TIN LIÊN QUAN"
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 04
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 03
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 04
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 03
MỤC LỤC
Trang
|
|
LỜI NÓI ĐẦU
|
|
I. GIỚI THIỆU TÌNH HUỐNG
|
|
1.1. Hoàn cảnh ra đời
|
|
1.2. Diễn biến tình
huống
|
|
II. PHÂN TÍCH TÌNH
HUỐNG
|
|
2.1. Cơ sở phân tích tình
huống
|
|
2.2. Mục tiêu của tình huống
|
|
2.3. Nguyên nhân của tình
huống
|
|
2.4. Đánh giá tình huống
|
|
III. XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN
XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
|
|
IV. LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT
|
|
V. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
|
|
5.1. Biện pháp tổ chức thực hiện phương án
tối ưu
|
|
5.2. Một số kiến nghị
|
|
KẾT LUẬN
|
|
TÀI LIỆU THAM KHẢO
|
LỜI NÓI ĐẦU
Nhà
nước là chủ thể đại diện đương nhiên trong xã hội có giai cấp thực hiện vai trò
quản lý (cai trị) và cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội công dân. Để quản lý
mọi mặt của xã hội, nhà nước sử dụng các công cụ hỗ trợ như: pháp luật, kế
hoạch, chính sách,... nhằm định hướng, điều tiết, bảo đảm và bảo vệ các quan hệ
xã hội theo định hướng đã đặt ra. Trong đó, công cụ pháp luật được coi là công
cụ hữu hiệu do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước.
Tuy nhiên, những hạn chế về năng lực, khả năng xây dựng, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật và tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
không những không đảm bảo được mục tiêu mà nhà nước đặt ra mà còn gây tác động
xấu đến các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của nó.
Thực trạng hoạt động chấp hành và điều hành của cơ
quan hành pháp trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ở
Việt Nam hiện nay, phản ánh khả năng, kỹ năng và năng lực trong việc tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ được nhà nước giao trên các mặt, các lĩnh vực quản lý
còn hạn chế, như: Điều tiết, định hướng, hoạch định để bảo vệ thị trường còn
mang tính đối phó; bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể hay duy trì
trật tự, kỷ cương còn yếu và kém nên hiệu quả chưa cao. Đặc biệt, khi triển khai
thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện những cam kết khung
của Công ước quốc tế nhằm cắt giảm thuốc lá ở Việt Nam, trong đó có việc cấm
hút thuốc lá nơi công cộng, công sở,... cho thấy năng lực và khả năng thực tế
của các cơ quan quản lý nhà nước. Bởi, sau gần 1 tháng thực hiện, nhưng tình
hình hút thuốc vẫn không có sự chuyển biến ở những nơi nhạy cảm như: công sở,
nhà ga, bến xe, bệnh viện, trường học,... Điều này phản ánh hiệu quả thực thi
các văn bản quy phạm pháp luật trong thực tế còn thấp, chưa tạo được sự chuyển
biến trong nhận thức và ý thức tự giác chấp hành nghiêm minh của các chủ thể
trong xã hội.
Để
nâng cao hiệu lực thực thi của các văn bản quy phạm pháp luật trong thực tế,
đòi hỏi phải nâng cao khả năng ban hành và kỹ năng, biện pháp tổ chức thực hiện
của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, nhất là các lĩnh vực có liên
quan đến việc bảo đảm và bảo vệ sức khoẻ của con người trong giai đoạn hiện
nay. Với những lý do đó, tiểu luận lựa chọn vấn đề “Một số vấn đề về nâng cao hiệu lực, hiệu quả trong tổ chức thực hiện
văn bản quy phạm pháp luật (thông qua tình huống về việc chấp hành quy định cấm
hút thuốc lá nơi công cộng, công sở)” làm nội dung cơ bản để viết bài tiểu
luận cuối khoá.
I. GIỚI THIỆU TÌNH HUỐNG
1.1. Hoàn cảnh ra đời
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết của
Chính phủ về “Chính sách quốc gia phòng chống tác hại của thuốc lá” trong giai
đoạn 2001-2010 đã không đạt được các chỉ tiêu đặt ra về các tỷ lệ người hút
thuốc; cắt giảm các sản phẩm thuốc lá; quảng cáo thuốc lá;... Do vậy, để tiếp tục
thực hiện trách nhiệm của mình đối với xã hội công dân và những cam kết quốc tế
về vấn đề này, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục ban hành Quyết định số 1315/QĐ-TTg
ngày 21/08/2009 về việc Phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước khung về kiểm
soát thuốc lá trong đó xác định lộ trình thực hiện việc cắt giảm như: Cấm hút
thuốc lá nơi công cộng; giá thuế đối với thuốc lá; các biện pháp cai nghiện và
buôn bán sản phẩm thuốc lá;... Song, khi tổ chức thực hiện Quyết định này từ
ngày 01/01/2010 về cấm hút thuốc lá, thuốc lào nơi công cộng, công sở thì dường
như không có sự chuyển biến trong xã hội.
1.2. Diễn biến của tình
huống
Có thể thấy diễn biến tình hình chấp hành
văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ có liên quan về việc cấm
hút thuốc nơi công cộng, công sở thông qua ký sự ở hàng loạt các báo (báo hình,
nói, viết và báo điện tử), trong đó có bài viết đáng chú ý được đăng tải trên Báo
điện tử Việt Nam ngày 07/01/2010 như sau: “Sau gần một tuần Quyết định 1315 của Thủ tướng Chính phủ về việc cấm
hút thuốc lá nơi công cộng có hiệu lực, tại TP. Hồ Chí Minh và Hà Nội, việc
thực hiện vẫn không nghiêm. Ngày 7-1, chúng
tôi có mặt ở các điểm công cộng như bệnh viện, bến xe khách, nhà ga... ở hai
thành phố lớn thì tại Thành phố Hồ Chí Minh dường như quy định cấm hút thuốc lá
chỉ có hiệu lực trên giấy: Tại bến xe Miền Đông (TP. Hồ Chí Minh) hay bến
xe Giáp Bát Thành phố Hà Nội, rất nhiều biển báo, áp phích cấm hút thuốc lá
được treo tại các điểm tập trung đông người, song tình trạng xả khói vẫn diễn
ra phổ biến mà không hề có lực lượng nào nhắc nhở hay xử phạt hành vi vi phạm.
