Saturday, December 5, 2015

TIỂU LUẬN TÌNH HUỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC THAM KHẢO SỐ 06

TIN LIÊN QUAN
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 05


MỤC LỤC

Trang
Lời nói đầu
2
I.Mô tả tình huống
2
II. Nguyên nhân, hậu quả
4
III. Xác định mục tiêu tình huống
9
IV. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án
9
V. Lập kế hoạch tổ chức phương án tối ưu
12
VI. Kết luận, kiến nghị
15




LỜI NÓI ĐẦU
          Trên phạm vi toàn cầu, tai nạn giao thông là một trong những nguyên nhân gây thương vong và tử vong nhiều nhất cho con người. Hàng năm, số vụ tai nạn giao thông lại tăng thêm 10% (con số này ở các nước nghèo và đang phát triển, trong đó có Việt Nam cao hơn tỉ lệ ở các nước công nghiệp phát triển). Phổ biến nhất ở phần lớn các quốc gia là tai nạn giao thông đường bộ. Tai nạn giao thông đường bộ là tai nạn giao thông xảy ra đối với những phương tiện giao thông đang tham gia giao thông trên các tuyến đường bộ hay trên đường chuyên dùng và đối với người đi bộ. Đây là loại tai nạn thường xảy ra đối với ô tô và xe gắn máy 2 bánh, hậu quả là làm cho nhiều người bị chết hoặc bị thương, kèm theo đó là các thiệt hại về tài sản, thời gian, công sức của nhiều gia đình và cơ quan nhà nước khi tham gia giải quyết vụ việc.
          Nguyên nhân của tình trạng này có rất nhiều, trong đó chủ yếu nhất là do ý thức tham gia giao thông của người tham gia giao thông còn chưa đầy đủ, cơ sở hạ tầng và phương tiện tham gia giao thông không đảm bảo điều kiện an toàn…Hiện nay, tai nạn giao thông đường bộ xảy ra phổ biến, hàng ngày, hàng giờ trên phạm vi cả nước. Vì vậy, quản lý nhà nước về an toàn giao thông đường bộ nhằm phòng chống tai nạn giao thông một cách có hiệu quả luôn là vấn đề xã hội được Nhà nước quan tâm giải quyết bằng nhiều biện pháp cụ thể như về nhận thức, thể chế, thanh tra, kiểm tra, đôn đốc, truy cứu trách nhiệm hành chính, dân sự, hình sự, kỷ luật…Tuy nhiên, cho đến nay, tình trạng tai nạn giao thông đường bộ vẫn luôn là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội.
          Để góp phần đánh giá đúng đắn, chính xác vai trò của quản lý nhà nước về giao thông đường bộ và góp phần tìm ra giải pháp cho vấn đề này, trong phạm vi tiểu luận tình huống quản lý nhà nước đề cập đến một vụ tai nạn giao thông do một cán bộ, công chức nhà nước gây ra, trên cơ sở đó phân tích các hệ quả pháp lý kéo theo; việc giải quyết của các cơ quan chức năng; phân tích nguyên nhân, hậu quả nhằm tìm ra phương án hiệu quả nhất cho việc giải quyết tình huống đặt ra.
I. Mô tả tình huống
Vào hồi 20 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 2010, trước cổng trường Trung học phổ thông T thuộc phường TST, thị xã ST, thành phố HN xảy ra một vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng giữa xe mô tô biển kiểm soát 33H-2478 do Phan Văn T (29 tuổi, là cán bộ của Phòng Tư pháp thị xã ST) điều khiển với xe mô tô biển kiểm soát 30Y-7302 do Nguyễn Thị P (35 tuổi, là giáo viên trường mầm non SL) điều khiển. T và P đều cùng cư trú ở phường TST. Khi xảy ra tai nạn, cả T và P đều được người dân đưa vào bệnh viện để cứu chữa kịp thời. Hậu quả: T chỉ bị thương nhẹ; hai xe mô tô đều bị hư hỏng nặng, trong đó xe mô tô của P bị hư hỏng ước tính 20 triệu đồng; P bị thương với tỷ lệ thương tật được xác định là 20%. Nguyên nhân tai nạn là do Phan Văn T điều khiển phương tiện chuyển hướng mà không có tín hiệu báo hướng rẽ và theo kết luận của cơ quan Công an trong hơi thở của T có nồng độ cồn vượt quá 0,4 miligam/1lít khí thở. Ngoài ra, tại địa điểm đó còn có rất nhiều quán ăn, biển hiệu, phương tiện của khách để lấn ra hết phần đường dành cho người đi bộ và làm cản trở tầm nhìn quan sát của người tham gia giao thông. Bên lề đường nơi xảy ra tai nạn còn bề bộn đất đá được đào lên để cải tạo hệ thống thoát nước chưa kịp lấp. Về phía người bị thiệt hại: P phải nằm viện 30 ngày do các vết thương ở phần tay, chân, đầu và đặc biệt là chấn thương về tâm lý khiến chị thường xuyên rơi vào tình trạng hốt hoảng. Gia đình P ở xa bệnh viện, chồng làm ở một đơn vị quân đội, hai con còn nhỏ, không có người chăm sóc trong thời gian điều trị nên phải thuê người trông nom tại bệnh viện và mẹ chị P ở quê phải đến nhà để trông nom và đưa hai cháu con chị P đi học.
Vụ việc được cơ quan Công an thị xã ST thụ lý giải quyết. Ngày 7/5/2010, Trưởng Công an thị xã ST ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 58/QĐ-XPHC xử phạt T với số tiền là 1.500.000 đồng. Về phía T đề nghị bồi thường cho P số tiền là 20.000.000 đồng, gồm: 15 triệu đồng đền bù xe mô tô bị hư hỏng; 5 triệu đồng cho các chi phí khám chữa bệnh tại bệnh viện (trên cơ sở chứng từ kê khai các khoản viện phí trong thời gian P nằm viện). Từ khi xảy ra vụ việc cho đến khi có quyết định xử phạt T vẫn được điều khiển xe mô tô. Theo như dư luận thì việc xử lý T là chưa thoả đáng. Về phía gia đình P không chấp nhận mức bồi thường do T đặt ra nên hai bên gia đình đã nhiều lần có lời qua, tiếng lại, thậm chí còn đe doạ nhau giải quyết bằng những biện pháp tiêu cực.
II. Nguyên nhân và hậu quả
1.     Nguyên nhân
a)    Nguyên nhân khách quan
Tai nạn giao thông và phương án xử lý của các cơ quan chức năng có nguyên nhân khách quan từ các vấn đề sau:
Thứ nhất, hiện trạng đường giao thông tại địa điểm xảy ra tai nạn còn nhiều bất cập như đường hẹp, không có phần đường dành cho các loại phương tiện thô sơ và người đi bộ, nhiều quán ăn vi phạm quy định về trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị để biển hiệu và phương tiện của khách lấn chiếm lòng, lề đường khiến đường càng chật hẹp thêm, cản trở người và phương tiện tham gia giao thông, tăng nguy cơ mất an toàn giao thông.
Thứ hai, công tác quản lý giao thông của chính quyền địa phương còn hạn chế. Thường vào những đợt triển khai công tác đảm bảo an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị thì chính quyền địa phương (nòng cốt là lực lượng cảnh sát giao thông thuộc Công an thị xã ST và Công an phường) mới tổ chức kiểm tra, dẹp được các vi phạm lấn chiếm lòng, lề đường. Bên cạnh đó, việc tổ chức cải tạo hệ thống thoát nước của địa phương được tiến hành rất thiếu trách nhiệm. Sau khi đào và cải tạo xong thì các lực lượng bỏ lại đất đá, không san lấp lại mà người dân khi sau nhiều ngày không thấy các lực lượng đó làm thì tự chủ động làm lấy hoặc phải thuê người san lấp. Hiện tượng “đánh trống bỏ dùi” đã trở thành hành động thường xuyên của chính quyền địa phương tại đây.
