TIN LIÊN QUAN
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo sô 08
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo sô 08
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu
|
|
I.Mô tả tình huống
|
|
II.Phân tích nguyên nhân và hậu quả của tình huống
|
|
2.1.Phân tích nguyên nhân của tình huống
|
|
2.2.Phân tích hậu quả của tình huống
|
|
III.Mục tiêu của tình huống
|
|
IV.Xây dựng, phân tích và lựa chọn phương án giải
quyết tình huống
|
|
4.1.Xây dựng phương án giải quyết
|
|
4.2.Lựa chọn phương án tối ưu
|
|
V.Xây dựng kế hoạch tổ chức thực hiện phương án
|
|
VI.Kiến nghị và kết luận
|
|
6.1.Một số kiến nghị
|
|
6.2.Kết luận
|
|
Danh mục tài liệu tham khảo
|
LỜI NÓI ĐẦU
Nhà nước với tính cách là chủ thể mang quyền (đại diện quyền lực cho nhân
dân), thực hiện vai trò quản lý và cung ứng dịch vụ công cho xã hội công dân
đã, đang và sẽ ngày càng được hoàn thiện cả về chính sách, thể chế, tổ chức bộ
máy,… nhằm không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý nhà nước.
Có thể thấy, sau 23 năm đổi mới, đời sống của nhân dân không ngừng được nâng
lên; khoa học-giáo dục phát triển; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội
được giữ vững;.... Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, bên cạnh
những thành tựu cơ bản, vẫn còn những bộc lộ những yếu, kém khuyết điểm trong
quản lý các mặt, các lĩnh vực của đời sống chính trị, kinh tế, xã hội,… Điều
này, đã tạo ra những nguy cơ và thách thức không nhỏ đối với Đảng và Nhà nước
ta, nhất là với hoạt động quản lý nhà nước trong tình hình mới.
Tình trạng các quyết định hành chính hoặc hành vi
hành chính của cơ quan và người có thẩm quyền “không phù hợp” làm ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp của công
dân hay giải quyết khiếu kiện không dứt điểm, thiếu khách quan; … của cán bộ,
công chức trong các tranh chấp đất đai đã tạo ra tình trạng khiếu kiện đông
người, khiếu kiện tập thể gây mất trật tự, an toàn xã hội là một trong các ví
dụ chứng minh cho năng lực giải quyết các vấn đề trong quản lý còn nhiều yếu
kém. Đây cũng chính là một trong số những biểu hiện
“lạ” phát sinh trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân thông qua những
ứng xử của cán bộ, công chức với công dân ở địa phương, nhất là ở địa phương cơ
sở trong thời gian qua. Chẳng hạn như, cán bộ, công chức vừa đánh bài vừa tiếp
công dân hay thay vì hoà giải theo quy định, Chủ tịch xã ra quyết định giải
quyết tranh chấp đất đai và tổ chức cưỡng chế,... đã làm cho mối quan hệ giữa
người dân với cán bộ, công chức và với cơ quan công quyền ngày càng trở nên xa
cách.
Từ
thực trạng trên, cùng với đòi hỏi của quá trình cải cách hành chính, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nhất là ở cơ sở hiện nay, trong phạm vi
thời gian và khả năng có hạn, tiểu luận lựa chọn vấn đề: “Một số vấn đề nâng cao năng lực
giải quyết tranh chấp đất đai cho cán bộ, công chức cấp xã ở nước ta hiện nay”
làm nội dung cơ bản để viết bài tiểu luận cuối khoá.
I. MÔ TẢ TÌNH
HUỐNG
Khi tấc đất trở thành “tấc vàng” thì vấn đề đất đai lại
trở nên phức tạp hơn bao giờ hết, từ việc xác định nguồn gốc đất, loại đất,... đến
quyền sử dụng là hàng loạt các vấn đề mang tính pháp lý cần phải được thực hiện.
Theo đó, những bất cập nảy sinh soay quanh vấn đề cơ quan công quyền, cán bộ, công
chức có chức năng, nhiệm vụ thực hiện “dịch vụ công” cũng phức tạp không kém,...