Ngay cả ga TP. Hồ Chí Minh, nơi chờ lên tàu vẫn có nhiều người thản nhiên hút
thuốc. Đặc biệt, ngay cả nơi nhạy cảm với việc hút
thuốc như bệnh viện vẫn tràn ngập khói thuốc. Trong khuôn viên Bệnh viện Chợ
Rẫy, một người đàn ông chừng 50 tuổi vừa “soi” tấm phim chụp X- quang vừa phì
phèo thuốc lá. Ngay tại cổng khu vực nhà xe có treo tấm biển lớn “Không hút
thuốc trong khu vực nhà xe” nhưng chính nhân viên trông giữ xe của Bệnh viện cũng
điềm nhiên hút thuốc. Bước vào Bệnh viện K, cơ sở điều trị bệnh nhân ung thư
lớn nhất cả nước, ai cũng nhìn thấy ngay tấm biển rất to với dòng chữ “Không
hút thuốc lá”, kèm theo dòng phụ đề “Hút thuốc lá là nguyên nhân chính gây ra
bệnh ung thư”. Thế nhưng chỉ trong chưa đầy một giờ quan sát tại khu vực ngồi
chờ của người nhà bệnh nhân, chúng tôi đã gặp hàng chục người đứng hút thuốc lá
ngay dưới tấm biển “Cấm hút thuốc lá”. Thậm chí, một số nhân viên y tế mặc áo
blouse trắng cũng vừa đi vừa hút thuốc ngay trong khuôn viên Bệnh viện....; Một
điều đáng ngạc nhiên, khi chúng tôi đi qua một ngôi trường có bề dày truyền thống
hiếu học như Trường Chu Văn An, mặc dù có nhiều biển báo cấm hút thuốc nhưng
trong sân, ngoài cổng trường vẫn nghi ngút khói thuốc do các thầy “xả tự nhiên”
trước mặt biết bao nhiêu học sinh đang vui chơi trên sân trường. Khi hỏi, Cô Hiệu
phó cho biết: Đối với học sinh tuyệt nhiên không có hiện tượng hút thuốc lá ở
trong Trường vì đã phổ biến quy định cấm và xử lý hạ hạnh kiểm nếu vi phạm, còn
việc Thầy giáo hút thuốc trước học sinh thì còn chưa có quy định để xử lý nên
chỉ nhắc nhở các thầy nên hạn chế hút thuốc,...”[1].
Đây cũng chính là thực trạng chung trong cả nước trong thời gian qua.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Cơ sở phân tích tình
huống
Tình huống trên có thể được phân tích, đánh giá dưới nhiều góc
độ, tiêu chí khác nhau, chẳng hạn như: Căn cứ vào góc độ pháp lý có thể đánh giá
về tình hình vi phạm quy định của pháp luật của người dân, cán bộ, công chức,
viên chức; dưới góc độ xã hội học sẽ chỉ ra tỷ lệ % con người, nhóm người, lứa
tuổi, giới tính,.. trong xã hội hút thuốc hay bị hút thuốc lá một cách thụ động
ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hoặc dưới góc độ quản lý nhà nước nhằm chỉ
ra về tính không hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước trong việc tổ
chức thực hiện Quyết định này. Dù dưới góc độ nào, thì chúng đều có một điểm
chung là đều nhằm ngăn chặn tác hại của thuốc lá đối với cộng đồng, bảo đảm và
bảo vệ sức khoẻ của con người. Để đánh giá đúng tính chất, mức độ và diễn biến
của tình huống nhằm tìm ra nguyên nhân, hậu quả và xác định biện pháp xử lý,
tiểu luận căn cứ vào các cơ sở như:
Cơ sở pháp lý cho việc tổ chức thực hiện việc cắt giảm tác
hại của thuốc lá ở Việt Nam theo lộ trình và cam kết gồm có các văn bản quy
phạm pháp luật như: Cho đến thời điểm hiện nay, các văn bản trước và sau Quyết định
số 1315/QĐ-TTg ngày
21/08/2009 về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước khung về kiểm soát
thuốc lá của Thủ tướng Chính phủ bao gồm: Nghị quyết của Chính phủ về “Chính sách
quốc gia phòng chống tác hại của thuốc lá” trong giai đoạn 2001-2010; Nghị định
số 45/2005/NĐ-CP ngày 06/4/2005 của Chính phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh
vực y tế; Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày 02/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ
ban hành kèm theo Quy chế về văn hoá công sở tại các cơ quan hành chính nhà nước;
Chỉ thị số 12/2007/CT-TTg ngày 10/5/2007 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường
các hoạt động phòng, chống tác hại của thuốc lá; Chỉ thị số 08/2001/CT-BYT ngày
03/8/2001 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc đẩy mạnh hoạt động phòng, chống tác hại
của thuốc lá trong ngành y tế; Quyết định số 02/2007/QĐ-BYT ngày 15/01/2007 của
Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành quy định về vệ sinh an toàn đối với sản phẩm
thuốc lá; Quyết định số 5281/QĐ-BYT ngày 31/12/2009 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc
ban hành kế hoạch thực hiện Quyết định số 1315/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt kế hoạch thực hiện Công ước khung về kiểm soát thuốc lá trong ngành y
tế;... là các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành nhằm điều chỉnh hành vi
sản xuất, kinh doanh, buôn bán và sử dụng thuốc lá trong xã hội.
Bên cạnh đó, các văn bản của Đảng và Nhà nước nhằm nâng cao hiệu lực,
hiệu quả quản lý nhà nước như: Nghị quyết số 17-TW, Hội nghị lần thứ 5, Ban
chấp hành Trung ương Đảng khóa X ngày 1/8/2007 về “Đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước” và các văn bản
quy phạm pháp luật khác quy định về cải cách hành chính, phân cấp chức năng,
nhiệm vụ, thẩm quyền trong lĩnh vực y tế,...
2.2. Mục tiêu phân tích tình
huống
Với những vấn đề mà diễn biến tình huống đề cập, có thể thấy
hàng loạt câu hỏi được đặt ra: Tại sao một văn bản của Chính phủ có sự chuẩn bị
về thời gian và lộ trình lại không được người hút thuốc lá, thuốc lào chấp hành
nghiêm chỉnh? các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện và bảo đảm
cho môi trường công cộng không còn khói thuốc lại không thể làm gì được đối với
các hành vi vi phạm ?...là những câu hỏi cần phải được giải quyết một cách triệt
để nhằm làm sáng tỏ nguyên nhân của tình trạng hiệu lực, hiệu quả tổ chức thực
hiện văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền
trong giai đoạn hiện nay.