Thứ ba, chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính, đặc biệt là trong trường hợp gây ra tai nạn của T chưa đủ sức răn đe, việc áp dụng chế tài còn chưa đúng và chưa có biện pháp hữu hiệu để giám sát việc đảm bảo thực thi chế tài khi được áp dụng. Hành vi vi phạm hành chính của T chỉ bị áp dụng phạt tiền là không đúng mà theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Nghị định của Chính phủ số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ còn phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là tước quyền sử dụng giấy phép lái xe (có thời hạn: 60 ngày, nếu gây tai nạn giao thông nhưng chưa tới mức nghiêm trọng hoặc không có thời hạn, nếu gây tai nạn giao thông từ mức nghiêm trọng trở lên). Tuy nhiên, mức độ như thế nào được coi là nghiêm trọng để đánh giá hậu quả là “chưa tới mức nghiêm trọng” hay từ mức nghiêm trọng trở lên và “trở lên” đến đâu thì truy cứu trách nhiệm hành chính thì chưa có hướng dẫn cụ thể. Hiện chỉ có thể căn cứ vào nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự để xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính với tội phạm được quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp nếu có áp dụng biện pháp tước quyền sử dụng giấy phép thì cũng không có cơ chế để kiểm tra, giám sát hay ngăn chặn hành vi tiếp tục sử dụng xe mô tô của T.
Ngoài ra, T là cán bộ, công chức vi phạm thì ngoài việc phải gánh chịu trách nhiệm hành chính như các công dân khác thì còn phải gánh chịu trách nhiệm kỷ luật vì đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ tư, do ý thức chấp hành quy tắc về trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị của phần lớn người dân địa phương còn chưa cao, nhất là các hộ kinh doanh khi việc lấn chiếm lòng, lề đường để kinh doanh đã trở thành phổ biến. Khách hàng đến ăn uống cũng không quan tâm đến việc phương tiện của mình có thể gây mất an toàn giao thông cho người khác mà phó mặc cho nhà hàng. Mặt khác, ý thức xây dựng dân chủ ở cơ sở của người dân chưa cao khi liên tiếp trong nhiều năm, chính quyền địa phương có nhiều hoạt động về sửa chữa hệ thống thoát nước, cải tạo các công trình dân sinh nhưng thực hiện không đến nơi đến chốn mà không hề có sự phản hồi từ phía người dân hoặc có nhưng không hữu hiệu vì thiếu tính tập thể, tính tổ chức thông qua các tổ chức đoàn thể của nhân dân.
b)    Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, thói quen sinh hoạt uống rượu, bia trước khi điều khiển xe mô tô của phần lớn cán bộ, công chức hiện nay. Phần lớn công dân Việt Nam, trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay vẫn giữ thói quen uống rượu, bia sau giờ làm việc, tiếp khách cơ quan, khách của cá nhân, sau khi tổ chức hội nghị…với truyền thống “nam vô tửu như kỳ vô phong” và hiện tượng “quá chén” xảy ra như “cơm bữa” khiến cho hành vi trở nên thiếu chuẩn mực, thiếu chính xác, là nguy cơ dẫn đến nhiều biểu hiện tiêu cực, đặc biệt là sau khi uống rượu, bia điều khiển xe mô tô là nguy cơ rất lớn dẫn đến tai nạn giao thông cho bản thân mình và cho những người tham gia giao thông khác.
Thứ hai, do ý thức tham gia giao thông còn chưa cao do chưa hiểu biết đầy đủ các quy tắc an toàn giao thông đường bộ, thậm chí một bộ phận không nhỏ còn coi thường các quy tắc đó thể hiện ở các hành vi như không đội mũ bảo hiểm, không sử dụng gương chiếu hậu, không kiểm tra tính năng an toàn của phương tiện một cách thường xuyên,… nhất là sử dụng rượu, bia khi lái xe mô tô, không thực hiện các hành vi để đảm bảo an toàn cho mình và những người tham gia giao thông khác như chạy xe quá tốc độ; vượt, chuyển hướng…không đúng quy định về an toàn giao thông.
 Thứ ba, do tâm lý nể nang đối với đối tượng vi phạm. T là người làm việc tại cơ quan tư pháp của thị xã ST nên có mối quan hệ cá nhân với những người làm việc tại cơ quan Công an huyện T, việc áp dụng chế tài phạt thiếu đầy đủ theo quy định là trái pháp luật.
2.     Hậu quả
a)    Về phía Nhà nước
Việc đặt ra các quy tắc giao thông đường bộ là yêu cầu không thể thiếu đối với Nhà nước nhằm đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ và ngăn ngừa tai nạn. Khi ý thức người tham gia giao thông thấp, vi phạm và tai nạn xảy ra nhiều sẽ làm cho kỷ cương Nhà nước, pháp luật trở nên thiếu hiệu quả trong điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức; làm giảm hiệu lực quản lý và cơ chế quản lý nhà nước về giao thông đường bộ. Việc Nhà nước phải tăng cường hiệu quả hoạt động của các lực lượng cảnh sát giao thông (số lượng người, phương tiện, công cụ hỗ trợ, tài chính đảm bảo), an ninh trật tự và trong những thời điểm nhất định phải huy động cả sự tham gia của các tổ chức đoàn thể; tăng cường công tác xử lý vi phạm sẽ tốn kém nhiều chi phí cho ngân sách nhà nước.
b)    Về phía xã hội
Các tai nạn giao thông đường bộ nói chung có thể kéo theo những thiệt hại khổng lồ về kinh tế, bao gồm: chi phí mai tang người chết, chi phí y tế cho người bị thương, thiệt hại về phương tiện giao thông, về hạ tầng, chi phí khắc phục, điều tra vụ tai nạn giao thông đó, các thiệt hại do hao phí thời gian lao động của chính người bị tai nạn và cả của những người chăm sóc người đó. Mặt khác, tai nạn giao thông gây nên những tác động tâm lý cả trước mắt cũng như về lâu dài đối với mọi người, nó để lại những di chứng về tâm lý hết sức nặng nề cho người bị tai nạn, người thân của người đó.
c)     Về phía người dân
Sống trong một quốc gia, một địa phương mà xảy ra quá nhiều tai nạn giao thông thì sẽ gây nên hiện tượng tâm lý bất an cho người dân, nhất là những người thường xuyên tham gia giao thông.
Các tai nạn giao thông không chỉ ảnh hưởng đến những người gây tai nạn và người bị tai nạn mà còn cả gia đình, thân nhân, bạn bè, đồng nghiệp… của họ. Khi tai nạn giao thông dẫn đến hậu quả thiệt hại về sức khoẻ, tài sản cho mỗi cá nhân, gia đình – tế bào của xã hội, thì cũng tức là làm giảm sút các nguồn lực xã hội. Mặt khác, khi việc xử lý vi phạm của các cơ quan chức năng không nghiêm minh, không đúng đắn hay lợi ích của các bên không được giải quyết một cách thoả đáng thì sẽ tiềm ẩn nhiều tiêu cực như sự bất mãn của người dân với cơ quan nhà nước, các tranh chấp, xích mích giữa các bên với nhau dẫn đến các mâu thuẫn mà có thể là nguyên nhân dẫn đến các hành vi tiêu cực khác làm mất an ninh và trật tự an toàn xã hội.
III. Xác định mục tiêu tình huống
