TIN LIÊN QUAN
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 05
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 05
MỤC
LỤC
Trang
|
|
Lời nói đầu
|
2
|
I.Mô tả tình huống
|
2
|
II. Nguyên nhân, hậu
quả
|
4
|
III. Xác định mục
tiêu tình huống
|
9
|
IV. Xây dựng, phân
tích và lựa chọn phương án
|
9
|
V. Lập kế hoạch tổ
chức phương án tối ưu
|
12
|
VI. Kết luận, kiến
nghị
|
15
|
LỜI
NÓI ĐẦU
Trên phạm vi toàn cầu, tai nạn giao
thông là một trong những nguyên nhân
gây thương
vong và tử vong nhiều nhất
cho con
người. Hàng năm, số vụ tai nạn giao thông lại tăng thêm
10% (con số này ở các nước nghèo và đang phát triển, trong đó có Việt Nam cao
hơn tỉ lệ ở các nước công nghiệp phát triển). Phổ biến nhất ở phần lớn các
quốc gia là tai nạn giao thông đường bộ. Tai nạn giao thông đường bộ là tai nạn
giao thông xảy ra đối với những phương tiện giao thông đang tham gia giao thông
trên các tuyến đường bộ hay trên đường chuyên dùng và đối với người đi bộ. Đây
là loại tai nạn thường xảy ra đối với ô tô và xe gắn máy 2 bánh, hậu quả là làm
cho nhiều người bị chết hoặc bị thương, kèm theo đó là các thiệt hại về tài sản,
thời gian, công sức của nhiều gia đình và cơ quan nhà nước khi tham gia giải
quyết vụ việc.
Nguyên nhân của tình trạng
này có rất nhiều, trong đó chủ yếu nhất là do ý thức tham gia giao thông của
người tham gia giao thông còn chưa đầy đủ, cơ sở hạ tầng và phương tiện tham
gia giao thông không đảm bảo điều kiện an toàn…Hiện nay, tai nạn giao thông
đường bộ xảy ra phổ biến, hàng ngày, hàng giờ trên phạm vi cả nước. Vì vậy, quản
lý nhà nước về an toàn giao thông đường bộ nhằm phòng chống tai nạn giao thông một
cách có hiệu quả luôn là vấn đề xã hội được Nhà nước quan tâm giải quyết bằng
nhiều biện pháp cụ thể như về nhận thức, thể chế, thanh tra, kiểm tra, đôn đốc,
truy cứu trách nhiệm hành chính, dân sự, hình sự, kỷ luật…Tuy nhiên, cho đến
nay, tình trạng tai nạn giao thông đường bộ vẫn luôn là vấn đề nhức nhối của
toàn xã hội.
Để góp phần đánh giá đúng
đắn, chính xác vai trò của quản lý nhà nước về giao thông đường bộ và góp phần
tìm ra giải pháp cho vấn đề này, trong phạm vi tiểu luận tình huống quản lý nhà
nước đề cập đến một vụ tai nạn giao thông do một cán bộ, công chức nhà nước gây
ra, trên cơ sở đó phân tích các hệ quả pháp lý kéo theo; việc giải quyết của
các cơ quan chức năng; phân tích nguyên nhân, hậu quả nhằm tìm ra phương án
hiệu quả nhất cho việc giải quyết tình huống đặt ra.
