công chứng trên địa bàn.
|
VI. Kiến nghị
Để
thực hiện có hiệu quả phương án trên, tiểu luận kiến nghị một số vấn để như
sau:
1.
Đối với Chính phủ
Phải
xây dựng và quản lý hệ thống thông tin cá nhân đầy đủ toàn diện, trên cơ sở đó
giữa ngành thuế và ngành tài nguyên - môi trường kết nối mạng thông tin thống
nhất trên phạm vi toàn quốc để quản lý được việc sở hữu bất động sản chi tiết
của từng cá nhân. Từ đó, chống được sự man khai là tài sản duy nhất trong
chuyển nhượng bất động sản để được miễn thuế.
Cần
nghiên cứu giá bất động sản trên thị trường cả nước để xác định khung giá có
biên độ rộng hơn, tạo cơ sở pháp lý cho các địa phương điều chỉnh khung giá đất
của địa phương mình sát với thực tế hơn. Đồng thời, chỉ đạo Bộ Tài chính phối
hợp với Bộ Tư pháp, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn, Bộ Văn hoá – Thể
thao và Du lịch, Bộ Xây dựng để sửa đổi, bổ sung Nghị định của Chính phủ số
100/2004/NĐ-CP để xác định chế tài xử phạt hành chính đối với hành vi trốn
thuế, gian lận thuế thu nhập cá nhân trong chuyển nhượng bất động sản (hiện nay
chưa có văn bản nào điều chỉnh vấn đề này), nhất là để phù hợp và đảm bảo thực
thi nghiêm minh các văn bản luật như Luật thuế thu nhập cá nhân, Luật quản lý
thuế. Bên cạnh đó, cần tích cực triển khai các chương trình để nâng cao năng
lực của đội ngũ cán bộ thuế về công tác thẩm định giá bất động sản để đảm bảo
thực hiện nhiệm vụ thu đúng, thu đủ các khoản thuế thu nhập cá nhân trong
chuyển nhượng bất động sản nói chung, quyền sử dụng đất nói riêng.
2.
Đối với Uỷ ban nhân dân thành phố
HN.
Đối
với Uỷ ban nhân dân thành phố HN để chống việc lách thuế qua việc ghi thấp giá trên
hợp đồng chuyển nhượng thì việc xây dựng và ban hành giá nhà, đất hàng năm phải
phù hợp và sát giá thực tế chuyển nhượng trên thị trường tự do. Uỷ ban nhân dân
yêu cầu thẩm định giá trước, sau đó cung cấp cho Hội đồng giải phóng mặt bằng,
hội đồng sẽ thảo luận để đưa ra một mức giá chuẩn để trình Uỷ ban nhân dân
quyết định.
Tích
cực nắm bắt thông tin về thị trường bất động sản trên địa bàn để kịp thời chỉ
đạo cơ quan thuế, Uỷ ban nhân dân cấp huyện, cấp xã trên địa bàn xử lý có hiệu
quả các vấn đề tiêu cực phát sinh trong kê khai, thu thuế thu nhập cá nhân
trong chuyển nhượng quyền sử dụng đất. Đặc biệt khi xảy ra hiện tượng sốt đất
giả tạo hoặc cục bộ thì cần có biện pháp hành chính kịp thời để theo dõi và chỉ
đạo cấp dưới xử lý những trường hợp kê khai không đúng giá chuyển nhượng để
trốn thuế hoặc gian lận thuế.
3.
Đối với Uỷ ban nhân dân thị xã ST
Tăng
cường công tác đôn đốc, kiểm tra qũy đất các loại trên địa bàn. Khi nảy sinh
các biến động về giá cả cần theo dõi, phân tích, đánh giá, chỉ đạo các cơ quan
chuyên môn, đặc biệt là cơ quan thuế, địa chính để có giải pháp tuyên truyền,
giáo dục cho nhân dân. Đồng thời, báo cáo, xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên để
kịp thời giải quyết.
4.
Đối với ngành thuế
Riêng
ngành thuế, phải tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến đạo lý của Luật
Thuế thu nhập cá nhân đến mọi tầng lớp dân cư để giúp họ nắm và hiểu về các quy
định, đồng thời bằng kinh nghiệm và kỹ năng quản lý chuyên sâu, phải chủ động
đề xuất ngay các giải pháp ứng phó trong mọi tình huống.
KẾT LUẬN
Thực trạng hệ thống đăng ký đất đai ở
nước ta còn nhiều hạn chế, các cơ quan chức năng chưa kiểm soát được một cách
có hiệu quả quỹ đất, các thông tin cá nhân liên quan đến sở hữu bất động sản
còn bỏ ngỏ nên việc thu đúng, thu đủ thuế thu nhập cá nhân trong chuyển nhượng
bất động sản vẫn còn nhiều bất cập. Vì vậy, trên thực tế nảy sinh không ít
trường hợp lách luật, trốn thuế. Để thực hiện có hiệu quả việc thu thuế thu
nhập cá nhân từ hoạt động chuyển nhượng bất động sản trong thời gian tới rất
cần đến những sửa đổi pháp lý phù hợp;công tác theo dõi, chỉ đạo sát sao, có hệ
thống giữa các cơ quan chức năng như tài nguyên và môi trường, thuế. Đồng thời,
cần tích cực chuyển giao một phần công tác thẩm định, định giá bất động sản
sang cho các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ thẩm định để giảm bớt gánh nặng
cho Nhà nước và tạo thêm kênh thông tin để nghiên cứu, xem xét, điều chỉnh nhằm
nâng cao hiệu lực và hiệu quả công tác quản lý nhà nước về thuế của chính quyền
các địa phương trong thời gian tới.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Thông tư số 161/2009/TT-BTC ngày 26/09/2009 Hướng
dẫn về thuế thu nhập cá nhân đối với một số trường hợp chuyển nhượng, nhận thừa
kế, nhận quà tặng là bất động sản;
2. Bộ Tài chính, Thông
tư số 62/2009/TT-BTC ngày 27/3/2009 hướng dẫn sửa đổi, bổ sung Thông tư số
84/2008/TT-BTC ngày 30/9/2008 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thuế
thu nhập cá nhân và hướng dẫn thi hành Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày
08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá
nhân;
3.
Bộ Tài chính, Thông tư 84/2008/TT-BTC ngày
30/9/2008 về việc hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Thuế thu nhập cá nhân và hướng dẫn Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày
08/9/2008 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá
nhân;
4. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam , Nghị định số 100/2008/NĐ-CP ngày 08/9/2008 quy định
chi tiết một số điều của Luật Thuế thu nhập cá nhân;
5. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam , Nghị định số 100/2004/NĐ-CP ngày 25/2/2004 quy định
về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế;
6. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam , Nghị định số 188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 về
phương pháp xác định giá đất và khung giá các loại đất;
7. Chính phủ nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam , Nghị định số
123/2007/NĐ-CP ngày 27/07/2007 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
188/2004/NĐ-CP ngày 16/11/2004 của Chính phủ về phương pháp xác định giá đất và
khung giá các loại đất.
8. Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ,
Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006;
9. Quốc hội nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam ,
Luật Thuế thu nhập cá nhân
số 04/2007/QH12 ngày 21/11/2007;
10.
Tổng cục Thuế, Công văn số 3929/TCT-TNCN
ngày 24/9/2009 về thuế thu nhập cá nhân đối với hoạt động chuyển nhượng bất
động sản;
No comments:
Post a Comment