Mục tiêu của tình huống là xác định hành vi vi phạm hành chính của một cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và kết quả xử lý của cơ quan có thẩm quyền, để từ đó đánh giá hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị tại địa phương, nhằm tìm ra phương án tốt nhất để giải quyết vấn đề đặt ra.
IV. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án
Để giải quyết vụ việc trên, trong phạm vi tiểu luận đề xuất một số phương án sau:
Tên phương án
Ưu điểm
Nhược điểm
Ra quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là tước quyền sử dụng giấy phép lái xe của T.
Khắc phục quyết định xử phạt hành chính trái pháp luật về mặt nội dung, thể hiện sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật và quyền lực nhà nước, góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Việc đảm bảo thực hiện chế tài về áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là tước quyền sử dụng giấy phép lái xe để buộc T không được lái xe trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép không có cơ chế giám sát thực hiện. Mặt khác, xuất phát từ những lý do mà như nguyên nhân về khách quan, chủ quan đã phân tích thì việc sửa quyết định xử phạt của Trưởng Công an thị xã ST phải thông qua chính hành vi của chủ thể đó là rất khó khăn, cần phải thông qua hành vi tố cáo của P hoặc của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên thị xã cùng thủ tục giải quyết tố cáo theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo. Như vậy, thời gian để sửa quyết định xử phạt sẽ rất lâu mà trong thời gian đó các bên có thể nảy sinh những hành vi tiêu cực do mâu thuẫn phát sinh.
Mặt khác, do vụ việc xảy ra vào tháng 4, tức thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính chưa hết nên không thể ban hành quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả một cách độc lập.
Yêu cầu Ban hoà giải của phường TST hoà giải vụ việc trên.
Tiết kiệm được thời gian và công sức giải quyết vụ việc bằng thủ tục tố tụng dân sự tại Toà án.
Kiến thức pháp lý của các thành viên trong Ban hoà giải còn hạn chế nên không thể hướng dẫn các bên thoả thuận một phương án bồi thường hợp lý. Đặc biệt, bên gây thiệt hại lại là người có kiến thức pháp lý nhưng cố tình không thực hiện bồi thường thoả đáng theo quy định của pháp luật.
Đình chỉ thi hành và huỷ bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 58/QĐ-XPHC, ban hành quyết định xử phạt vi phạm vi phạm hành chính mới và hướng dẫn P các thủ tục cần thiết để khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân thị xã ST.
Đảm bảo tính đúng đắn trong áp dụng chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với T.
Ngăn chặn các hành vi tiêu cực có thể phát sinh do mâu thuẫn giữa các bên, giúp cho P tìm kiếm phương tiện bảo vệ quyền lợi của mình một cách hợp pháp.
Quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự phải tốn kém về thời gian, tiêu tốn công sức của các bên khi tham gia vào các giai đoạn tố tụng.
          Trong các phương án trên, phương án thứ 3 là tối ưu hơn cả bởi nó đáp ứng được nhiều nhất các yêu cầu của pháp luật trong giải quyết vụ việc, đồng thời tạo nền tảng vững chắc cho việc bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong thực hiện các công việc của Nhà nước và xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
V. Lập kế hoạch tổ chức phương án tối ưu
Để thực hiện phương án tối ưu, cần phải thực hiện một số bước cụ thể như sau:
STT
Các bước
Chủ thể thực hiện
1
1.Giải quyết lại toàn bộ vụ việc theo quy định của pháp luật
Công an thị xã ST
a) Xem xét lại toàn bộ các bước trong trình tự điều tra, giải quyết tai nạn giao thông đường bộ theo quy định tại Quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an số 18/2007/QĐ-BCA ngày 05/1/2007 ban hành quy trình điều tra giải quyết tai nạn giao thông đường bộ do cán bộ thụ lý vụ việc của mình thực hiện.
b) Ra quyết định huỷ bỏ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 58/QĐ-XPHC và ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới theo hướng giữ nguyên mức phạt tiền 1.500.000 đồng và bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn (60 ngày) vì theo quy định tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 02/2003/NQ-HĐTP, trường hợp vi phạm của T không thuộc một trong các tình tiết “gây thiệt hại nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự.
Trưởng Công an thị xã ST
c)Trong thời gian 3 ngày, kể từ ngày ban hành quyết định yêu cầu T đến Công an thị xã ST để nhận hai quyết định nói trên và thi hành ngay trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày được giao quyết định.
Đội Cảnh sát giao thông Công an thị xã ST
d)Thông báo vụ việc trên bằng công văn cho cơ quan (Phòng tư pháp) nơi T công tác để thực hiện các biện pháp xử lý kỷ luật theo quy định của Luật cán bộ, công chức.
Công an thị xã ST
e)Hướng dẫn cho P liên hệ với Toà án nhân dân thị xã ST để giải quyết việc bồi thường theo thủ tục tố tụng dân sự.
2
Xử lý kỷ luật đối với T
Uỷ ban nhân dân thị xã ST
Phòng Tư pháp xem xét trách nhiệm của T với tư cách là đảng viên sinh hoạt tại Chi bộ vì đã không chấp hành các quy định pháp luật về an toàn giao thông đường bộ.
Bí thư chi bộ
Xem xét trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực hiện pháp luật và cam kết đảm bảo an toàn giao thông đường bộ đã ký kết.
Phòng Tư pháp
Thành lập Hội đồng xem xét kỷ luật cán bộ, công chức để xem xét kỷ luật đối với T.
Uỷ ban nhân dân thị xã ST.
Ra quyết định xử lý kỷ luật bằng hình thức được quy định trong Luật cán bộ, công chức và tổ chức thực hiện quyết định.
Chủ tịch UBND thị xã ST
3
Giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của P theo thủ tục tố tụng dân sự.
Toà án nhân dân thị xã ST
Căn cứ quy định tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của T. Theo đó, T phải trả cho P các chi phí do sức khoẻ bị xâm phạm gồm:
-         Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của P bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa P đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho P theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho P (nếu có) …
-         Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, gồm: tiền tàu, xe đi lại , tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cả sở y tế.
Bên cạnh các khoản bồi thường thiệt hại nói trên, T cũng phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà P gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Bồi thường toàn bộ chi phí khắc phục tài sản là xe mô tô của P đã bị hư hỏng trên cơ sở kết luân giám định của cơ quan Công an.