I. Mô tả tình huống
Vào hồi 20 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 2010, trước
cổng trường Trung học phổ thông T thuộc phường TST, thị xã ST, thành phố HN xảy
ra một vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng giữa xe mô tô biển kiểm soát 33H-2478
do Phan Văn T (29 tuổi, là cán bộ của Phòng Tư pháp thị xã ST) điều khiển với
xe mô tô biển kiểm soát 30Y-7302 do Nguyễn Thị P (35 tuổi, là giáo viên trường
mầm non SL) điều khiển. T và P đều cùng cư trú ở phường TST. Khi xảy ra tai
nạn, cả T và P đều được người dân đưa vào bệnh viện để cứu chữa kịp thời. Hậu
quả: T chỉ bị thương nhẹ; hai xe mô tô đều bị hư hỏng nặng, trong đó xe mô tô
của P bị hư hỏng ước tính 20 triệu đồng; P bị thương với tỷ lệ thương tật được
xác định là 20%. Nguyên nhân tai nạn là do Phan Văn T điều khiển phương tiện
chuyển hướng mà không có tín hiệu báo hướng rẽ và theo kết luận của cơ quan
Công an trong hơi thở của T có nồng độ cồn vượt quá 0,4 miligam/1lít khí thở. Ngoài
ra, tại địa điểm đó còn có rất nhiều quán ăn, biển hiệu, phương tiện của khách
để lấn ra hết phần đường dành cho người đi bộ và làm cản trở tầm nhìn quan sát
của người tham gia giao thông. Bên lề đường nơi xảy ra tai nạn còn bề bộn đất
đá được đào lên để cải tạo hệ thống thoát nước chưa kịp lấp. Về phía người bị
thiệt hại: P phải nằm viện 30 ngày do các vết thương ở phần tay, chân, đầu và
đặc biệt là chấn thương về tâm lý khiến chị thường xuyên rơi vào tình trạng hốt
hoảng. Gia đình P ở xa bệnh viện, chồng làm ở một đơn vị quân đội, hai con còn
nhỏ, không có người chăm sóc trong thời gian điều trị nên phải thuê người trông
nom tại bệnh viện và mẹ chị P ở quê phải đến nhà để trông nom và đưa hai cháu
con chị P đi học.
Vụ việc được cơ quan Công an thị xã ST thụ lý giải quyết.
Ngày 7/5/2010, Trưởng Công an thị xã ST ra quyết định xử phạt vi phạm hành
chính số 58/QĐ-XPHC xử phạt T với số tiền là 1.500.000 đồng. Về phía T đề nghị bồi
thường cho P số tiền là 20.000.000 đồng, gồm: 15 triệu đồng đền bù xe mô tô bị
hư hỏng; 5 triệu đồng cho các chi phí khám chữa bệnh tại bệnh viện (trên cơ sở
chứng từ kê khai các khoản viện phí trong thời gian P nằm viện). Từ khi xảy ra
vụ việc cho đến khi có quyết định xử phạt T vẫn được điều khiển xe mô tô. Theo
như dư luận thì việc xử lý T là chưa thoả đáng. Về phía gia đình P không chấp nhận
mức bồi thường do T đặt ra nên hai bên gia đình đã nhiều lần có lời qua, tiếng
lại, thậm chí còn đe doạ nhau giải quyết bằng những biện pháp tiêu cực.
II. Nguyên nhân và
hậu quả
1. Nguyên nhân
a)
Nguyên nhân khách quan
Tai
nạn giao thông và phương án xử lý của các cơ quan chức năng có nguyên nhân
khách quan từ các vấn đề sau:
Thứ
nhất, hiện trạng đường giao thông tại địa điểm xảy ra tai nạn còn nhiều bất cập
như đường hẹp, không có phần đường dành cho các loại phương tiện thô sơ và
người đi bộ, nhiều quán ăn vi phạm quy định về trật tự an toàn giao thông đường
bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị để biển hiệu và phương tiện của khách
lấn chiếm lòng, lề đường khiến đường càng chật hẹp thêm, cản trở người và
phương tiện tham gia giao thông, tăng nguy cơ mất an toàn giao thông.
Thứ hai, công tác quản lý giao thông của chính quyền địa
phương còn hạn chế. Thường vào những đợt triển khai công tác đảm bảo an toàn
giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị thì chính quyền địa
phương (nòng cốt là lực lượng cảnh sát giao thông thuộc Công an thị xã ST và
Công an phường) mới tổ chức kiểm tra, dẹp được các vi phạm lấn chiếm lòng, lề
đường. Bên cạnh đó, việc tổ chức cải tạo hệ thống thoát nước của địa phương
được tiến hành rất thiếu trách nhiệm. Sau khi đào và cải tạo xong thì các lực
lượng bỏ lại đất đá, không san lấp lại mà người dân khi sau nhiều ngày không
thấy các lực lượng đó làm thì tự chủ động làm lấy hoặc phải thuê người san lấp.
Hiện tượng “đánh trống bỏ dùi” đã trở thành hành động thường xuyên của chính
quyền địa phương tại đây.