2.3. Nguyên nhân và hậu
quả của tình trạng trên
Tình huống chỉ ra một thực trạng thường thấy trong hoạt động
quản lý nhà nước nói chung và việc tổ chức thực hiện ở các lĩnh vực nói riêng,
trong đó có lĩnh vực y tế. Lý giải hiện tượng này, có thể đánh giá dựa trên các
nguyên nhân khách quan và chủ quan như:
Thứ nhất, nguyên nhân khách quan là những nhân tố không phụ
thuộc vào ý chí chủ quan của con người, có ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp đến
sự kém hiệu quả của hoạt động tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật
trong hoạt động quản lý nhà nước về y tế. Về cơ bản:
Một là, do điều kiện của nền kinh tế thị trường đã tạo ra thị
trường hàng hoá đa dạng, nhất là thị trường các sản phẩm thuốc lá. Bên cạnh các
sản phẩm thuốc lá trong nước thì các sản phẩm thuốc lá ngoại nhập ngày càng tràn
lan và có nhiều sản phẩm được sản xuất bằng công nghệ cao nhằm thu hút, hấp dẫn
người tiêu dùng. Do vậy, khi nhà nước đánh thuế cao đối với sản phẩm thuốc
trong nước và ngoại nhập thì số lượng thuốc lá nhập lập gia tăng tạo ra những hạn
chế trong lộ trình tăng thuế đối với thuốc lá-mặt hàng không khuyến khích tiêu
dùng. Trên thị trường, một bao thuốc lá nhập lậu có chất lượng hơn hẳn thuốc lá
sản xuất trong nước lại có giá rẻ hơn nhiều so với sản phẩm thuốc lá trong nước
nên không thể hạn chế được sản phẩm này đối với người tiêu dùng ở Việt Nam hiện
nay. Nguyên nhân này tạo ra hệ quả của việc nếu quản lý không tốt sẽ không những
không kiểm soát nổi tình trạng buôn bán thuốc lá lậu mà còn tạo ra nhiều tiêu cực
trong hoạt động quản lý nhà nước ở các địa phương.
Hai là, sự thay đổi giữa cơ chế quản lý “quan liêu bao cấp”
sang cơ chế thị trường ở Việt Nam
còn non, yếu và thiếu kinh nghiệm. Thời gian thực hiện chuyển đổi kinh tế, cơ
chế ở Việt Nam mới chỉ được 23 năm, so với các nước phát triển còn quá trẻ nên
chưa thể tạo ra được tính đồng bộ trong công tác quản lý, tổ chức thực hiện và điều
kiện vật chất để thực hiện. Điều này phản ánh tính manh mún, chắp vá và thiếu
nguồn lực (nguồn lực vật chất và nguồn nhân lực) cả về số; lượng và chất lượng trong
tổ chức, thực hiện các chính sách của Đảng và Nhà nước. Do đó, dễ tạo ra tính mâu
thuẫn, tính thiếu hiệu quả hay thậm chí cả những lãng phí phải trả cho những hoạt
động quản lý “đi” đúng hướng.
Thứ hai, những nguyên nhân chủ quan là những nguyên phụ thuộc
vào ý chí chủ quan của con người làm phát sinh tình trạng vi phạm các quy định
của pháp luật về cấm hút thuốc lá nơi công cộng (giá trị của văn bản không đạt được
kết quả) trong thời gian qua. Về cơ bản có thể thấy những nguyên nhân chủ quan
như:
Một là, về thể chế pháp luật. Xét hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật ở Việt Nam hiện nay cho thấy, tính nhiều cấp của văn bản quy phạm pháp
được thể hiện rõ trong tính chất pháp lý, thể thức, tên gọi và cấp ban hành. Do
đó, văn bản quy phạm để tác động được đến các quan hệ xã hội (thuộc đối tượng điều
chỉnh của nó) cần phải qua nhiều khâu, cấp có thẩm quyền ban hành và hướng dẫn
thực hiện. Hệ thống văn bản quy phạm quy định về lộ trình cắt giảm tác hại thuốc
lá ở Việt Nam như trên đã trình bày, mặc dù do cơ quan quản lý cao nhất ban hành
(Chính phủ, các Bộ và cơ quan ngang bộ) nhưng hầu như vẫn mang tính chất chung
chung, tính định hướng mà chưa có quy định áp dụng cụ thể. Điều này tạo ra những
kẽ hở trong quá trình chấp hành và điều hành của chính quyền địa phương các cấp.
Do vậy, hậu quả là tình trạng hút thuốc lá nơi công cộng không được các cấp, ngành
và địa phương tổ chức thực hiện dẫn đến người hút cứ hút và không hề có biện pháp
tác động nào từ phía cơ quan hay người có thẩm quyền.
Hai là, hoạt động kiểm soát văn bản quy phạm pháp luật. Hoạt động
kiểm soát văn bản của Việt Nam
hiện nay mang tính “hậu kiểm”-tức khi văn bản ra đời và tổ chức thực hiện mới được
cơ quan “Tư pháp” xem xét tính hiệu quả, hiệu lực và hợp pháp, hợp hiến của văn
bản. Do vậy, sự kiểm soát này rất khó trong thực tiễn khi văn bản quy phạm lại
do nhiều cơ quan thuộc các lĩnh vực khác nhau ban hành và tổ chức thực hiện. Sự
khó kiểm soát về thể thức, nội dung và tính khả thi của nó đã tạo ra hậu quả là
nhiều văn bản được ban hành nhưng không có sự kiểm soát, hoặc kiểm soát một cách
qua loa, đại khái,... dẫn đến khó thực hiện hoặc thậm chí gặp phải sự lên án của
dư luận (không thực thi được, đi ngược lại lợi ích của cộng đồng dân cư). Tình
trạng văn bản của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ và các Bộ về cấm hút thuốc lá
nơi công cộng trên đã chứng minh khả năng kiểm soát tính hiệu quả của văn bản
trong thực tế còn nhiều hạn chế. Do đó, khi văn bản có nhưng thiếu các quy định
cần và đủ để áp dụng các quy định này đối với người hút thuốc không chấp hành các
quy định của Nhà nước.