VI. Kết luận và kiến nghị
1.     Kết luận
Kể từ năm 1896 khi mà chiếc ô tô chạy thử đầu tiên xuất xưởng tại Anh cán chết 2 người và 3 năm sau ở Mỹ mới có một người chết do ô tô gây nên thì từ đó những cái chết và thương tích do phương tiện giao thông gây nên ngày một nhiều. Ngày nay, tai nạn giao thông đã trở nên phức tạp, đa dạng hơn rất nhiều, nhất là tai nạn giao thông đường bộ do ô tô, xe 2 bánh gây ra. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì đây là một hiểm hoạ không chỉ cho riêng Việt Nam mà của nhiều quốc gia khác trên thế giới, bởi nó là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho  người,  trung bình mỗi năm có trên dưới 10 triệu người tử vong vì TBGTĐB và hàng chục triệu người khác bị thương tích. Cùng với đó là những thiệt hại khổng lồ về kinh tế, bao gồm: chi phí mai táng người chết, chi phí y tế cho người bị thương, thiệt hại về phương tiện giao thông, về hạ tầng, chi phí khắc phục, điều tra vụ TNGT đó cùng với thiệt hại do hao phí thời gian lao động của chính người bị tai nạn và cả của những người chăm sóc người đó. Mặt khác TNGT gây nên những tác động tâm lý cả trước mắt cũng như về lâu dài đối với mọi người, nó để lại nhũng di chứng về tâm lý hết sức nặng nề cho người bị tai nạn, người thân của người đó và nếu như trong một địa phương, một quốc gia xảy ra TNGT quá nhiều sẽ gây nên hiện tượng bất an cho cư dân ở đó.
2.     Kiến nghị
Để hạn chế và giải quyết tốt tai nạn giao thông trong những tình huống tương tự như trên, trong phạm vi tiểu luận kiến nghị một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, đối với Bộ Giao thông vận tải: cần tích cực triển khai tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông đường bộ cho nhân dân, cho đội ngũ cán bộ, công chức ở các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Kiến nghị với Chính phủ sửa đổi Nghị định số 34/2010/NĐ-CP về việc khi đã tước quyền sử dụng giấy phép lái xe thì phải tạm giữ phương tiện trong thời gian đó, đồng thời khi phát hiện người bị xử phạt tiếp tục điều khiển xe mô tô trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép thì sẽ tịch thu phương tiện của người đó đang bị tạm giữ, chứ không chỉ xử phạt vi phạm hành chính mới có tình tiết tăng nặng kèm theo. Mặt khác, cần sớm ban hành thông tư hướng dẫn Nghị định 34/2010/NĐ-CP để tạo điều kiện cho các cơ quan chức năng áp dụng đúng chế tài xử phạt. Tích cực triển khai các dự án cải tạo hệ thống giao thông đáp ứng yêu cầu thực tế.
Thứ hai, đối với chính quyền thị xã ST: đề cao trách nhiệm trong kiểm tra việc thực hiện pháp luật về an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn và xử lý nghiêm minh các hộ dân lấn chiếm lòng lề đường để kinh doanh , đặc biệt là tránh tái diễn “đánh trống bỏ dùi” trong cải tạo các công trình dân sinh như thời gian qua.
Mặt khác, tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật về giao thông đường bộ trên địa bàn, phát huy vai trò của các Tổ hoà giải ở địa phương nhằm người bị tai nạn giao thông hoà giải, thoả thuận mức bồi thường hợp lý, không để phải giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự, tạo gánh nặng cho các cơ quan tư pháp.
Tai nạn giao thông và việc giải quyết tai nạn giao thông vốn dĩ rất phức tạp, đặc biệt là với những vụ việc gây nên hậu quả nghiêm trọng như chết người, tổn hại cho sức khoẻ của người tham gia giao thông, hư hại tài sản…Chính vì vậy, đây không chỉ là vấn đề mà các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương quan tâm mà là nỗi lo lắng của toàn xã hội khi mà ý thức tham gia giao thông của đại bộ phận quần chúng nhân dân còn thấp, ngay cán bộ, công chức nhà nước - những người làm việc cho Nhà nước, thường xuyên thực hiện pháp luật cũng không am hiểu và không gương mẫu trong chấp hành các quy tắc an toàn giao thông đường bộ.