Thứ
ba, chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính, đặc biệt là trong
trường hợp gây ra tai nạn của T chưa đủ sức răn đe, việc áp dụng chế tài còn
chưa đúng và chưa có biện pháp hữu hiệu để giám sát việc đảm bảo thực thi chế
tài khi được áp dụng. Hành vi vi phạm hành chính của T chỉ bị áp dụng phạt tiền
là không đúng mà theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Nghị định của Chính phủ số
34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực
giao thông đường bộ còn phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là tước quyền
sử dụng giấy phép lái xe (có thời hạn: 60 ngày, nếu gây tai nạn giao thông
nhưng chưa tới mức nghiêm trọng hoặc không có thời hạn, nếu gây tai nạn giao
thông từ mức nghiêm trọng trở lên). Tuy nhiên, mức độ như thế nào được coi là
nghiêm trọng để đánh giá hậu quả là “chưa tới mức nghiêm trọng” hay từ mức
nghiêm trọng trở lên và “trở lên” đến đâu thì truy cứu trách nhiệm hành chính
thì chưa có hướng dẫn cụ thể. Hiện chỉ có thể căn cứ vào nghị quyết số
02/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày 17/4/2003
hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự để xác định ranh giới
giữa vi phạm hành chính với tội phạm được quy định tại Điều 202 Bộ luật hình
sự. Trong trường hợp nếu có áp dụng biện pháp tước quyền sử dụng giấy phép thì
cũng không có cơ chế để kiểm tra, giám sát hay ngăn chặn hành vi tiếp tục sử
dụng xe mô tô của T.
Ngoài
ra, T là cán bộ, công chức vi phạm thì ngoài việc phải gánh chịu trách nhiệm
hành chính như các công dân khác thì còn phải gánh chịu trách nhiệm kỷ luật vì
đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ
tư, do ý thức chấp hành quy tắc về trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật
tự an toàn giao thông đô thị của phần lớn người dân địa phương còn chưa cao,
nhất là các hộ kinh doanh khi việc lấn chiếm lòng, lề đường để kinh doanh đã
trở thành phổ biến. Khách hàng đến ăn uống cũng không quan tâm đến việc phương
tiện của mình có thể gây mất an toàn giao thông cho người khác mà phó mặc cho
nhà hàng. Mặt khác, ý thức xây dựng dân chủ ở cơ sở của người dân chưa cao khi
liên tiếp trong nhiều năm, chính quyền địa phương có nhiều hoạt động về sửa
chữa hệ thống thoát nước, cải tạo các công trình dân sinh nhưng thực hiện không
đến nơi đến chốn mà không hề có sự phản hồi từ phía người dân hoặc có nhưng
không hữu hiệu vì thiếu tính tập thể, tính tổ chức thông qua các tổ chức đoàn
thể của nhân dân.
b)
Nguyên nhân chủ quan
Thứ
nhất, thói quen sinh hoạt uống rượu, bia trước khi điều khiển xe mô tô của phần
lớn cán bộ, công chức hiện nay. Phần lớn công dân Việt Nam, trong đó có đội ngũ
cán bộ, công chức hiện nay vẫn giữ thói quen uống rượu, bia sau giờ làm việc,
tiếp khách cơ quan, khách của cá nhân, sau khi tổ chức hội nghị…với truyền
thống “nam vô tửu như kỳ vô phong” và hiện tượng “quá chén” xảy ra như “cơm
bữa” khiến cho hành vi trở nên thiếu chuẩn mực, thiếu chính xác, là nguy cơ dẫn
đến nhiều biểu hiện tiêu cực, đặc biệt là sau khi uống rượu, bia điều khiển xe
mô tô là nguy cơ rất lớn dẫn đến tai nạn giao thông cho bản thân mình và cho
những người tham gia giao thông khác.
Thứ hai, do ý thức tham gia giao thông còn chưa cao do
chưa hiểu biết đầy đủ các quy tắc an toàn giao thông đường bộ, thậm chí một bộ
phận không nhỏ còn coi thường các quy tắc đó thể hiện ở các hành vi như không
đội mũ bảo hiểm, không sử dụng gương chiếu hậu, không kiểm tra tính năng an
toàn của phương tiện một cách thường xuyên,… nhất là sử dụng rượu, bia khi lái
xe mô tô, không thực hiện các hành vi để đảm bảo an toàn cho mình và những
người tham gia giao thông khác như chạy xe quá tốc độ; vượt, chuyển hướng…không
đúng quy định về an toàn giao thông.