Ba là, năng lực tổ chức thực hiện và quản lý của Thủ trưởng các
cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội,... Năng lực tổ chức thực hiện của cơ
quan quản lý nhà nước và người có thẩm quyền các cấp, ngành và địa phương mà tình
huống nêu lên đã cho thấy nhiều vấn đề về tính chủ động, sáng tạo và năng lực tổ
chức và quản lý cụ thể. Chẳng hạn, nếu trong lĩnh vực giáo dục, từ Bộ trưởng Bộ
giáo dục cho đến các Sở, Phòng hay thậm chí là Ban giám hiệu Nhà trường có thể
tổ chức bảo đảm cho quy định “cấm hút thuốc lá ở trường học” có thể được thực
hiện dựa trên cơ sở chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của mình,... nhưng thời
gian qua hầu như những cơ quan và người có thẩm quyền này không có động thái gì
để đưa ra biện pháp cụ thể phản ánh tính chủ động được phân cấp quản lý. Do vậy,
hậu quả mà chúng ta vẫn thấy là “học sinh thì cấm hút thuốc nếu hút thuốc thì bị
xử lý hạnh kiểm còn giáo viên thì vẫn hút thuốc trước mặt học sinh mà không có
biện pháp xử lý nào, có chăng cũng chỉ là “nhắc nhở, động viên”,... Điều này phản
ánh khá rõ tính lệ thuộc của cơ quan cấp dưới vào cơ quan cấp trên và tính thụ động,
trông chờ, ỷ lại của các cấp trong quá trình tổ chức thực hiện và xây dựng các
biện pháp quản lý cụ thể theo thẩm quyền được phân cấp.
Bốn là, ý thức của người hút thuốc và người dân. Ý thức của cá
nhân trong xã hội trong việc chủ động bảo vệ mình và bảo vệ những người xung
quanh còn dè dặt. Điều này thể hiện khá phổ biến trong các mối quan hệ đan xen
phức tạp như: Mối quan hệ giữa cấp trên, cấp dưới; lãnh đạo và nhân viên; đồng
chí, đồng nghiệp và mối quan hệ con người trong xã hội... Nếu những chủ thể này
có tinh thần trách nhiệm, có ý thức bảo vệ mình và người xung quanh thì việc nhắc
nhở, ngăn chặn kiên quyết sẽ có thể được tiến hành ngay với người đang hút thuốc.
Nhưng ngược lại, thường là “bỏ mặc” theo kiểu “ai có thân thì người nấy lo”,
“tranh voi trả xấu mặt nào”,... nên không muốn tự gây rắc rối cho mình. Điều này
dẫn đến tình trạng, người hút thuốc vẫn có thể hút ở những nơi cấm mà không bị
xã hội, dư luận lên án. Đồng thời, những người xung quanh như gia đình, bạn bè,
đồng chí, đồng nghiệp,... thường “ngại va chạm” nên không muốn nhắc nhở mà chủ
yếu “bỏ mặc” người hút thuốc. Sự thiếu phản ứng “cương quyết” của những người này
đã tạo thêm động lực cho thói quen hút thuốc của người nghiện thuốc mà không thể
hạn chế, ngăn cản được người nghiện thuốc lá...
Đối với những người nghiên thuốc lá: Đa số những người hút
thuốc thường có thói quen lâu năm nên họ chỉ chủ yếu thoả mãn nhu cầu của mình
mà bỏ qua những người sung quanh và sức khoẻ của họ. Đây là một thói quen khó bỏ
nhất là những người thiếu niềm tin, ý chí và nghị lực. Nếu thói quen này không
có sự tác động bằng các biện pháp cứng rắn, như việc bắt buộc phải đội mũ bảo
hiểm khi đi xe máy trong lĩnh vực giao thông đường bộ thì cũng khó có thể hạn
chế, kiểm chế và tiến tới ngăn chặn được những tình trạng hút thuốc là của
người nghiện.
2.4. Đánh giá tình huống
Như vậy, tình huống chỉ ra những động thái không đáng có
trong hoạt động quản lý nhà nước ở nước ta hiện nay. Điều này phản ánh tính hình
thức trong phân cấp chức năng, nhiệm vụ và tính mệnh lệnh hành chính “một chiều”
thẳng đứng. Thực tế, việc tổ chức thực hiện Nghị định của Chính phủ và Quyết định
của Thủ tướng Chính phủ trong lĩnh vực “cắt giảm tác hại của thuốc lá” thời gian
qua đã chứng minh việc phân công, phân cấp chỉ dừng lại ở việc “giao cho quyền
hạn” mà thiếu đi “tính trách nhiệm và phải chịu trách nhiệm” của cơ quan, người
có thẩm quyền hay sự thụ “động chờ” có văn bản thì làm còn không có văn bản thì
thôi. Do đó, tình trạng hút thuốc công khai không có người xử phạt, thậm chí những
người có khả năng xử phạt vi phạm hành chính thì là “nghiện thuốc” hoặc “ngại
va chạm”.... Đánh giá vấn đề mà tình huống nêu có thể thấy:
Thứ nhất, đánh giá về hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
hiện hành:
- Xét về mặt hình thức pháp lý trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật
theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 ở Việt Nam hiện nay thì
các văn bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành là các
văn bản mang tính chấp hành (văn bản dưới luật) các văn bản của cơ quan lập pháp
(văn bản luật) nên giá trị pháp lý của nó còn hạn chế. Nếu có Luật phòng, chống
thuốc lá thì có thể bảo đảm về tính thống nhất về hình thức pháp lý của văn bản
sẽ cao hơn.