Trong điều kiện có hạn, tiểu luận nêu lên một tình huống điển hình trong lĩnh vực
giải quyết tranh chấp đất đai xảy ra tại địa phương nơi tôi đang cư trú như
sau:
Sự việc bắt đầu bằng các quyết định trái thẩm quyền
của Ủy ban nhân dân xã BM (huyện T) sau khi hoà giải không thành đã giải quyết
tranh chấp bằng cách cưỡng chế công trình trên đất tranh chấp. Thế nhưng, Ủy
ban nhân dân huyện T vẫn cố tình bao biện và không giải quyết dứt điểm sự việc,
khiến người dân không biết "gõ" cửa nào để tìm lại quyền lợi cho
mình. Giải quyết tranh chấp trái thẩm quyền. Ông Nguyễn Chính L, thôn D, xã BM,
huyện T có đất ở và một phần ngõ đi liền kề với gia đình ông Nguyễn Chính T
(tên gọi khác Nguyễn Quốc M). Năm 2000, ông Lộc cải tạo lại ngõ đi, lát gạch và
xây cổng nhưng không có ai phản đối. Tám năm sau, khi ông Lộc xây cổng, ông T
gửi đơn đến Ủy ban nhân dân xã, đề nghị chính quyền can thiệp tháo dỡ cổng nhà
ông L với lý do đây là ngõ đi chung. Theo bản đồ địa chính xã BM trong các năm
1936, 1967 và 1985 đều thể hiện diện tích này là ngõ đi chung, nhưng sau đó do
gia đình ông T đã không đi lại ngõ này nữa mà mở cổng đi thẳng ra đường chính
của làng nên bản đồ địa chính năm 1995, toàn bộ phần ngõ này thể hiện là đất
riêng của gia đình ông L. Giải thích điều này, ông Bùi Đăng H, cán bộ địa chính
xã cho biết: Bản đồ năm 1995 toàn xã có đến 331/1.900 thửa đất bị đo sai so với
thực tế. Xã đã kiến nghị lên huyện nhưng việc làm lại bản đồ địa chính UBND
huyện vẫn chưa có phương án xử lý cụ thể. Sau khi tiếp nhận đơn của gia đình
ông T, UBND xã BM đã nhiều lần tiến hành hoà giải nhưng không thành. Thay vì
việc chuyển hồ sơ tranh chấp lên huyện giải quyết theo thẩm quyền, thì ngày
9-6-2008, UBND xã ra Thông báo số 46/UB, trong đó kết luận: Ông L phải thu dọn
cánh cổng ra khỏi vị trí hiện tại để trả lại phần đất ngõ đi chung. Nhận được
thông báo này, ông L đã làm đơn khiếu nại nhưng không được cơ quan chức năng
nào trả lời. Ngày 16-9-2008, UBND xã BM tổ chức lực lượng hỗ trợ gia đình ông T
tháo dỡ cánh cổng và gia đình ông T còn tự ý đào xới ngõ đi từ phía nhà ông L
ra đến đường chính của làng. Huyện bao che vi phạm, đẩy người dân vào "ngõ
cụt" Dựa vào hồ sơ địa chính và bản đồ qua các thời kỳ, UBND huyện T khẳng
định: Việc ông L tự ý tôn tạo, xây dựng trên phần đất công do tập thể quản lý
thành ngõ đi riêng khi chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép là vi phạm pháp
luật. Nhưng để bao biện cho việc xã tổ chức cưỡng chế, tại Văn bản số 170/UBND
ngày 19-11-2008, UBND huyện lại cho rằng: "Xã BM là địa bàn phức tạp,
thường xuyên xảy ra các vụ việc gây rối trật tự công cộng. Do vậy, UBND xã BM
phải tổ chức cưỡng chế ngăn chặn kịp thời là cần thiết để tránh những hậu quả
xấu có thể xảy ra,... Chính vì quyết định đó, đến nay ông L không thể tiếp tục
khiếu nại hay khởi kiện vụ án này theo quy định của pháp luật”.
II. PHÂN TÍCH
NGUYÊN NHÂN VÀ HẬU QUẢ
2.1. Phân tích nguyên
nhân
Như vậy, có thể thấy những vi
phạm trong thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai của xã BM và sự bao che của
huyện T đã làm ảnh hưởng đến quyền lợi của gia đình ông L. Vậy, vấn đề đặt ra
là nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng xã BM lại vận dụng sai thủ tục hành chính
(giải quyết tranh chấp đất đai không đúng thẩm quyền) để có những quyết định
hành chính trái pháp luật? Dưới góc độ quản lý nhà nước về thủ tục hành chính
có thể lý giải theo các nguyên nhân cơ bản sau:
*Nhóm những nguyên nhân khách quan
Thứ nhất, hội nhập quốc tế đã mở ra những cơ hội trong
quan hệ hợp tác kinh tế đối ngoại. Theo đó, tư liệu sản xuất-như đất đai trở
nên có giá trị trong tạo lập mặt bằng sản xuất, kinh doanh cho cá nhân và tổ
chức đã tạo ra nhu cầu về trao đổi, chuyển nhượng theo cung-cầu của thị trường
bất động sản. Khi đất đai trở thành thước đo giá trị trong quan hệ “tiền tệ”, vô
hình dung đã làm thay đổi quan niệm của người dân về “tấc đất-tấc vàng” trong
điều kiện của nền kinh tế thị trường. Việc xảy ra tranh chấp đất đai giữa gia
đình ông T và ông L cho thấy chỉ một vài mét vuông đất dùng làm ngõ đi chung
nhưng không thể không giành giật bằng được.
Thứ hai, tốc độ đô thị hóa, quy mô dân số tăng nhanh
diện tích đất ở và đất sản xuất (nhất là đất nông nghiệp) bị thu hẹp. Nhu cầu
có nhà ở đất ở và mở rộng diện tích đất theo chủ quyền (giấy chứng nhận quyền
sử dụng đất ở, nhà ở) đã trở thành động lực để không ít người dân, cán bộ có xu
hướng “trục lợi” bằng mọi giá. Tình huống trên chỉ ra rằng, không chỉ có cán
bộ, công chức xã có nhận thức sai về thủ tục giải quyết tranh chấp đai mà đến
ngày cán bộ, công chức có thẩm quyền cấp huyện cũng cố gắng bao biện cho quyết
định hành chính sai trái đó.