  
TÀI LIỆU THAM KHẢO
3.     Bộ Công an, Quyết định số 18/2007/QĐ-BCA ngày 05/01/2007 ban hành quy trình điều tra giải quyết tai nạn giao thông đường bộ;
4.     Chính phủ, Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ;
5.     Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
6.     Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự;
7.     Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh xư lý vi phạm hành chính năm 2002;





No comments:

Post a Comment

Saturday, December 5, 2015

TIỂU LUẬN TÌNH HUỐNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC THAM KHẢO SỐ 06

TIN LIÊN QUAN
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 05


MỤC LỤC

Trang
Lời nói đầu
2
I.Mô tả tình huống
2
II. Nguyên nhân, hậu quả
4
III. Xác định mục tiêu tình huống
9
IV. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án
9
V. Lập kế hoạch tổ chức phương án tối ưu
12
VI. Kết luận, kiến nghị
15




LỜI NÓI ĐẦU
          Trên phạm vi toàn cầu, tai nạn giao thông là một trong những nguyên nhân gây thương vong và tử vong nhiều nhất cho con người. Hàng năm, số vụ tai nạn giao thông lại tăng thêm 10% (con số này ở các nước nghèo và đang phát triển, trong đó có Việt Nam cao hơn tỉ lệ ở các nước công nghiệp phát triển). Phổ biến nhất ở phần lớn các quốc gia là tai nạn giao thông đường bộ. Tai nạn giao thông đường bộ là tai nạn giao thông xảy ra đối với những phương tiện giao thông đang tham gia giao thông trên các tuyến đường bộ hay trên đường chuyên dùng và đối với người đi bộ. Đây là loại tai nạn thường xảy ra đối với ô tô và xe gắn máy 2 bánh, hậu quả là làm cho nhiều người bị chết hoặc bị thương, kèm theo đó là các thiệt hại về tài sản, thời gian, công sức của nhiều gia đình và cơ quan nhà nước khi tham gia giải quyết vụ việc.
          Nguyên nhân của tình trạng này có rất nhiều, trong đó chủ yếu nhất là do ý thức tham gia giao thông của người tham gia giao thông còn chưa đầy đủ, cơ sở hạ tầng và phương tiện tham gia giao thông không đảm bảo điều kiện an toàn…Hiện nay, tai nạn giao thông đường bộ xảy ra phổ biến, hàng ngày, hàng giờ trên phạm vi cả nước. Vì vậy, quản lý nhà nước về an toàn giao thông đường bộ nhằm phòng chống tai nạn giao thông một cách có hiệu quả luôn là vấn đề xã hội được Nhà nước quan tâm giải quyết bằng nhiều biện pháp cụ thể như về nhận thức, thể chế, thanh tra, kiểm tra, đôn đốc, truy cứu trách nhiệm hành chính, dân sự, hình sự, kỷ luật…Tuy nhiên, cho đến nay, tình trạng tai nạn giao thông đường bộ vẫn luôn là vấn đề nhức nhối của toàn xã hội.
          Để góp phần đánh giá đúng đắn, chính xác vai trò của quản lý nhà nước về giao thông đường bộ và góp phần tìm ra giải pháp cho vấn đề này, trong phạm vi tiểu luận tình huống quản lý nhà nước đề cập đến một vụ tai nạn giao thông do một cán bộ, công chức nhà nước gây ra, trên cơ sở đó phân tích các hệ quả pháp lý kéo theo; việc giải quyết của các cơ quan chức năng; phân tích nguyên nhân, hậu quả nhằm tìm ra phương án hiệu quả nhất cho việc giải quyết tình huống đặt ra.
I. Mô tả tình huống
Vào hồi 20 giờ 30 phút ngày 30 tháng 4 năm 2010, trước cổng trường Trung học phổ thông T thuộc phường TST, thị xã ST, thành phố HN xảy ra một vụ tai nạn giao thông nghiêm trọng giữa xe mô tô biển kiểm soát 33H-2478 do Phan Văn T (29 tuổi, là cán bộ của Phòng Tư pháp thị xã ST) điều khiển với xe mô tô biển kiểm soát 30Y-7302 do Nguyễn Thị P (35 tuổi, là giáo viên trường mầm non SL) điều khiển. T và P đều cùng cư trú ở phường TST. Khi xảy ra tai nạn, cả T và P đều được người dân đưa vào bệnh viện để cứu chữa kịp thời. Hậu quả: T chỉ bị thương nhẹ; hai xe mô tô đều bị hư hỏng nặng, trong đó xe mô tô của P bị hư hỏng ước tính 20 triệu đồng; P bị thương với tỷ lệ thương tật được xác định là 20%. Nguyên nhân tai nạn là do Phan Văn T điều khiển phương tiện chuyển hướng mà không có tín hiệu báo hướng rẽ và theo kết luận của cơ quan Công an trong hơi thở của T có nồng độ cồn vượt quá 0,4 miligam/1lít khí thở. Ngoài ra, tại địa điểm đó còn có rất nhiều quán ăn, biển hiệu, phương tiện của khách để lấn ra hết phần đường dành cho người đi bộ và làm cản trở tầm nhìn quan sát của người tham gia giao thông. Bên lề đường nơi xảy ra tai nạn còn bề bộn đất đá được đào lên để cải tạo hệ thống thoát nước chưa kịp lấp. Về phía người bị thiệt hại: P phải nằm viện 30 ngày do các vết thương ở phần tay, chân, đầu và đặc biệt là chấn thương về tâm lý khiến chị thường xuyên rơi vào tình trạng hốt hoảng. Gia đình P ở xa bệnh viện, chồng làm ở một đơn vị quân đội, hai con còn nhỏ, không có người chăm sóc trong thời gian điều trị nên phải thuê người trông nom tại bệnh viện và mẹ chị P ở quê phải đến nhà để trông nom và đưa hai cháu con chị P đi học.
Vụ việc được cơ quan Công an thị xã ST thụ lý giải quyết. Ngày 7/5/2010, Trưởng Công an thị xã ST ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 58/QĐ-XPHC xử phạt T với số tiền là 1.500.000 đồng. Về phía T đề nghị bồi thường cho P số tiền là 20.000.000 đồng, gồm: 15 triệu đồng đền bù xe mô tô bị hư hỏng; 5 triệu đồng cho các chi phí khám chữa bệnh tại bệnh viện (trên cơ sở chứng từ kê khai các khoản viện phí trong thời gian P nằm viện). Từ khi xảy ra vụ việc cho đến khi có quyết định xử phạt T vẫn được điều khiển xe mô tô. Theo như dư luận thì việc xử lý T là chưa thoả đáng. Về phía gia đình P không chấp nhận mức bồi thường do T đặt ra nên hai bên gia đình đã nhiều lần có lời qua, tiếng lại, thậm chí còn đe doạ nhau giải quyết bằng những biện pháp tiêu cực.
II. Nguyên nhân và hậu quả
1.     Nguyên nhân
a)    Nguyên nhân khách quan
Tai nạn giao thông và phương án xử lý của các cơ quan chức năng có nguyên nhân khách quan từ các vấn đề sau:
Thứ nhất, hiện trạng đường giao thông tại địa điểm xảy ra tai nạn còn nhiều bất cập như đường hẹp, không có phần đường dành cho các loại phương tiện thô sơ và người đi bộ, nhiều quán ăn vi phạm quy định về trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị để biển hiệu và phương tiện của khách lấn chiếm lòng, lề đường khiến đường càng chật hẹp thêm, cản trở người và phương tiện tham gia giao thông, tăng nguy cơ mất an toàn giao thông.
Thứ hai, công tác quản lý giao thông của chính quyền địa phương còn hạn chế. Thường vào những đợt triển khai công tác đảm bảo an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị thì chính quyền địa phương (nòng cốt là lực lượng cảnh sát giao thông thuộc Công an thị xã ST và Công an phường) mới tổ chức kiểm tra, dẹp được các vi phạm lấn chiếm lòng, lề đường. Bên cạnh đó, việc tổ chức cải tạo hệ thống thoát nước của địa phương được tiến hành rất thiếu trách nhiệm. Sau khi đào và cải tạo xong thì các lực lượng bỏ lại đất đá, không san lấp lại mà người dân khi sau nhiều ngày không thấy các lực lượng đó làm thì tự chủ động làm lấy hoặc phải thuê người san lấp. Hiện tượng “đánh trống bỏ dùi” đã trở thành hành động thường xuyên của chính quyền địa phương tại đây.