- Xét về nội dung quy định của các văn bản trên, tuy có văn bản quy định
về nội dung các hành vi sản xuất, quảng cáo, kinh doanh, buôn bán, tàng trữ và
sử dụng,... và các quy định về thủ tục tố tụng: trình tự thủ tục xử phạt hành
chính trong lĩnh vực y tế hay trách nhiệm của cơ quan chủ quản: Bộ y tế và các
cơ quan có liên quan như: Các bộ, các cơ quan ngang bộ; chính quyền địa phương
các cấp trong việc tổ chức thực hiện các quy định trên;... Mặc dù các quy định
này mang tính cụ thể hoá, hướng dẫn tổ chức thực hiện nhưng vẫn mang tính
“chung chung” chưa phải là các quy định để bảo đảm có thể thực hiện được. Chẳng
hạn như, lộ trình thực hiện Công ước về cắt giảm thuốc lá; mục tiêu cắt giảm
thuốc lá nơi công cộng, công sở;... nhưng thiếu đi những giải pháp mang tính cần
thiết. Chủ yếu các quy định được bảo đảm bằng “giáo dục, thuyết phục” mà chưa có
sự gắn kết với “cưỡng chế”. Theo Nghị định số 45/2005/NĐ-CP được Chính phủ ban
hành về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, quyền xử phạt hút thuốc
lá nơi công cộng thuộc về thanh tra chuyên ngành của các bộ, ngành và Uỷ ban nhân
dân các cấp nhưng lực lượng này quá mỏng, lại phải chuyên trách nhiều việc. Dù
Chính phủ đã bổ sung một Nghị định về cấm hút thuốc lá nơi công cộng nhằm siết
chặt hành vi này nhưng việc xử phạt có lẽ vẫn quá khó đối với các cơ quan chức
năng. Vì thế sau 4 năm thực thi Nghị định số 45 vẫn chưa có một trường hợp nào
bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.
Do vậy, hình thức và nội dung của các văn bản quy định về việc triển khai
thực hiện cấm hút thuốc nơi công cộng, công sở chưa đảm bảo về giá trị pháp lý,
hiệu lực thực thi. Thậm chí, chưa có sự đồng bộ trong hệ thống văn bản của toàn
bộ các cơ quan quản lý nhà nước. Bởi lẽ, việc cấm hút thuốc lá nơi công cộng, công
sở có liên quan đến cá nhân ở mọi nơi, cấp và ngành trong khi đó chỉ có văn bản
của cơ quan chủ quản mà không có những văn bản phối hợp mang tính “liên tịch”
hay văn bản riêng lẻ của các bộ, ngành và địa phương khác. Điều này, tạo ra nhiều
mâu thuẫn về thể thức và nội dung quy định của văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành.
Thứ hai, hiệu quả và hiệu lực tổ chức thực hiện các văn bản
trên của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thực tế tổ chức triển khai từ ngày
01/01/2010 nhưng hiệu lực, hiệu quả của nó còn có nhiều vướng mắc, khó khăn. Cụ
thể:
Một là, công tác tổ chức tuyên truyền, phổ biến đã được tổ chức
triển khai đa dạng, dưới nhiều hình thức khác nhau như: Hệ thống Panô áp phích
ghi “cấm hút thuốc” tại các nơi công cộng hay “thuốc lá có thể gây ung thư”,
“thuốc lá có hại cho sức khoẻ”; các phương tiện thông tin đại chúng (báo hình,
báo nói, báo viết) và các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội; tổ chức xã
hội, tổ chức kinh tế,... đều tổ chức các buổi sinh hoạt phổ biến về các quy định
của Chính phủ,.. Như vậy, công tác tuyên truyền, phổ biến để mọi người dân, cán
bộ, công chức, viên chức biết được lộ trình và quy định của Nhà nước về cấm hút
thuốc lá được tiến hành trước ngày có hiệu lực của văn bản nên được mọi người
biết đến và có tác dụng sâu rộng. Tuy nhiên, các buổi tuyên truyền và các hình
thức phổ biến vẫn chỉ dừng lại ở việc “thông báo” cho chủ thể biết ngày cấm hút
thuốc mà không hề tuyên truyền, phổ biến về hình thức xử lý vi phạm đối với cá
nhân có hành vi vi phạm hay cơ quan có thẩm quyền về xử phạt vi phạm hành chính
trong hút thuốc lá nơi công cộng, công sở.
Hai là, công tác tổ chức thực thi bảo đảm môi trường công cộng
không có khói thuốc ở các đơn vị hành chính lãnh thổ theo khu vực đã được giới
hạn “cấm hút thuốc”. Tình huống trên chỉ ra một thực tế là người hút vẫn cứ hút,
bỏ qua các biển quảng cáo, Panô áp phích có quy định cấm. Thực tế, bản thân các
chính quyền địa phương trong phạm vi, quyền hạn của mình nhất là cấp tỉnh cần
phải chủ động xây dựng quy trình, thủ tục nhằm đảm bảo cho các quy định của Chính
phủ đi vào thực tế thì dường như không có cấp chính quyền nào có động thái này
mà chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, phổ biến là chính. Điều này dẫn đến một thực
trạng các quy định không những không được chấp hành thực hiện mà còn bị người dân
“coi thường”. Có thể thấy, không thấy bóng dáng của cơ quan, người có thẩm quyền
áp dụng trình tự xử phạt hành chính đối với những người vi phạm tại nơi công cộng,
công sở mà thay vào đó chỉ có lực lượng kiêm nhiệm của các cơ quan, tổ chức đứng
ra để nhắc nhở người vi phạm. Chẳng hạn tại xe Miền Tây nơi cấm hút thuốc lá nhưng
nhân viên kiểm soát bén xe cũng chỉ được phép nhắc nhở nhở hành khách ra vào không
hút thuốc, trong khi đó ở bến xe khách ra vào nườm nượp, lại đủ hạng người nên
nhắc nhở rất khó khăn. Thậm chí, việc nhắc nhở không khéo thì chính nhân viên
kiểm soát cũng sẽ bị người hút thuốc sừng sộ hay lờ đi. Rõ ràng, các biện pháp
tiến hành vẫn chỉ là “nhắc nhở” chứ chưa phải là “cưỡng chế bằng xử phạt hành
chính” nên hiệu lực thực thi không có hiệu quả. Đối với bệnh viện, thì đội bảo
vệ của bệnh viện cũng nằm trong tình trạng chung như đội kiểm soát bến xe tức là
chỉ được phép nhắc nhở mà không có quyền xử phạt hành chính. Đối với cán bộ, công
chức, viên chức hay công nhân lao động thì có thể xử lý được dưới hình thức là
xử lý kỷ luật, trừ lương,... nhưng cái khó vẫn là cơ sở pháp lý cho thủ trưởng
các cơ quan này có thẩm quyền xử lý. Do vậy, tình trạng các cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế,... vẫn chỉ tổ chức “vận động” nhân viên
của mình mà không có biện pháp để xử lý một cách cương quyết.