Thứ ba, những bất cập trong chính sách, thể chế pháp
luật quy định thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai. Thực tế cho thấy, một mặt
các thủ tục liên tục thay đổi, mặt khác các quy định của pháp luật về đất đai
còn phải chờ hướng dẫn để tiếp tục giải quyết. Điều này dẫn đến những hạn chế
về nhận thức các quy định nói chung của chính quyền cơ sở (xã BM). Mặt khác,
các văn bản có tính hướng dẫn chỉ đạo chính quyền địa phương cơ sở thực hiện
trong giới hạn chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền được phân cấp còn thiếu và mâu
thuẫn. Điều này dẫn đến hàng loạt những sai phạm mà tình huống nêu ra, cụ thể
như:
Một là, xem xét các Quyết định của Ủy ban nhân dân xã BM,
Huyện T trong tổ chức thực hiện thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai giữa gia
đình ông L và ông T. Việc tiến hành hòa giải khi giải quyết tranh chấp lối đi
giữa gia đình ông T và ông L của Ủy ban nhân dân xã BM là hợp pháp và đúng
trình tự thủ tục giải quyết theo quy định tại Điều 135 Luật Đất
đai năm 2003[1]:
Điều 135, khoản 2 xác định: “Tranh chấp đất đai mà các bên tranh chấp
không hoà giải được thì gửi đơn đến Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có
đất tranh chấp. Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn có trách nhiệm phối hợp
với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức thành viên của Mặt trận, các tổ
chức xã hội khác để hoà giải tranh chấp đất đai. Thời hạn hoà giải là ba mươi
ngày làm việc, kể từ ngày Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nhận được đơn. Kết
quả hoà giải tranh chấp đất đai phải được lập thành biên bản có chữ ký của các
bên tranh chấp và xác nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn nơi có đất.
Trường hợp kết quả hoà giải khác với hiện trạng sử dụng đất thì Uỷ ban nhân dân
xã, phường, thị trấn chuyển kết quả hoà giải đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền
để giải quyết theo quy định về quản lý đất đai”. Tuy
nhiên, Ủy ban nhân dân xã BM không tuân thủ quy định trên mà ban hành “Thông
báo số 46/UB, trong đó kết luận: Ông L phải thu dọn cánh cổng ra khỏi vị trí
hiện tại để trả lại phần đất ngõ đi chung”. Đây là quyết định không đúng thẩm
quyền, trình tự và thủ tục vì theo quy định tại Điều 135 Ủy ban nhân dân cấp xã
chỉ được tiến hành thủ tục hòa giải mà không được phép ban hành quyết định hành
chính để giải quyết vụ việc tranh chấp đất đai. Như vậy, Thông báo số 46/UB là
một quyết định hành chính không đúng thủ tục, trình tự. Điều này làm cho gia
đình ông L không còn khả năng để tiếp tục khiếu nại lên Ủy ban nhân dân cấp
trên hoặc khởi kiện ra tòa án vì đã được giải quyết bằng quyết định của Ủy ban
nhân dân xã BM. Bởi vì, theo quy định tại Điều Điều 136, khoản 1, Luật
đất đai năm 2003: “Tranh chấp đất đai đã được hoà giải tại Uỷ ban nhân dân xã,
phường, thị trấn mà một bên hoặc các bên đương sự không nhất trí thì được giải
quyết như sau: (1). Tranh chấp về quyền sử dụng đất mà đương sự có giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất hoặc có một trong các loại giấy tờ quy định tại các
khoản 1, 2 và 5 Điều 50 của Luật này và tranh chấp về tài sản gắn liền với đất
thì do Toà án nhân dân giải quyết;...” và theo và Công
văn số 116/2006/KHXX của Tòa án nhân dân tối cao ngày 22/7/2004 thì những vụ
việc tranh chấp đất đai nếu chưa được tiến hành hòa giải ở Ủy ban nhân dân cấp
xã thì tòa án không thụ lý giải quyết….
Do đó, việc khởi kiện của ông L sẽ không được tòa án tiếp tục giải quyết
theo trình tự pháp luật quy định.
Nếu ông L tiếp
tục khiếu kiện theo thủ tục của pháp lệnh giải quyết các vụ án hành chính sửa
đổi năm 2006 thì tại Điều 2 xác định: “1. Cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền khởi kiện
để Toà án giải quyết vụ án hành chính về các khiếu kiện quy định tại các khoản
từ khoản 1 đến khoản 16 Điều 11 của Pháp lệnh này trong các trường hợp sau đây:
“(c) Đã khiếu nại với người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần đầu, nhưng
hết thời hạn giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo mà
khiếu nại không được giải quyết hoặc đã được giải quyết, nhưng không đồng ý với
quyết định giải quyết khiếu nại lần đầu trong trường hợp pháp luật quy định
không được quyền khiếu nại đến người có thẩm quyền giải quyết khiếu nại lần
hai;...”[2].
Trong trường hợp này, ông L cũng không được quyền tiếp tục khiếu nại lần 2 lên
Ủy ban nhân dân cấp trên trực tiếp.
Như
vậy, vô hình dung quyết định của Ủy ban nhân dân xã BM ban hành trái với thủ
tục giải quyết các vụ hành chính đã làm mất quyền khiếu nại, tố cáo của gia
đình ông L.