Thứ ba, do tâm lý nể nang đối với đối tượng vi
phạm. T là người làm việc tại cơ quan tư pháp của thị xã ST nên có mối quan hệ
cá nhân với những người làm việc tại cơ quan Công an huyện T, việc áp dụng chế
tài phạt thiếu đầy đủ theo quy định là trái pháp luật.
2. Hậu quả
a)
Về phía Nhà nước
Việc
đặt ra các quy tắc giao thông đường bộ là yêu cầu không thể thiếu đối với Nhà
nước nhằm đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ và ngăn ngừa tai nạn. Khi
ý thức người tham gia giao thông thấp, vi phạm và tai nạn xảy ra nhiều sẽ làm
cho kỷ cương Nhà nước, pháp luật trở nên thiếu hiệu quả trong điều chỉnh hành
vi của cá nhân, tổ chức; làm giảm hiệu lực quản lý và cơ chế quản lý nhà nước
về giao thông đường bộ. Việc Nhà nước phải tăng cường hiệu quả hoạt động của
các lực lượng cảnh sát giao thông (số lượng người, phương tiện, công cụ hỗ trợ,
tài chính đảm bảo), an ninh trật tự và trong những thời điểm nhất định phải huy
động cả sự tham gia của các tổ chức đoàn thể; tăng cường công tác xử lý vi phạm
sẽ tốn kém nhiều chi phí cho ngân sách nhà nước.
b)
Về phía xã hội
Các
tai nạn giao thông đường bộ nói chung có thể kéo theo những thiệt hại khổng lồ
về kinh tế, bao gồm: chi phí mai tang người chết, chi phí y tế cho người bị
thương, thiệt hại về phương tiện giao thông, về hạ tầng, chi phí khắc phục,
điều tra vụ tai nạn giao thông đó, các thiệt hại do hao phí thời gian lao động
của chính người bị tai nạn và cả của những người chăm sóc người đó. Mặt khác,
tai nạn giao thông gây nên những tác động tâm lý cả trước mắt cũng như về lâu
dài đối với mọi người, nó để lại những di chứng về tâm lý hết sức nặng nề cho
người bị tai nạn, người thân của người đó.
c)
Về phía người dân
Sống
trong một quốc gia, một địa phương mà xảy ra quá nhiều tai nạn giao thông thì
sẽ gây nên hiện tượng tâm lý bất an cho người dân, nhất là những người thường
xuyên tham gia giao thông.
Các
tai nạn giao thông không chỉ ảnh hưởng đến những người gây tai nạn và người bị
tai nạn mà còn cả gia đình, thân nhân, bạn bè, đồng nghiệp… của họ. Khi tai nạn
giao thông dẫn đến hậu quả thiệt hại về sức khoẻ, tài sản cho mỗi cá nhân, gia
đình – tế bào của xã hội, thì cũng tức là làm giảm sút các nguồn lực xã hội.
Mặt khác, khi việc xử lý vi phạm của các cơ quan chức năng không nghiêm minh,
không đúng đắn hay lợi ích của các bên không được giải quyết một cách thoả đáng
thì sẽ tiềm ẩn nhiều tiêu cực như sự bất mãn của người dân với cơ quan nhà
nước, các tranh chấp, xích mích giữa các bên với nhau dẫn đến các mâu thuẫn mà
có thể là nguyên nhân dẫn đến các hành vi tiêu cực khác làm mất an ninh và trật
tự an toàn xã hội.
III. Xác định mục tiêu tình huống
Mục
tiêu của tình huống là xác định hành vi vi phạm hành chính của một cán bộ, công
chức trong cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và kết quả xử lý của cơ
quan có thẩm quyền, để từ đó đánh giá hiệu quả công tác quản lý nhà nước về
trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị tại
địa phương, nhằm tìm ra phương án tốt nhất để giải quyết vấn đề đặt ra.