Ba là, lực lượng tổ chức thực hiện quá mỏng không đảm bảo đủ để
có thể kiểm soát các khu vực công cộng, công sở. Hiện tại, chỉ có thanh tra
chuyên ngành của các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các cấp mới là cơ quan chức năng
có thẩm quyền xử phạt hành chính theo Nghị định số 45/2005/NĐ-CP, nhưng sự mâu
thuẫn giữa khối lượng công việc được giao và số lượng biên chế cán bộ, công chức
thực hiện khó có thể tiến hành kịp thời tại mọi địa bàn theo quy định cấm. Hành
vi hút thuốc lá thường diễn ra bất chợp ở mỗi cá nhân (người nghiện thuốc) ở mọi
lúc, mọi nơi nên không thể theo dõi, kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời.
Do vậy, từ thời điểm triển khai cho đến nay, trong cả nước chưa
có một quyết định xử phạt hành chính nào được Thanh tra chuyên ngành hay của Uỷ
ban nhân dân các cấp thực hiện về vấn đề này. Điều này đồng nghĩa với việc, văn
bản này không hề có sự tác động nào đến hành vi vi phạm của người hút thuốc nơi
công cộng, công sở-có nguy cơ “chết yểu”.
III.
XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT TÌNH HUỐNG
Mục tiêu mà tình huống đặt ra là phải giải quyết triệt để tình
trạng hút thuốc lá nơi công cộng-tức là không để những nơi này có khói thuốc gây
ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người. Để đạt được thì cần xây dựng giải pháp nhằm
nâng cao hiệu lực của văn bản quy định hiện hành bằng hiệu quả hoạt động của cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
* Phương án 1: Phân loại đối tượng người hút thuốc để xây dựng biện pháp
xử lý.
- Mục tiêu của phương
án: Đảm bảo xây dựng các biện pháp xử lý phù hợp với từng loại đối tượng hút
thuốc, góp phần nâng cao hiệu quả thực thi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Nội dung thực hiện:
Để thực hiện được phương án trên, cần tiến hành:
+ Xây dựng văn bản nhằm phân loại các đối tượng hút thuốc. Đối
tượng là cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước, đơn vị hành
chính-sự nghiệp, doanh nghiệp của nhà nước; đối tượng là nhân viên trong các tổ
chức chính trị-xã hội; tổ chức xã hội; đối tượng là nhân viên trong các tổ chức
kinh tế (người lao động); đối tượng là người khác.
+ Tiến hành xây dựng các biện pháp xử lý phù hợp: Đối với đối
tượng hoạt động trong các cơ quan nhà nước giao cho thủ trưởng cơ quan và đồng
nghiệp theo dõi, phát hiện và xử lý với hình thức xử lý theo trách nhiệm kỷ
luật hoặc trừ lương; đối với nhân viên trong các tổ chức thì giao cho thủ trưởng
các cơ quan này phát hiện, báo cho cơ quan có thẩm quyền ngoài các biện pháp có
thể áp dụng theo Điều lệ của tổ chức thì phải báo cho cơ quan có thẩm quyền
(Thanh tra chuyên ngành hoặc Uỷ ban nhân dân) để tiến hành xử phạt; đối với đối
tượng khác có thể sử dụng biện pháp vừa động viên vừa xử lý hành chính theo quy
định hiện hành.
- Nguồn lực thực hiện
phương án:
+ Cơ quan thực hiện: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật chỉ đạo cho các bộ, ngành và địa phương chủ động xây
dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện.
+ Kinh phí thực hiện: Do các bộ, ngành và địa phương tổ chức
thực hiện xác định cụ thể.
* Phương án 2: Tăng cường lực lượng cho Thanh tra chuyên ngành và Uỷ ban
nhân dân các cấp để tổ chức triển khai thực hiện xử phạt hành chính theo quy định
của Nghị định số 45/2005/NĐ-CP
- Mục tiêu của phương án:
Phương án này nhằm đảm bảo số lượng cho cơ quan có thẩm quyền có đủ số lượng, cơ
cấu, tổ chức để thực hiện xử phạt hành chính đối với những người vi phạm quy định
tại nơi cấm hút thuốc.
- Nội dung thực hiện:
Để thực hiện được phương án này cần tiến hành:
+ Xây dựng văn bản để kiện toàn tổ chức, cơ quan và bố trí nhân
sự hợp lý theo bộ, ngành và địa phương tiến tới xây dựng lực lượng chuyên trách
trong xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế.
+ Chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tổ chức và bảo đảm thực
hiện.
- Nguồn lực thực hiện
phương án:
+ Cơ quan thực hiện: Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính phủ ban hành và chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật và tổ chức thực hiện.
+ Kinh phí thực hiện: Kinh phí chi cho khảo sát, thiết kế và
trả lương lớn nên cần có ngân sách của Trung ương chi cho các bộ, ngành và địa
phương khi tổ chức thực hiện.
* Phương án 3: Phân cấp cho Thủ trưởng các cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị-xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính đối với người vi phạm quy định hút thuốc nơi công cộng, công sở.
- Mục tiêu của phương
án: Bảo đảm mọi hành vi hút thuốc đều được nhắc nhở và xử lý nghiêm minh
theo đúng quy định của Chính phủ.
- Nội dung thực hiện:
+ Tiến hành xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo
phân công, phân cấp trách nhiệm thực hiện.
+ Chỉ đạo và tổ chức thực hiện ở các cơ quan được phân cấp.
- Nguồn lực thực hiện
phương án:
+ Cơ quan thực hiện: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xây dựng
văn bản pháp lý và các cơ quan được phân cấp tổ chức thực hiện.
+ Nguồn lực thực hiện phương án: Kinh phí chi cho các cơ quan
theo sự phân cấp ngân sách nhà nước.