Sai phạm của
Ủy ban nhân dân xã BM không chỉ dừng lại ở tự ý ban hành quyết định giải quyết
mà nguy hiểm hơn là tự ý tổ chức cưỡng chế, hỗ trợ cưỡng chế theo Thông báo số
46/UB mà không cần có quyết định cưỡng chế. Phải chăng hành vi hành chính,
quyết định hành chính ở xã BM phản ánh khả năng tự quản, tự trị của một xã
trong quyết định các vấn đề ở địa phương ? hay thái độ bất chấp, coi thường kỷ
cương pháp luật ? đó là những câu hỏi giành cho chính quyền huyện T và Thành
phố H. Thực tế cho thấy, việc xã BM tổ chức cưỡng chế là trái thẩm quyền, vi
phạm pháp luật về đất đai. Nghiêm trọng hơn, UBND xã còn cưỡng chế không có
quyết định và "hỗ trợ" để cho phía gia đình đang có tranh chấp đến đập
phá, tháo dỡ cổng nhà ông L là một việc làm rất khó hiểu của chính quyền nơi
đây.
Sự dung túng
của Ủy ban nhân dân huyện T trước phản ánh của dư luận và những lá đơn kiến
nghị của gia đình ông L vẫn chỉ là những động thái bao biện, bao che cho những
hành vi “độc tôn” của chính quyền xã BM bằng Văn bản số 170/UBND ngày
19-11-2008 và với những lời “biện minh” của UBND huyện: “Xã BM là địa bàn phức
tạp, thường xuyên xảy ra các vụ việc gây rối trật tự công cộng. Do vậy, UBND xã
BM phải tổ chức cưỡng chế ngăn chặn kịp thời là cần thiết để tránh những hậu
quả xấu có thể xảy ra”. Phải chăng, những biện minh của một cơ quan hành chính
nhà nước chỉ là những lời nói mang tính “xã giao” theo kiểu giải thích “cho
xong” hay họ cho rằng “chính quyền” không phải là nơi để phục vụ nhân dân mà để
“cai trị” nhân dân; nơi nhân dân phải đến để “cầu cạnh” những việc cần phải nhờ
chính quyền giải quyết ?...
Hai là, trách
nhiệm của chính quyền huyện T và Thành phố H đối với vụ việc trên. Mặc dù, sự
việc đã được ông L làm đơn, thư giử đến chính quyền huyện T và Thành phố H nhưng các cấp này dường như
“thờ ơ” với những nội dung mà ông trình bày, với những hành vi sai trái về thủ
tục giải quyết tranh chấp của xã BM. Chỉ đến khi sự việc được báo chí, công
luận lên án, Ủy ban nhân dân Thành phố H mới vào cuộc nhưng cũng chỉ dừng lại ở
mức độ hạn chế-tức giao cho Ủy ban nhân dân huyện T phải giải trình sự việc và
giải quyết sự việc trên cho gia đình ông L. Kể từ khi huyện T báo cáo lên Ủy
ban nhân dân Thành phố H theo Báo cáo số 27/BC-UBND ngày 3-3-2009, thừa nhận có
một số sai sót trong việc thực hiện trình tự giải quyết tranh chấp đất đai ở xã
BM và hứa sẽ tiến hành giải quyết lại vụ việc trên theo đúng quy định của pháp
luật. Thế nhưng đến nay, đã hơn 5 tháng trôi qua, UBND huyện T vẫn chưa có bất
cứ động thái gì đối với việc xử lý vụ tranh chấp trên nên hồ sơ vụ việc hiện
vẫn đang nằm ỳ ở xã,...
*Nhóm những nguyên
nhân chủ quan
Thứ nhất, năng lực và phẩm chất đạo đức của đội ngũ
cán bộ, công chức, trong đó có cán bộ, công chức xã BM còn nhiều vấn đề phải
xem xét. Năng lực giải quyết các tranh chấp của cư dân nói chung, của tranh
chấp giữa gia đình ông T và ông L nói riêng cho thấy khả năng hòa giải của cán
bộ, công chức có thẩm quyền còn chưa “xứng tầm”. Một mâu thuẫn về tranh chấp
ngõ đi lẽ ra phải được chính quyền xã BM giải quyết thấu tình, đạt lý nhằm giữ
mối quan hệ hòa thuận “hàng xóm, láng giềng” và mối quan hệ tin cận giữa chính
quyền với nhân dân thì lại bị một số cán bộ, công chức có trách nhiệm làm ngược
lại. Việc cán bộ, công chức có thẩm quyền của xã BM đột ngột ban hành Thông báo
số 46/UB sau khi không hòa giải được tranh chấp và đưa lực lượng giúp gia đình
ông T tổ chức cưỡng chế cho thấy mối quan hệ “tình cảm đặc biệt” giữa những cán
bộ này với gia đình ông T.
Thứ hai, việc nhận thức pháp luật của người dân cũng
có phần hạn chế nên những tranh chấp thường không được kết thúc bằng các thương
lượng, thỏa thuận giữa các gia đình với nhau mà phải đưa ra “công đường”. Qua
đó, cho thấy những yếu kém trong công tác tuyên truyền phổ biến, giáo dục pháp
luật và sự phối hợp sức mạnh của cả hệ thống chính trị ở xã BM chưa được tiến
hành thường xuyên và hiệu quả còn ở chừng mực nhất định.