Thứ ba, chế tài xử phạt đối với hành vi vi phạm hành chính, đặc biệt là trong trường hợp gây ra tai nạn của T chưa đủ sức răn đe, việc áp dụng chế tài còn chưa đúng và chưa có biện pháp hữu hiệu để giám sát việc đảm bảo thực thi chế tài khi được áp dụng. Hành vi vi phạm hành chính của T chỉ bị áp dụng phạt tiền là không đúng mà theo quy định tại Điều 8 và Điều 9 Nghị định của Chính phủ số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ còn phải áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là tước quyền sử dụng giấy phép lái xe (có thời hạn: 60 ngày, nếu gây tai nạn giao thông nhưng chưa tới mức nghiêm trọng hoặc không có thời hạn, nếu gây tai nạn giao thông từ mức nghiêm trọng trở lên). Tuy nhiên, mức độ như thế nào được coi là nghiêm trọng để đánh giá hậu quả là “chưa tới mức nghiêm trọng” hay từ mức nghiêm trọng trở lên và “trở lên” đến đâu thì truy cứu trách nhiệm hành chính thì chưa có hướng dẫn cụ thể. Hiện chỉ có thể căn cứ vào nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự để xác định ranh giới giữa vi phạm hành chính với tội phạm được quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự. Trong trường hợp nếu có áp dụng biện pháp tước quyền sử dụng giấy phép thì cũng không có cơ chế để kiểm tra, giám sát hay ngăn chặn hành vi tiếp tục sử dụng xe mô tô của T.
Ngoài ra, T là cán bộ, công chức vi phạm thì ngoài việc phải gánh chịu trách nhiệm hành chính như các công dân khác thì còn phải gánh chịu trách nhiệm kỷ luật vì đã thực hiện hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ tư, do ý thức chấp hành quy tắc về trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị của phần lớn người dân địa phương còn chưa cao, nhất là các hộ kinh doanh khi việc lấn chiếm lòng, lề đường để kinh doanh đã trở thành phổ biến. Khách hàng đến ăn uống cũng không quan tâm đến việc phương tiện của mình có thể gây mất an toàn giao thông cho người khác mà phó mặc cho nhà hàng. Mặt khác, ý thức xây dựng dân chủ ở cơ sở của người dân chưa cao khi liên tiếp trong nhiều năm, chính quyền địa phương có nhiều hoạt động về sửa chữa hệ thống thoát nước, cải tạo các công trình dân sinh nhưng thực hiện không đến nơi đến chốn mà không hề có sự phản hồi từ phía người dân hoặc có nhưng không hữu hiệu vì thiếu tính tập thể, tính tổ chức thông qua các tổ chức đoàn thể của nhân dân.
b)    Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, thói quen sinh hoạt uống rượu, bia trước khi điều khiển xe mô tô của phần lớn cán bộ, công chức hiện nay. Phần lớn công dân Việt Nam, trong đó có đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay vẫn giữ thói quen uống rượu, bia sau giờ làm việc, tiếp khách cơ quan, khách của cá nhân, sau khi tổ chức hội nghị…với truyền thống “nam vô tửu như kỳ vô phong” và hiện tượng “quá chén” xảy ra như “cơm bữa” khiến cho hành vi trở nên thiếu chuẩn mực, thiếu chính xác, là nguy cơ dẫn đến nhiều biểu hiện tiêu cực, đặc biệt là sau khi uống rượu, bia điều khiển xe mô tô là nguy cơ rất lớn dẫn đến tai nạn giao thông cho bản thân mình và cho những người tham gia giao thông khác.
Thứ hai, do ý thức tham gia giao thông còn chưa cao do chưa hiểu biết đầy đủ các quy tắc an toàn giao thông đường bộ, thậm chí một bộ phận không nhỏ còn coi thường các quy tắc đó thể hiện ở các hành vi như không đội mũ bảo hiểm, không sử dụng gương chiếu hậu, không kiểm tra tính năng an toàn của phương tiện một cách thường xuyên,… nhất là sử dụng rượu, bia khi lái xe mô tô, không thực hiện các hành vi để đảm bảo an toàn cho mình và những người tham gia giao thông khác như chạy xe quá tốc độ; vượt, chuyển hướng…không đúng quy định về an toàn giao thông.
 Thứ ba, do tâm lý nể nang đối với đối tượng vi phạm. T là người làm việc tại cơ quan tư pháp của thị xã ST nên có mối quan hệ cá nhân với những người làm việc tại cơ quan Công an huyện T, việc áp dụng chế tài phạt thiếu đầy đủ theo quy định là trái pháp luật.
2.     Hậu quả
a)    Về phía Nhà nước
Việc đặt ra các quy tắc giao thông đường bộ là yêu cầu không thể thiếu đối với Nhà nước nhằm đảm bảo trật tự an toàn giao thông đường bộ và ngăn ngừa tai nạn. Khi ý thức người tham gia giao thông thấp, vi phạm và tai nạn xảy ra nhiều sẽ làm cho kỷ cương Nhà nước, pháp luật trở nên thiếu hiệu quả trong điều chỉnh hành vi của cá nhân, tổ chức; làm giảm hiệu lực quản lý và cơ chế quản lý nhà nước về giao thông đường bộ. Việc Nhà nước phải tăng cường hiệu quả hoạt động của các lực lượng cảnh sát giao thông (số lượng người, phương tiện, công cụ hỗ trợ, tài chính đảm bảo), an ninh trật tự và trong những thời điểm nhất định phải huy động cả sự tham gia của các tổ chức đoàn thể; tăng cường công tác xử lý vi phạm sẽ tốn kém nhiều chi phí cho ngân sách nhà nước.
b)    Về phía xã hội
Các tai nạn giao thông đường bộ nói chung có thể kéo theo những thiệt hại khổng lồ về kinh tế, bao gồm: chi phí mai tang người chết, chi phí y tế cho người bị thương, thiệt hại về phương tiện giao thông, về hạ tầng, chi phí khắc phục, điều tra vụ tai nạn giao thông đó, các thiệt hại do hao phí thời gian lao động của chính người bị tai nạn và cả của những người chăm sóc người đó. Mặt khác, tai nạn giao thông gây nên những tác động tâm lý cả trước mắt cũng như về lâu dài đối với mọi người, nó để lại những di chứng về tâm lý hết sức nặng nề cho người bị tai nạn, người thân của người đó.
c)     Về phía người dân
Sống trong một quốc gia, một địa phương mà xảy ra quá nhiều tai nạn giao thông thì sẽ gây nên hiện tượng tâm lý bất an cho người dân, nhất là những người thường xuyên tham gia giao thông.
Các tai nạn giao thông không chỉ ảnh hưởng đến những người gây tai nạn và người bị tai nạn mà còn cả gia đình, thân nhân, bạn bè, đồng nghiệp… của họ. Khi tai nạn giao thông dẫn đến hậu quả thiệt hại về sức khoẻ, tài sản cho mỗi cá nhân, gia đình – tế bào của xã hội, thì cũng tức là làm giảm sút các nguồn lực xã hội. Mặt khác, khi việc xử lý vi phạm của các cơ quan chức năng không nghiêm minh, không đúng đắn hay lợi ích của các bên không được giải quyết một cách thoả đáng thì sẽ tiềm ẩn nhiều tiêu cực như sự bất mãn của người dân với cơ quan nhà nước, các tranh chấp, xích mích giữa các bên với nhau dẫn đến các mâu thuẫn mà có thể là nguyên nhân dẫn đến các hành vi tiêu cực khác làm mất an ninh và trật tự an toàn xã hội.
III. Xác định mục tiêu tình huống
Mục tiêu của tình huống là xác định hành vi vi phạm hành chính của một cán bộ, công chức trong cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương và kết quả xử lý của cơ quan có thẩm quyền, để từ đó đánh giá hiệu quả công tác quản lý nhà nước về trật tự an toàn giao thông đường bộ và trật tự an toàn giao thông đô thị tại địa phương, nhằm tìm ra phương án tốt nhất để giải quyết vấn đề đặt ra.