IV. LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI
QUYẾT
Ba phương án nêu trên đều có những ưu
điểm và hạn chế nhất định. Song, để lựa chọn được phương án tối ưu nhằm giải
quyết vấn đề trong quản lý nhà nước về môi trường có thể so sánh các ưu, nhược điểm
của mỗi phương án theo bảng sau:
PHƯƠNG ÁN
|
ƯU ĐIỂM
|
NHƯỢC ĐIỂM
|
Phương án 1
|
Tạo ra tính
chủ động trong việc xây dựng các biện pháp ngăn chặn cụ thể theo từng đối tượng
áp dụng thuộc thẩm quyền quản lý; Dễ tiến hành các hoạt động nhằm tránh được
sự chồng chéo chức năng; đỡ lãng phí nguồn nhân lực tổ chức thực hiện và có tính
khả thi cao nhất là đối với đối tượng là cán bộ, công chức thuộc các cơ quan
nhà nước.
|
Khó áp dụng các quy định xử phạt hành chính đối
với những đối tượng không phải là nhân viên trong các tổ chức vì lực lượng mỏng
như hiện nay.
|
Phương án 2
|
Nếu có đủ cơ
cấu, lực lượng để kiểm soát hành vi hút thuốc lá ở mọi lúc, mọi nơi thì phương
án này có nhiều ưu điểm trong việc áp dụng Nghị định số 45 của Chính phủ về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế.
|
Hạn chế về
kinh phí chi trả lương, gia tăng biên số cán bộ, công chức nhà nước và khó khăn
trong tổ chức lực lượng ở các địa bàn, địa phương,...
|
Phương án 3
|
Dễ dàng nhắc
nhở và xử lý người vi phạm ở mọi nơi.
|
Khó khăn
trong công tác ban hành các loại văn bản để phân định chức năng, nhiệm vụ, thẩm
quyền xử phạt vi phạm hành chính; Dễ tạo ra sự trùng lặp, lẫn lộn giữa cơ
quan công quyền và cơ quan ngoài nhà nước, thậm chí một số bộ phận, tổ chức,
cá nhân được hành chính hoá có thể lạm quyền, lộng quyền.
|
Từ những so sánh trên, cho ta thấy phương
án 1 là phương án có nhiều ưu điểm để tổ chức thực hiện. Bởi lẽ, trong điều kiện
nền hành chính công truyền thống như ở nước ta hiện nay rất khó để có thể thực
hiện một cách triệt để khi không có đủ nguồn lực và kinh nghiệm. Mặt khác, phương
án 1 là phương án có nhiều ưu điểm và hạn chế có thể khắc phục được. Do vậy, tiểu
luận lựa chọn phương án 1 là phương án tối ưu để giải quyết tình huống này.
V. GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
5.1. Biện pháp tổ chức thực
hiện phương án tối ưu
Để thực hiện được phương án 1 (phương án tối ưu), trên cơ sở
những nội dung đã được đề cập ở trên, tiểu luận xác định các bước tiến hành cụ
thể như sau:
Bước 1: Xây dựng và ban hành
văn bản quy phạm pháp luật
Chính phủ chỉ đạo cho cơ quan chủ quản là Bộ Y tế, phối hợp với
các cơ quan, ban, ngành khác tiến hành khảo sát thực tế, phân loại đối tượng để
từ đó soạn thảo văn bản trình Chính phủ xem xét ban hành Nghị định. Nghị định
phải thể hiện được các nội dung cơ bản như: Đối tượng và phạm vi áp dụng; thẩm
quyền và trách nhiệm của các cơ quan thực hiện; khen thưởng và xử phạt. Thời
gian để tiến hành khảo sát, phân loại và ban hành Nghị định khoảng 3 tháng.
Bộ y tế, các bộ, ngành, địa phương chủ động xây dựng văn bản dưới dạng Chỉ
thị sau khi có văn bản của Chính phủ để xác định đối với từng đối tượng cụ thể
thuộc lĩnh vực mình quản lý; cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính và các biện pháp bảo đảm thực hiện cụ thể. Cơ quan nào thì quản lý nhân
viên của cơ quan đó và áp dụng các biện pháp xử lý theo quy định chung. Các văn
bản của Trung ương phải đảm bảo tính tạo ra cơ sở pháp lý pháp lý thống nhất
cho các chính quyền địa phương (cơ quan có thẩm quyền chung và cơ quan chuyên môn
có thẩm quyền riêng), các cơ quan, đơn vị, hành chính sự nghiệp của nhà nước xác
định rõ trách nhiệm và biện pháp tổ chức thực hiện. Thời gian thực hiện có thể
là 2 tháng.
Bước 2: Chỉ đạo và tổ chức
thực hiện
Sau khi có văn bản của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương
theo sự chỉ đạo của Chính phủ để tiến hành tổ chức chỉ đạo thực hiện trong ngành,
lĩnh vực và địa phương mình quản lý.
Công tác chỉ đạo phải thực sự kiên quyết, bám sát theo từng
hoạt động của mỗi đầu mối cơ quan được giao. Đặc biệt, phải đảm bảo sự thống nhất
chỉ đạo giữa cơ quan có thẩm quyền chung với cơ quan có thẩm quyền riêng trong
hoạt động quản lý nhà nước. Trong mỗi thời gian, giai đoạn tổ chức thực hiện cần
có tổng kết rút kinh nghiệm theo từng quý, tháng theo hình thức giao ban tại cơ
quan và giao ban giữa các cơ quan.
Công tác tổ chức thực hiện cần nhanh chóng tổ chức nghiêm túc
và đồng loạt tại các cơ quan đã được phân định. Mỗi cơ quan, đơn vị cụ thể cần
xây dựng các kế hoạch phân công theo dõi, kiểm tra, đôn đốc nhắc nhở vi phạm và
tiến hành xử lý hoặc bàn giao những trường hợp vi phạm cho người có thẩm quyền
(Thủ trưởng cơ quan). Hàng tuần, tháng, quý và năm tổ chức sinh hoạt công khai,
dân chủ (có thể tổ chức một buổi riêng hoặc lồng ghép với các buổi sinh hoạt khác
của cơ quan) để tiến hành nêu gương những cán bộ, công chức, viên chức bỏ thuốc;
những trường hợp cố tình vi phạm bị xử lý;...
5.2. Một số kiến nghị
Đối với Trung ương:
- Chính phủ trình báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc trình
Quốc hội (tại kỳ họp gần nhất) để tiến hành đưa vào kế hoạch làm Luật phòng chống
thuốc lá (Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá) làm cơ sở pháp lý cho việc xây
dựng và tổ chức thực hiện vấn đề này trong điều kiện ở Việt Nam trong thời gian
tới.
- Chính phủ cần kiên quyết chỉ đạo và giám sát thực hiện một
cách nghiêm túc nhằm tạo ra tính ổn định và bền vững về thời gian và quy mô. Tránh
tình trạng “Đáng trống bỏ rùi”; “hình thức, qua loa, đại khái”;... để mọi quy định
đều được làm triệt để và đến nơi, đến chốn.