2.2.Hậu quả của
tình huống
Tình huống trên đã chỉ ra những tác động tiêu cực trực
tiếp và gián tiếp, cụ thể như sau:
Một là, gây ảnh hưởng xấu đến chính sách quản lý nhà nước
về đất đai trong giai đoạn hiện nay. Đất đai là tài sản thuộc sở hữu toàn dân,
trong đó nhà nước là đại diện chủ sở hữu (Điều 17, Hiến pháp 1992, sửa đổi bổ
sung năm 2001) nhằm thống nhất quản lý đất đai trong cả nước. Việc hiểu đúng, đủ
chính sách của nhà nước nhằm khai thác và sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên về đất
đai ở mỗi địa phương là yêu cầu quan trọng trong điều kiện của nền kinh tế thị
trường. Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp quyền sở hữu đất đai giữa hai hộ
gia đình trên đã cho thấy những hậu quả của nó đối với Nhà nước như: Người dân
không tin tưởng vào chính sách của nhà nước, nhất là các quy định về giải quyết
dẫn đến tình trạng không chấp hành, cố tình chây ỳ;
Hai là, những ảnh hưởng về xã hội. Hệ luỵ của sự tắc
trách trong giải quyết tranh chấp đất đai là những ảnh hưởng mang tính dây truyền
trong quần chúng nhân dân. Sự phản ứng dây truyền này có thể là kẽ hở để các thế
lực thù địch, các phần tử chống đối Nhà nước lợi dụng, mua chuộc, dụ dỗ và lôi
kéo người dân tham gia khiếu kiện đông nghèo, tụ tập phản đối chính sách của nhà
nước,... gây mất an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội.
Ba là, quyền lợi, ích hợp pháp của người sử dụng hợp
pháp đất đai bị xâm phạm. Trong tình huống này, gia đình ông L lẽ ra phải được
bảo đảm quyền sử dụng hợp pháp phần đất trên nhưng lại không được sử dụng. Mặt
khác, còn ảnh hưởng đến tâm lý, tinh thần; thời gian, vật chất;... khi khiếu kiện
không được giải quyết.
Bốn là, pháp chế xã hội chủ nghĩa không được bảo đảm.
Nền tảng của pháp chế xã hội chủ nghĩa là trật tự kỷ cương, trong đó đòi hỏi mọi
chủ thể phải tuân thủ pháp luật một cách nghiêm minh, bình đẳng và thống nhất.
Nếu so với những gì tình huống nêu ra thì pháp luật của nhà nước về đất đai bị
cán bộ, công chức xã BM vi phạm một cách nghiêm trọng, phã vỡ trật tự pháp luật,
trật tự pháp chế xã hội chủ nghĩa trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay.
III. MỤC TIÊU
XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Từ những phân tích trên, đặt ra vấn đề cần phải làm sáng
tỏ thông qua tình huống này như sau:
Thứ nhất, cần phải đánh giá một cách nghiêm túc trên cơ
sở các quy định hiện hành của pháp luật về giải quyết tranh chấp đất đai ở địa
phương nói chung và ở xã BM nói riêng từ đó khẳng định tính hợp pháp hay không
hợp pháp của các quyết định hành chính mà cán bộ, công chức xã BM đã đưa ra; tính
hiệu quả hay không hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước về đất đai ở xã
BM... nhằm khắc phục hậu quả của nó.
Thứ hai, cần phải chỉ ra phương hướng giải quyết cụ thể
nhằm bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của người có quyền sử dụng đất trong trường
hợp này.
Thứ ba, kiên quyết xử lý nghiêm minh những hành vi thiếu
“chuẩn mực” của cán bộ, công chức khi thực thi công vụ của nhà nước ở địa phương
cơ sở cho việc chấn chỉnh lại trật tự hoạt động quản lý nước ở cơ sở trong tình
hình hiện nay.
Thứ tư, đánh giá, tổng kết, rút kinh nghiệm từ tình huống
này nhằm hoàn thiện các chính sách của nhà nước về đất đất, kiện toàn các quy định
của pháp luật trong giải quyết tranh chấp đất đai, nhất là thủ tục hoà giải ở cấp
xã.
IV. XÂY DỰNG
PHƯƠNG ÁN, PHÂN TÍCH VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN GIẢI QUYẾT
4.1.Xây dựng, phân tích phương án
Trên
cơ sở các mục tiêu đã đặt ra, tiểu luận nêu lên một số phương án giải quyết cơ
bản như sau:
* Phương án một: Ủy ban nhân dân Thành phố H
chỉ đạo Ủy ban nhân dân huyện T tiến hành các thủ tục cần thiết giải quyết theo
đúng thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai.
-
Mục tiêu mà phương án đặt ra: Nhằm đảm bảo cho quyền lợi của gia đình ông L và
khắc phục những sai sót do Ủy ban nhân dân xã BM gây ra.
-
Nội dung cần tiến hành: Để tiến hành phương án này cần tiến hành các nội dung
cơ bản như:
+
Ủy ban nhân dân Thành phố H ban hành Công văn yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện T
xem xét, giám sát và chỉ đạo Ủy ban nhân dân xã BM giải quyết tranh chấp đất
đai giữa gia đình ông L và ông T.
+
Ủy ban nhân dân huyện T tiến hành chỉ đạo, hướng dẫn Ủy ban nhân dân xã tiến
hành các thủ tục cần thiết.
+
Ủy ban nhân dân xã BM tiến hành ban hành Quyết định hủy Công văn số 46/UB do Ủy
ban nhân dân xã ban hành; mời hai bên tranh chấp đến tiến hành thủ tục hòa giải theo quy định tại Điều 335
Luật Đất đai năm 2003;...
-
Nguồn lực của phương án: Các cơ quan tiến hành cụ thể theo như nội dung trên,
còn kinh phí tiến hành không đáng kể.