IV. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án
Để
giải quyết vụ việc trên, trong phạm vi tiểu luận đề xuất một số phương án sau:
Tên phương án
|
Ưu điểm
|
Nhược điểm
|
Ra quyết định áp
dụng biện pháp khắc phục hậu quả là tước quyền sử dụng giấy phép lái xe của
T.
|
Khắc phục
quyết định xử phạt hành chính trái pháp luật về mặt nội dung, thể hiện sự công
bằng, nghiêm minh của pháp luật và quyền lực nhà nước, góp phần bảo đảm pháp
chế xã hội chủ nghĩa.
|
Việc đảm bảo
thực hiện chế tài về áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là tước quyền sử
dụng giấy phép lái xe để buộc T không được lái xe trong thời gian bị tước
quyền sử dụng giấy phép không có cơ chế giám sát thực hiện. Mặt khác, xuất
phát từ những lý do mà như nguyên nhân về khách quan, chủ quan đã phân tích
thì việc sửa quyết định xử phạt của Trưởng Công an thị xã ST phải thông qua
chính hành vi của chủ thể đó là rất khó khăn, cần phải thông qua hành vi tố
cáo của P hoặc của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên thị xã cùng thủ
tục giải quyết tố cáo theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo. Như vậy, thời
gian để sửa quyết định xử phạt sẽ rất lâu mà trong thời gian đó các bên có
thể nảy sinh những hành vi tiêu cực do mâu thuẫn phát sinh.
Mặt khác, do
vụ việc xảy ra vào tháng 4, tức thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính chưa hết
nên không thể ban hành quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả một
cách độc lập.
|
Yêu cầu Ban
hoà giải của phường TST hoà giải vụ việc trên.
|
Tiết kiệm được
thời gian và công sức giải quyết vụ việc bằng thủ tục tố tụng dân sự tại Toà
án.
|
Kiến thức pháp
lý của các thành viên trong Ban hoà giải còn hạn chế nên không thể hướng dẫn
các bên thoả thuận một phương án bồi thường hợp lý. Đặc biệt, bên gây thiệt
hại lại là người có kiến thức pháp lý nhưng cố tình không thực hiện bồi
thường thoả đáng theo quy định của pháp luật.
|
Đình chỉ thi
hành và huỷ bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 58/QĐ-XPHC, ban hành
quyết định xử phạt vi phạm vi phạm hành chính mới và hướng dẫn P các thủ tục
cần thiết để khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân thị xã ST.
|
Đảm bảo tính
đúng đắn trong áp dụng chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với T.
Ngăn chặn các
hành vi tiêu cực có thể phát sinh do mâu thuẫn giữa các bên, giúp cho P tìm
kiếm phương tiện bảo vệ quyền lợi của mình một cách hợp pháp.
|
Quá trình giải
quyết vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự phải tốn kém về thời gian, tiêu tốn
công sức của các bên khi tham gia vào các giai đoạn tố tụng.
|
Trong các phương án trên, phương án
thứ 3 là tối ưu hơn cả bởi nó đáp ứng được nhiều nhất các yêu cầu của pháp luật
trong giải quyết vụ việc, đồng thời tạo nền tảng vững chắc cho việc bảo đảm
nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong thực hiện các công việc của Nhà nước
và xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
V. Lập kế hoạch tổ chức phương án tối ưu
Để
thực hiện phương án tối ưu, cần phải thực hiện một số bước cụ thể như sau:
STT
|
Các bước
|
Chủ thể thực hiện
|
1
|
1.Giải quyết lại toàn bộ vụ việc theo
quy định của pháp luật
|
Công an thị xã
ST
|
a) Xem xét lại toàn bộ các bước trong
trình tự điều tra, giải quyết tai nạn giao thông đường bộ theo quy định tại
Quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an số 18/2007/QĐ-BCA ngày 05/1/2007 ban hành
quy trình điều tra giải quyết tai nạn giao thông đường bộ do cán bộ thụ lý vụ
việc của mình thực hiện.