- Bộ Y tế cần chủ động, phối hợp, hiệp đồng với các bộ, ngành
ở Trung ương để bảo đảm việc xây dựng và tổ chức thực hiện theo đúng lộ trình,
nội dung thống nhất trong phạm toàn quốc. Đồng thời, tạo ra kênh thông tin trao
đổi kinh nghiệm, kỹ năng và phối hợp nhịp nhàng trong phát hiện và xử lý các đối
tượng.
Đối với địa phương:
- Chính quyền địa phương các cấp cần thấy rõ trách nhiệm của
mình trong tổ chức thực hiện các quy định ở công sở và chỉ đạo các đơn vị trên địa
bàn tiến hành thực hiện tốt các quy định được giao.
- Ủy ban nhân dân các cấp cần chỉ đạo và phối hợp với các tổ
chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, đoàn thể, tổ chức kinh tế,... nhằm tổ chức
tuyên truyền, vận động nâng cao ý thức tự giác và phát hiện kịp thời các trường
hợp vi phạm để tiến hành xử lý hoặc giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý.
KẾT LUẬN
Hiệu lực và hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, trong đó có
cơ quan quản lý nhà nước được xác định trong Nghị quyết số 17/NQ-TW, Hội nghị lần
thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X ngày 01/8/2007 về “Đẩy mạnh cải cách
hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước”. Theo đó,
khẳng định mối quan hệ biến chứng giữa hiệu lực và hiệu quả hoạt động quản lý
nhà nước trong điều kiện ở nước ta hiện nay. Nếu hiệu lực của quản lý nhà nước
là sự tác động của chủ thể có thẩm quyền được pháp luật xác định một cách rành
mạch (tính trách nhiệm và phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động công vụ được
giao) thì hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước được thể hiện thông qua sự chấp
hành, đồng thuận và hợp tác trong mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước
với các đối tượng thuộc khách thể của hoạt động quản lý. Do vậy, xét dưới khía
cạnh này, thì việc Chính phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ, và chính quyền địa
phương các cấp thực hiện chức năng chấp hành và điều hành đã không đạt được mục
tiêu đặt ra nên hiệu quả thực tế của nó thấp. Chẳng hạn như, tình trạng người hút
thuốc vẫn ngang nhiên, cơ quan có thẩm quyền thì “làm ngơ”, “bỏ mặc” hay thậm
chí “coi như không biết, không liên quan”,... đã phản ánh những thiếu sót từ khâu
ban hành văn bản, chuẩn bị và tổ chức thực hiện các quy định trong thực tế. Mặt
khác, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước là cơ sở quan trọng để
xây dựng nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Những biểu hiện cơ bản: Thứ nhất, pháp
luật được ban hành ra nếu không được tổ chức thực hiện hoặc thực hiện không có
hiệu lực thực thi thì vô hình dung pháp luật đó chỉ tồn tại trên “giấy”. Pháp
luật chỉ khi nó được tồn tại và phát huy hiệu lực trong thực tế thì mới đảm bảo
các mục tiêu, nhiệm vụ mà pháp luật đặt ra theo đó tình hình chấp hành pháp luật
sẽ được đảm bảo thực hiện một cách nghiêm minh, bình đẳng và thống nhất. Ngược
lại, nếu không được tổ chức thực hiện hoặc thực hiện không có hiệu quả làm nảy
sinh tình trạng vi phạm, trật tự kỷ cương bị đảo lộn theo đó nền pháp chế bị
suy giảm. Như vậy, việc tổ chức thực hiện tốt pháp luật trong các lĩnh vực quản
lý là một tất yếu khách quan nhằm xây dựng nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Thứ
hai, pháp chế xã hội chủ nghĩa là môi trường ưu việt để hoạt động quản lý nhà nước
tiến hành một cách hiệu quả nhất. Pháp chế xã hội chủ nghĩa chính là sự đòi hỏi
các chủ thể phải tuân thủ pháp luật nghiêm minh đồng nghĩa với việc pháp chế nhằm
thúc đẩy xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện và đồng bộ theo đó là cơ sở
pháp lý vững chắc để củng cố, tăng cường và bảo đảm cho các hoạt động quản lý
nhà nước được phát huy hiệu lực, hiệu quả trong thực tế.
Thực hiện chính sách cắt giảm thuốc lá,
trong đó có việc hút thuốc lá nơi công cộng là chủ trương, chính sách đúng đắn
của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm sức khoẻ cho con người và phát triển
kinh tế xã hội bền vững. Bởi lẽ, ngoài những tác hại đối với sức khoẻ, hút
thuốc lá còn gây ra những tổn thất lớn về kinh tế cho từng gia đình và toàn xã
hội. Do vậy, cần chủ động xây dựng các biện pháp tổng hợp một mặt nhằm nâng cao
ý thức bảo vệ của cộng đồng và mặt khác, bảo đảm duy trì pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Làm tốt các vấn đề trên vừa là
cơ sở để tăng cường hiệu lực của các văn bản quản lý vừa là cơ sở thực hiện tốt
các cam kết của Việt Nam và trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân trong điều
kiện ở nước ta hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
01.
|
Bộ trưởng Bộ Y tế, Chỉ thị số 08/2001/CT-BYT ngày
03/8/2001 về việc đẩy mạnh hoạt động phòng, chống tác hại của thuốc lá trong
ngành y tế.
|
02.
|
Bộ trưởng Bộ Y tế, Quyết định số 02/2007/QĐ-BYT ngày
15/01/2007 về việc ban hành quy định về vệ sinh an toàn đối với sản phẩm thuốc
lá.
|
03.
|
Bộ trưởng Bộ Y tế, Quyết định số 5281/QĐ-BYT ngày
31/12/2009 về việc ban hành kế hoạch thực hiện Quyết định số 1315/QĐ-TTg của
Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch thực hiện Công ước khung về kiểm soát
thuốc lá trong ngành y tế
|
04.
|
Chính phủ, Nghị định số 45/2005/NĐ-CP ngày 06/4/2005 về xử phạt hành
chính trong lĩnh vực y tế.
|
05.
|
Đảng Cộng sản Việt
|
06.
|
Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị số 12/2007/CT-TTg ngày
10/5/2007 về tăng cường các hoạt động phòng, chống tác hại của thuốc lá.
|
07.
|
Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày
02/8/2007 ban hành kèm theo Quy chế về văn hoá công sở tại các cơ quan hành
chính nhà nước.
|
08.
|
Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1315/QĐ-TTg ngày 21/08/2009 về
việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước khung về kiểm soát thuốc lá.
|
No comments:
Post a Comment