* Phương án hai: Ủy ban nhân dân Thành phố yêu
cầu Thanh tra huyện T tiến hành thanh tra và xử lý nghiêm minh các cán bộ, công
chức có sai phạm.
-
Mục tiêu mà phương án đặt ra: Nhằm đảm bảo tính nghiêm minh của trật tự pháp
chế xã hội chủ nghĩa, làm trong sạch đội ngũ cán bộ, công chức nhất là đội ngũ
cán bộ, công chức cấp cơ sở.
-
Nội dung cần tiến hành: Để thực hiện được phương án cần tiến hành:
+
Ủy ban nhân dân Thành phố H ban hành Công văn yêu cầu Ủy ban nhân dân huyện T
tiến hành thanh tra xem xét những sai phạm và xử lý cán bộ, công chức xã
BM theo thẩm quyền sau đó báo cáo lên Ủy
ban nhân dân Thành phố H.
+
Ủy ban nhân dân huyện, giao cho Thanh tra Phòng Tài nguyên và Môi trường tiến
hành thanh tra theo quy định của pháp luật.
+
Chánh thanh tra tiến hành trình Ủy ban nhân dân huyện quyết định quyết định
việc thanh tra về những dấu hiệu vi phạm của cán bộ, công chức xã BM.
+
Tiến hành tổ chức thanh tra và đề nghị mức xử lý trình lên Ủy ban nhân dân
huyện xem xét ra quyết định.
-
Nguồn lực của phương án: Về cơ quan thực hiện theo các nội dung cơ bản trên.
Kinh phí tiến hành thanh tra được dự kiến trong quyết định thanh tra và lấy từ
ngân sách huyện T.
Phương án 3: Ủy ban nhân dân Thành
phố H chủ động xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về trình tự hoà giải tranh
chấp đất đai ở chính quyền cấơ xã trên địa bàn thành phố H
-
Mục tiêu của phương án: Nhằm nhanh chóng khắc phục các yếu kém, tồn tại về công
tác cải cách thủ tục hành chính của Thành phố H trong thời gian qua và để có cơ
sở tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả giải quyết tranh chấp đất đai trên
địa bàn Thành phố.
-
Nội dung cần tiến hành:
+
Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố tiến hành giao cho Sở Tài nguyên và Môi
trường thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố chỉ đạo Sở tài nguyên và môi trường tiến
hành xây dựng trình tự hoà giải trình lên Uỷ ban nhân dân thành phố ra Quyết định.
+
Chủ tịch Ủy ban nhân dân Thành phố H tiến hành làm Công văn yêu cầu Ủy ban nhân
dân cấp xã tiến hành công bố thông tin, tập huấn theo các trình tự đã được xây
dựng.
-
Nguồn lực để thực hiện phương án: Cơ quan tiến hành theo các nội dung trên;
nguồn lực để thực hiện phương án do ngân sách các cấp quyết định.
4.2.Lựa chọn phương án giải quyết tối
ưu
Các
phương án trên có các mục đích và biện pháp tiến hành khác nhau. Song, để lựa
chọn phương án tối ưu cần phải tính đến các ưu và nhược điểm của mỗi phương án.
Đồng thời, cũng cần phải tính đến hiệu quả của phương án đối với công tác cải
cách thủ tục hành chính trên địa bàn Thành phố trong thời gian tới. Nếu so sánh
ưu, nhược điểm của mỗi phương án ta thấy:
PHƯƠNG ÁN
|
ƯU ĐIỂM
|
NHƯỢC ĐIỂM
|
Phương
án 1
|
Đảm
bảo được quyền, lợi ích hợp pháp của công dân; khắc phục được những sai phạm
do quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính của UBND xã BM gây ra; lấy
lại lòng tin của nhân dân vào chính quyền xã BM
|
Phụ
thuộc vào sự quyết tâm của UBND huyện T và Thành phố H; sự công tâm của cán
bộ, công chức xã BM khi biết nhận lỗi và khắc phục hành vi của mình;...
|
Phương
án 2
|
Đảm
bảo tính nghiêm minh của pháp luật và trách nhiệm của hoạt động công vụ, nhất
là trách nhiệm chính trị trước nhân dân; ngăn ngừa những biểu hiện độc đoán,
chuyên quyền, sách nhiễu nhân dân của cán bộ, công chức xã BM;...
|
Phụ
thuộc vào sự quyết tâm của UBND huyện T và Thành phố H; Sự công tâm của cán
bộ, công chức, thanh tra viên khi tiến hành nhiệm vụ thanh tra hành chính;...
|
Phương
án 3
|
Tạo
ra tính đồng bộ trong cải cách thủ tục hành chính trong giải quyết tranh chấp
đất đai trên địa bàn Thành phố H; công khai hóa và minh bạch hóa các thủ tục
hành chính mà chính quyền giải quyết; nâng cao năng lực cho cán bộ, công chức
khi tiến hành các thủ tục hành chính;...
|
Thời
gian tiến hành lâu; nguồn kinh phí hạn chế nên có thể làm ảnh hưởng đến việc
xây dựng bộ thủ tục hành chính theo lĩnh vực và theo cấp đơn vị hành chính
trên địa bàn Thành phố H;...
|
Qua
đó cho thấy, nếu tính mục tiêu trước mắt và giải quyết trực tiếp trường hợp mà
tình huống nêu thì phương án 1 là phương án tối ưu. Nếu nâng cao hiệu quả của
các thủ tục hành chính cho các cấp và trách nhiệm của các cấp trong giải quyết
theo thủ tục hành chính thì phương án 3 là phương án tối ưu. Với mục tiêu mà
tiểu luận đặt ra, thông qua tình huống cụ thể ở xã BM tiểu luận xác định chọn
phương án 3 là phương án tối ưu. Bởi lẽ, để khắc phục những sai trái do chính
quyền xã BM gây ra thì sớm hay muộn buộc chính quyền Thành phố H vẫn phải chỉ
đạo tiến hành trước sức ép của công luận. Do đó, để cải cách các thủ tục hành
chính nhằm tránh những sai phạm tương tự của cấp xã, cấp huyện và của Thành phố
thì chỉ có phương án 3 là phù hợp cả thực tiễn và lý luận.