|
||
b) Ra quyết
định huỷ bỏ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 58/QĐ-XPHC và ban hành
quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới theo hướng giữ nguyên mức phạt tiền
1.500.000 đồng và bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả tước quyền sử dụng giấy
phép lái xe có thời hạn (60 ngày) vì theo quy định tại Nghị quyết của Hội
đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 02/2003/NQ-HĐTP, trường hợp vi phạm
của T không thuộc một trong các tình tiết “gây thiệt hại nghiêm trọng”, “gây
hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại
Điều 202 Bộ luật hình sự.
|
Trưởng Công an
thị xã ST
|
|
c)Trong thời
gian 3 ngày, kể từ ngày ban hành quyết định yêu cầu T đến Công an thị xã ST
để nhận hai quyết định nói trên và thi hành ngay trong thời hạn 10 ngày, kể
từ ngày được giao quyết định.
|
Đội Cảnh sát
giao thông Công an thị xã ST
|
|
d)Thông báo vụ
việc trên bằng công văn cho cơ quan (Phòng tư pháp) nơi T công tác để thực
hiện các biện pháp xử lý kỷ luật theo quy định của Luật cán bộ, công chức.
|
Công an thị xã
ST
|
|
e)Hướng dẫn
cho P liên hệ với Toà án nhân dân thị xã ST để giải quyết việc bồi thường
theo thủ tục tố tụng dân sự.
|
||
2
|
Xử lý kỷ luật
đối với T
|
Uỷ ban nhân
dân thị xã ST
|
Phòng Tư pháp
xem xét trách nhiệm của T với tư cách là đảng viên sinh hoạt tại Chi bộ vì đã
không chấp hành các quy định pháp luật về an toàn giao thông đường bộ.
|
Bí thư chi bộ
|
|
Xem xét trách
nhiệm của cán bộ, công chức trong thực hiện pháp luật và cam kết đảm bảo an
toàn giao thông đường bộ đã ký kết.
|
Phòng Tư pháp
|
|
Thành lập Hội
đồng xem xét kỷ luật cán bộ, công chức để xem xét kỷ luật đối với T.
|
Uỷ ban nhân
dân thị xã ST.
|
|
Ra quyết định
xử lý kỷ luật bằng hình thức được quy định trong Luật cán bộ, công chức và tổ
chức thực hiện quyết định.
|
Chủ tịch UBND
thị xã ST
|
|
3
|
Giải quyết yêu
cầu đòi bồi thường thiệt hại của P theo thủ tục tố tụng dân sự.
|
Toà án nhân
dân thị xã ST
|
Căn cứ quy
định tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số
01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật
dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại của T. Theo đó, T phải trả cho P các chi phí do sức khoẻ bị
xâm phạm gồm:
-
Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa,
bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của P bao gồm:
tiền thuê phương tiện đưa P đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua
các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét
nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền
viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho P
theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho P (nếu có)
…
|
||
-
Chi phí hợp lý và phần thu nhập
thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều
trị, gồm: tiền tàu, xe đi lại , tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa
phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc
cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu
cầu của cả sở y tế.
|
||
Bên cạnh các khoản bồi thường thiệt hại nói trên, T cũng phải bồi thường một khoản tiền khác
để bù đắp tổn thất về tinh thần mà P gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần
tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
|
||
Bồi thường toàn bộ chi phí khắc phục tài sản là xe mô
tô của P đã bị hư hỏng trên cơ sở kết luân giám định của cơ quan Công an.
|
VI. Kết luận và
kiến nghị
1.
Kết luận
Kể
từ năm 1896 khi mà chiếc ô tô chạy thử đầu tiên xuất xưởng tại Anh cán chết 2
người và 3 năm sau ở Mỹ mới có một người chết do ô tô gây nên thì từ đó những
cái chết và thương tích do phương tiện giao thông gây nên ngày một nhiều. Ngày
nay, tai nạn giao thông đã trở nên phức tạp, đa dạng hơn rất nhiều, nhất là tai
nạn giao thông đường bộ do ô tô, xe 2 bánh gây ra. Theo đánh giá của các chuyên
gia kinh tế thì đây là một hiểm hoạ không chỉ cho riêng Việt Nam mà của nhiều
quốc gia khác trên thế giới, bởi nó là một trong những nguyên nhân gây tử vong
hàng đầu cho người, trung
bình mỗi năm có trên dưới 10 triệu người tử vong vì TBGTĐB và hàng chục triệu
người khác bị thương tích. Cùng với đó là những thiệt hại khổng lồ về kinh tế,
bao gồm: chi phí mai táng người chết, chi phí y tế cho người bị thương, thiệt
hại về phương tiện giao thông, về hạ tầng, chi phí khắc phục, điều tra vụ TNGT
đó cùng với thiệt hại do hao phí thời gian lao động của chính người bị tai nạn
và cả của những người chăm sóc người đó. Mặt khác TNGT gây nên những tác động
tâm lý cả trước mắt cũng như về lâu dài đối với mọi người, nó để lại nhũng di
chứng về tâm lý hết sức nặng nề cho người bị tai nạn, người thân của người đó
và nếu như trong một địa phương, một quốc gia xảy ra TNGT quá nhiều sẽ gây nên
hiện tượng bất an cho cư dân ở đó.