IV. Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án
Để giải quyết vụ việc trên, trong phạm vi tiểu luận đề xuất một số phương án sau:
Tên phương án
Ưu điểm
Nhược điểm
Ra quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là tước quyền sử dụng giấy phép lái xe của T.
Khắc phục quyết định xử phạt hành chính trái pháp luật về mặt nội dung, thể hiện sự công bằng, nghiêm minh của pháp luật và quyền lực nhà nước, góp phần bảo đảm pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Việc đảm bảo thực hiện chế tài về áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là tước quyền sử dụng giấy phép lái xe để buộc T không được lái xe trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép không có cơ chế giám sát thực hiện. Mặt khác, xuất phát từ những lý do mà như nguyên nhân về khách quan, chủ quan đã phân tích thì việc sửa quyết định xử phạt của Trưởng Công an thị xã ST phải thông qua chính hành vi của chủ thể đó là rất khó khăn, cần phải thông qua hành vi tố cáo của P hoặc của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên thị xã cùng thủ tục giải quyết tố cáo theo quy định của Luật khiếu nại, tố cáo. Như vậy, thời gian để sửa quyết định xử phạt sẽ rất lâu mà trong thời gian đó các bên có thể nảy sinh những hành vi tiêu cực do mâu thuẫn phát sinh.
Mặt khác, do vụ việc xảy ra vào tháng 4, tức thời hiệu xử phạt vi phạm hành chính chưa hết nên không thể ban hành quyết định áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả một cách độc lập.
Yêu cầu Ban hoà giải của phường TST hoà giải vụ việc trên.
Tiết kiệm được thời gian và công sức giải quyết vụ việc bằng thủ tục tố tụng dân sự tại Toà án.
Kiến thức pháp lý của các thành viên trong Ban hoà giải còn hạn chế nên không thể hướng dẫn các bên thoả thuận một phương án bồi thường hợp lý. Đặc biệt, bên gây thiệt hại lại là người có kiến thức pháp lý nhưng cố tình không thực hiện bồi thường thoả đáng theo quy định của pháp luật.
Đình chỉ thi hành và huỷ bỏ quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 58/QĐ-XPHC, ban hành quyết định xử phạt vi phạm vi phạm hành chính mới và hướng dẫn P các thủ tục cần thiết để khởi kiện vụ án dân sự tại Tòa án nhân dân thị xã ST.
Đảm bảo tính đúng đắn trong áp dụng chế tài xử phạt vi phạm hành chính đối với T.
Ngăn chặn các hành vi tiêu cực có thể phát sinh do mâu thuẫn giữa các bên, giúp cho P tìm kiếm phương tiện bảo vệ quyền lợi của mình một cách hợp pháp.
Quá trình giải quyết vụ việc theo thủ tục tố tụng dân sự phải tốn kém về thời gian, tiêu tốn công sức của các bên khi tham gia vào các giai đoạn tố tụng.
          Trong các phương án trên, phương án thứ 3 là tối ưu hơn cả bởi nó đáp ứng được nhiều nhất các yêu cầu của pháp luật trong giải quyết vụ việc, đồng thời tạo nền tảng vững chắc cho việc bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa trong thực hiện các công việc của Nhà nước và xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh.
V. Lập kế hoạch tổ chức phương án tối ưu
Để thực hiện phương án tối ưu, cần phải thực hiện một số bước cụ thể như sau:
STT
Các bước
Chủ thể thực hiện
1
1.Giải quyết lại toàn bộ vụ việc theo quy định của pháp luật
Công an thị xã ST
a) Xem xét lại toàn bộ các bước trong trình tự điều tra, giải quyết tai nạn giao thông đường bộ theo quy định tại Quyết định của Bộ trưởng Bộ Công an số 18/2007/QĐ-BCA ngày 05/1/2007 ban hành quy trình điều tra giải quyết tai nạn giao thông đường bộ do cán bộ thụ lý vụ việc của mình thực hiện.
b) Ra quyết định huỷ bỏ Quyết định xử phạt vi phạm hành chính số 58/QĐ-XPHC và ban hành quyết định xử phạt vi phạm hành chính mới theo hướng giữ nguyên mức phạt tiền 1.500.000 đồng và bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả tước quyền sử dụng giấy phép lái xe có thời hạn (60 ngày) vì theo quy định tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 02/2003/NQ-HĐTP, trường hợp vi phạm của T không thuộc một trong các tình tiết “gây thiệt hại nghiêm trọng”, “gây hậu quả rất nghiêm trọng”, “gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng” quy định tại Điều 202 Bộ luật hình sự.
Trưởng Công an thị xã ST
c)Trong thời gian 3 ngày, kể từ ngày ban hành quyết định yêu cầu T đến Công an thị xã ST để nhận hai quyết định nói trên và thi hành ngay trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày được giao quyết định.
Đội Cảnh sát giao thông Công an thị xã ST
d)Thông báo vụ việc trên bằng công văn cho cơ quan (Phòng tư pháp) nơi T công tác để thực hiện các biện pháp xử lý kỷ luật theo quy định của Luật cán bộ, công chức.
Công an thị xã ST
e)Hướng dẫn cho P liên hệ với Toà án nhân dân thị xã ST để giải quyết việc bồi thường theo thủ tục tố tụng dân sự.
2
Xử lý kỷ luật đối với T
Uỷ ban nhân dân thị xã ST
Phòng Tư pháp xem xét trách nhiệm của T với tư cách là đảng viên sinh hoạt tại Chi bộ vì đã không chấp hành các quy định pháp luật về an toàn giao thông đường bộ.
Bí thư chi bộ
Xem xét trách nhiệm của cán bộ, công chức trong thực hiện pháp luật và cam kết đảm bảo an toàn giao thông đường bộ đã ký kết.
Phòng Tư pháp
Thành lập Hội đồng xem xét kỷ luật cán bộ, công chức để xem xét kỷ luật đối với T.
Uỷ ban nhân dân thị xã ST.
Ra quyết định xử lý kỷ luật bằng hình thức được quy định trong Luật cán bộ, công chức và tổ chức thực hiện quyết định.
Chủ tịch UBND thị xã ST
3
Giải quyết yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại của P theo thủ tục tố tụng dân sự.
Toà án nhân dân thị xã ST
Căn cứ quy định tại Nghị quyết của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại của T. Theo đó, T phải trả cho P các chi phí do sức khoẻ bị xâm phạm gồm:
-         Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức năng bị mất, bị giảm sút của P bao gồm: tiền thuê phương tiện đưa P đi cấp cứu tại cơ sở y tế; tiền thuốc và tiền mua các thiết bị y tế, chi phí chiếu, chụp X quang, chụp cắt lớp, siêu âm, xét nghiệm, mổ, truyền máu, vật lý trị liệu... theo chỉ định của bác sỹ; tiền viện phí; tiền mua thuốc bổ, tiếp đạm, tiền bồi dưỡng phục hồi sức khoẻ cho P theo chỉ định của bác sỹ; các chi phí thực tế, cần thiết khác cho P (nếu có) …
-         Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị, gồm: tiền tàu, xe đi lại , tiền thuê nhà trọ theo giá trung bình ở địa phương nơi thực hiện việc chi phí (nếu có) cho một trong những người chăm sóc cho người bị thiệt hại trong thời gian điều trị do cần thiết hoặc theo yêu cầu của cả sở y tế.
Bên cạnh các khoản bồi thường thiệt hại nói trên, T cũng phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà P gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần tối đa không quá ba mươi tháng lương tối thiểu do Nhà nước quy định.
Bồi thường toàn bộ chi phí khắc phục tài sản là xe mô tô của P đã bị hư hỏng trên cơ sở kết luân giám định của cơ quan Công an.