V.LẬP KẾ HOẠCH TỔ CHỨC THỰC HIỆN PHƯƠNG
ÁN TỐI ƯU
Để
thực hiện được phương án tối ưu là phương án 3, như trên đã lựa chọn, cần phải
tiến hành các bước cụ thể như sau:
Bước 1, Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân Thành phố H yêu cầu Sở Tài nguyên và Môi trường tiến hành nghiên cứu,
soạn thảo văn bản về trình tự thủ tục tiến hành hoà giải tranh chấp đất đai ở cơ
sở. Thời gian làm việc của Chủ tịch với Sở là 01 ngày.
Bước 2, Sở Tài nguyên
và Môi trường, tiến hành xây dựng kế hoạch, nội dung, phương pháp và chủ thể tiến
hành nghiên cứu, lấy ý kiến các Sở, ban ngành khác. Thời gian tiến hành 2 tháng.
Cụ thể, các nội dung cần tiến hành như:
-Giao
cho đội ngũ chuyên viên nghiên cứu các quy định hiện hành của Luật đất đai năm
2003; Luật khiếu nại tố cáo và các Nghị định của chính phủ về trình tự, thẩm
quyền giải quyết tranh chấp đất đai, hoà giải đất đai tại cơ sở. Thời gian tiến
hành 7 ngày.
-Giao
cho chuyên viên xây dựng các trình tự giải quyết 7 ngày theo các trình tự như:
+
Xác định thời gian và thủ tục nhận đơn; phân loại đơn của cán bộ tư pháp xã và
chuyển cho cán bộ, công chức có thẩm quyền tiến hành hoà giải;
+
Xác định thời gian và thủ tục tiến hành xác minh tranh chấp đất đai của người dân
địa phương cơ sở;..
+
Xác định thời gian và thủ tục tiến hành hoà giải tại cơ sở
Tổng
số thời gian tiến hành các thủ tục (hoàn tất việc hoà giải tranh chấp đất đai ở
cơ sở) không được vượt quá 30 ngày theo quy định hiện hành của Luật Đất đai năm
2003 trừ các vụ việc phức tạp.
-Sau
khi xây dựng xong, tiến hành lấy ý kiến các Sở, Ban, ngành của UBND và tiến hành
chỉnh sửa trình UBND xem xét quyết định.
Bước 3, Chủ tịch
UBND ra xem xét và ra Quyết định ban hành kèm theo thủ tục giải quyết hoà giải
các vụ tranh chấp đất đai ở cơ sở.
Bước 4, tổ chức quán
triệt và học tập Quyết định của UBND (trong đó có cả tập huấn của chuyên viên Sở,
cho cán bộ tư pháp, địa chính và Chủ tịch, phó chủ tịch xã).
Đồng thời tuyên truyền trên đài phát
thanh xã, niêm yết công khai tại trụ sở để người dân nắm, hiểu các trình tự cần
thiết, các giấy tờ cần chuẩn bị và giám sát hoạt động hoà giải của cán bộ, công
chức xã được giao.
Xây dựng văn bản quy định về trình tự
tiến hành hoà giải tranh chấp đất đai ở cơ sở (cấp xã) là nội dung cần thiết
trong giai đoạn hiện nay nhằm khắc phục những biểu hiện tiêu cực phát sinh
trong quá trình tiến hành hoà giải. Đồng thời, có ý nghĩa quan trọng trong việc
bảo đảm và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người dân địa phương.
VI. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
6.1. Một số kiến nghị
Với
những kiến thức đã được học và kinh nghiệm thực tiễn công tác mà cụ thể là thông
qua tình huống này, tôi mạnh dạn nêu lên một số kiến nghị cơ bản như:
* Đối với Trung ương
Thứ nhất, cần phải xây
dựng Luật Thủ tục hành chính, quy định một cách cụ thể các chủ thể có thẩm
quyền ban hành thủ tục hành chính theo hướng giảm thiểu hợp lý số lượng chủ thể
và thực hiện nguyên tắc phân quyền tập trung. Theo đó, cần phải xác định các
thủ thể ở TƯ có thẩm quyền chỉ bao gồm: QH, UBTVQH, Chánh án TANDTC, Viện
trưởng VKSNDTC, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan
ngang bộ. Các chủ thể ở địa phương có thẩm quyền bao gồm: HĐND, UBND tỉnh,
thành phố trực thuộc TƯ; Các thủ tục chỉ trong phạm vi của tỉnh và giải quyết
các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền hạn của tỉnh theo quy định của pháp luật.