2. Kiến nghị
Để hạn chế và giải
quyết tốt tai nạn giao thông trong những tình huống tương tự như trên, trong
phạm vi tiểu luận kiến nghị một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, đối với Bộ
Giao thông vận tải: cần tích cực triển khai tuyên truyền, phổ biến, giáo dục
pháp luật về giao thông đường bộ cho nhân dân, cho đội ngũ cán bộ, công chức ở
các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Kiến nghị với Chính phủ sửa
đổi Nghị định số 34/2010/NĐ-CP về việc khi đã tước quyền sử dụng giấy phép lái
xe thì phải tạm giữ phương tiện trong thời gian đó, đồng thời khi phát hiện
người bị xử phạt tiếp tục điều khiển xe mô tô trong thời gian bị tước quyền sử
dụng giấy phép thì sẽ tịch thu phương tiện của người đó đang bị tạm giữ, chứ
không chỉ xử phạt vi phạm hành chính mới có tình tiết tăng nặng kèm theo. Mặt
khác, cần sớm ban hành thông tư hướng dẫn Nghị định 34/2010/NĐ-CP để tạo điều
kiện cho các cơ quan chức năng áp dụng đúng chế tài xử phạt. Tích cực triển
khai các dự án cải tạo hệ thống giao thông đáp ứng yêu cầu thực tế.
Thứ hai, đối với chính
quyền thị xã ST: đề cao trách nhiệm trong kiểm tra việc thực hiện pháp luật về
an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn và xử lý nghiêm minh các hộ dân lấn
chiếm lòng lề đường để kinh doanh , đặc biệt là tránh tái diễn “đánh trống bỏ
dùi” trong cải tạo các công trình dân sinh như thời gian qua.
Mặt khác, tích cực
tuyên truyền, phổ biến pháp luật về giao thông đường bộ trên địa bàn, phát huy
vai trò của các Tổ hoà giải ở địa phương nhằm người bị tai nạn giao thông hoà
giải, thoả thuận mức bồi thường hợp lý, không để phải giải quyết theo thủ tục
tố tụng dân sự, tạo gánh nặng cho các cơ quan tư pháp.
Tai
nạn giao thông và việc giải quyết tai nạn giao thông vốn dĩ rất phức tạp, đặc
biệt là với những vụ việc gây nên hậu quả nghiêm trọng như chết người, tổn hại
cho sức khoẻ của người tham gia giao thông, hư hại tài sản…Chính vì vậy, đây
không chỉ là vấn đề mà các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương quan
tâm mà là nỗi lo lắng của toàn xã hội khi mà ý thức tham gia giao thông của đại
bộ phận quần chúng nhân dân còn thấp, ngay cán bộ, công chức nhà nước - những
người làm việc cho Nhà nước, thường xuyên thực hiện pháp luật cũng không am
hiểu và không gương mẫu trong chấp hành các quy tắc an toàn giao thông đường
bộ.
TÀI
LIỆU THAM KHẢO
3. Bộ Công an, Quyết định số 18/2007/QĐ-BCA ngày
05/01/2007 ban hành quy trình điều tra giải quyết tai nạn giao thông đường bộ;
4. Chính phủ, Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010
quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ;
5. Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số
01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật
dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
6. Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP
ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự;
7. Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh xư lý vi phạm
hành chính năm 2002;
No comments:
Post a Comment