VI. Kết luận và kiến nghị
1.     Kết luận
Kể từ năm 1896 khi mà chiếc ô tô chạy thử đầu tiên xuất xưởng tại Anh cán chết 2 người và 3 năm sau ở Mỹ mới có một người chết do ô tô gây nên thì từ đó những cái chết và thương tích do phương tiện giao thông gây nên ngày một nhiều. Ngày nay, tai nạn giao thông đã trở nên phức tạp, đa dạng hơn rất nhiều, nhất là tai nạn giao thông đường bộ do ô tô, xe 2 bánh gây ra. Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế thì đây là một hiểm hoạ không chỉ cho riêng Việt Nam mà của nhiều quốc gia khác trên thế giới, bởi nó là một trong những nguyên nhân gây tử vong hàng đầu cho  người,  trung bình mỗi năm có trên dưới 10 triệu người tử vong vì TBGTĐB và hàng chục triệu người khác bị thương tích. Cùng với đó là những thiệt hại khổng lồ về kinh tế, bao gồm: chi phí mai táng người chết, chi phí y tế cho người bị thương, thiệt hại về phương tiện giao thông, về hạ tầng, chi phí khắc phục, điều tra vụ TNGT đó cùng với thiệt hại do hao phí thời gian lao động của chính người bị tai nạn và cả của những người chăm sóc người đó. Mặt khác TNGT gây nên những tác động tâm lý cả trước mắt cũng như về lâu dài đối với mọi người, nó để lại nhũng di chứng về tâm lý hết sức nặng nề cho người bị tai nạn, người thân của người đó và nếu như trong một địa phương, một quốc gia xảy ra TNGT quá nhiều sẽ gây nên hiện tượng bất an cho cư dân ở đó.
2.     Kiến nghị
Để hạn chế và giải quyết tốt tai nạn giao thông trong những tình huống tương tự như trên, trong phạm vi tiểu luận kiến nghị một số vấn đề như sau:
Thứ nhất, đối với Bộ Giao thông vận tải: cần tích cực triển khai tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật về giao thông đường bộ cho nhân dân, cho đội ngũ cán bộ, công chức ở các cơ quan nhà nước từ trung ương đến địa phương. Kiến nghị với Chính phủ sửa đổi Nghị định số 34/2010/NĐ-CP về việc khi đã tước quyền sử dụng giấy phép lái xe thì phải tạm giữ phương tiện trong thời gian đó, đồng thời khi phát hiện người bị xử phạt tiếp tục điều khiển xe mô tô trong thời gian bị tước quyền sử dụng giấy phép thì sẽ tịch thu phương tiện của người đó đang bị tạm giữ, chứ không chỉ xử phạt vi phạm hành chính mới có tình tiết tăng nặng kèm theo. Mặt khác, cần sớm ban hành thông tư hướng dẫn Nghị định 34/2010/NĐ-CP để tạo điều kiện cho các cơ quan chức năng áp dụng đúng chế tài xử phạt. Tích cực triển khai các dự án cải tạo hệ thống giao thông đáp ứng yêu cầu thực tế.
Thứ hai, đối với chính quyền thị xã ST: đề cao trách nhiệm trong kiểm tra việc thực hiện pháp luật về an toàn giao thông đường bộ trên địa bàn và xử lý nghiêm minh các hộ dân lấn chiếm lòng lề đường để kinh doanh , đặc biệt là tránh tái diễn “đánh trống bỏ dùi” trong cải tạo các công trình dân sinh như thời gian qua.
Mặt khác, tích cực tuyên truyền, phổ biến pháp luật về giao thông đường bộ trên địa bàn, phát huy vai trò của các Tổ hoà giải ở địa phương nhằm người bị tai nạn giao thông hoà giải, thoả thuận mức bồi thường hợp lý, không để phải giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự, tạo gánh nặng cho các cơ quan tư pháp.
Tai nạn giao thông và việc giải quyết tai nạn giao thông vốn dĩ rất phức tạp, đặc biệt là với những vụ việc gây nên hậu quả nghiêm trọng như chết người, tổn hại cho sức khoẻ của người tham gia giao thông, hư hại tài sản…Chính vì vậy, đây không chỉ là vấn đề mà các cấp chính quyền từ Trung ương đến địa phương quan tâm mà là nỗi lo lắng của toàn xã hội khi mà ý thức tham gia giao thông của đại bộ phận quần chúng nhân dân còn thấp, ngay cán bộ, công chức nhà nước - những người làm việc cho Nhà nước, thường xuyên thực hiện pháp luật cũng không am hiểu và không gương mẫu trong chấp hành các quy tắc an toàn giao thông đường bộ.

  
TÀI LIỆU THAM KHẢO
3.     Bộ Công an, Quyết định số 18/2007/QĐ-BCA ngày 05/01/2007 ban hành quy trình điều tra giải quyết tai nạn giao thông đường bộ;
4.     Chính phủ, Nghị định số 34/2010/NĐ-CP ngày 02/4/2010 quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ;
5.     Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 01/2004/NQ-HĐTP ngày 28/4/2004 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật dân sự về bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng;
6.     Tòa án nhân dân tối cao, Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự;
7.     Uỷ ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh xư lý vi phạm hành chính năm 2002;





No comments:

Post a Comment