Không trao quyền cho các cơ quan trực thuộc Bộ hoặc cấp Vụ, Cục hoặc các sở,
ban, ngành. Bên cạnh đó, Luật Thủ tục hành chính cần quy định một cách chung
nhất quy trình ban hành, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ thủ tục hành chính
với trình tự, thủ tục và thời hạn cho từng công việc cụ thể như: Lập báo cáo
đánh giá tác động của thủ tục, làm rõ chi phí, nguồn nhân lực và thời gian cần
thiết để thực hiện...
Thứ hai, xây dựng các
quy định về cơ chế quản lý và kiểm soát đối với việc quy định và thực hiện thủ
tục hành chính. Cụ thể, Chính phủ cần phải thiết lập một cơ quan quản lý chuyên
ngành về thủ tục hành chính có trách nhiệm giúp Chính phủ từ khâu ban hành, sửa
đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ, thực hiện và xử lý các tranh chấp, vi phạm về thủ
tục hành chính; Đưa ra các kiến nghị ban hành, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ, bãi bỏ
hoặc đề nghị các chủ thể có thẩm quyền giải quyết các công việc có liên quan
đến thủ tục hành chính. Luật cũng cần quy định cụ thể về trách nhiệm của các
chủ thể trong quy định, thực hiện, xử lý các tranh chấp, vi phạm về thủ tục
hành chính. Theo đó, cần phải quy định trách nhiệm chung của Chính phủ, Thủ
tướng Chính phủ, cơ quan chuyên trách về thủ tục hành chính, các chủ thể có
thẩm quyền ban hành, các chủ thể thực hiện thủ tục hành chính và đặc biệt, cần
quy định trách nhiệm giữa các cơ quan nhà nước trong công tác phối hợp thực
hiện thủ tục hành chính.
* Đối với địa phương
Thứ nhất, Sở Tài
nguyên và Môi trường Thành phố H nên thiết lập mạng thông tin chuyên ngành địa
chính kết nối với các đơn vị cấp huyện và tiến tới kết nối với cấp xã trên địa
bàn toàn Thành phố để phục vụ công tác quản lý đất đai, đặc biệt ưu tiên xây
dựng phần mền ứng dụng trong quản lý đơn thư tranh chấp hiện vẫn còn mang tính
thủ công, chia cắt và thiếu tính thống nhất.
Thứ hai, cần chủ động
xây dựng “bộ thủ tục hành chính” về giải quyết tranh chấp đất đai ở địa phương
từ đó loại bỏ những thủ tục không cần thiết. Đồng thời, thực hiện tốt công tác
công bố thông tin, công khai thông tin để mọi người dân nắm và hiểu được các trình
tự, thủ tục về quản lý, sử dụng đất đai nói chung, giải quyết tranh chấp đất đai
nói riêng.
Thứ ba, chủ động ban hành
văn bản về thủ tục giải quyết tranh chấp đất đai theo tiêu chuẩn ISO: 9001-2000
là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện giải quyết tốt theo cơ chế hành chính “một
cửa” ở các chính quyền trên địa bàn thành phố H.
6.2.Kết luận
Cải cách thủ tục hành
chính trong quản lý đất đai và giải quyết tranh chấp đất đai có ý nghĩa hết sức
quan trọng trong việc tạo sự chuyển biến căn bản mối quan hệ giữa Nhà nước và
người sử dụng đất; tạo môi trường thông thoáng, điều kiện thuận lợi cho người
sử dụng đất thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình, đặc biệt là các nhà đầu
tư trong và ngoài nước thực hiện quá trình tìm kiếm cơ hội, đầu tư trên địa bàn
Thành phố H. Hy vọng với việc thực hiện phương án tối ưu và các giải pháp nhằm
tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” trong giải quyết
tranh chấp đất đai như đã nêu trên, tình hình tranh chấp đất đai và giải quyết
tranh chấp dất đai ở Thành phố H trong thời gian tới sẽ có những chuyển biến và
đạt được những kết quả tốt hơn, tạo lập và củng cố niềm tin của nhân dân với
Nhà nước, đồng thời thiết lập trật tự trong hoạt động quản lý nhà nước về đất
đai, trật tự an toàn xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh
tế-xã hội, thiết thực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của địa
phương và cả nước.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 17-NQ/TW Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành
Trung ương Đảng khóa X ngày 1/8/2008 về đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước.
2. Quốc hội, Luật số
9/1998/QH 10 về khiếu nại, tố cáo, được Quốc hội nước Cộng
hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa X, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 02 tháng
12 năm 1998.
3.
Quốc hội, Luật số 13/2003/QH 11 về Đất đai, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội
chủ nghĩa Việt Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua ngày 26 tháng 11 năm 2003.
4.
Quốc hội, Luật số 22/2004/QH 11 về Thanh tra, được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
khóa XI, kỳ họp thứ 5 thông qua ngày 15 tháng 6 năm 2004.
5. Tòa án nhân dân tối cao, Công văn số 116/2006/KHXX
ngày 22/7/2004 về việc hướng dẫn thụ lý giải quyết tranh chấp đất đai theo quy
định của Luật Đất đai năm 2003.
6.
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh số 09/1998/PL-UBTVQH 10 về tổ chức và hoạt
động hòa giải ở cơ sở ngày 25/12/1998.
7.
Ủy ban thường vụ Quốc hội, Pháp lệnh sô 29/2006/PL-UBTVQH11 ngày 05 tháng 4 năm
2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án
hành chính.
[1]
Xem: Luật số 13/2003/QH 11 được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam khóa XI, kỳ họp thứ 4 thông qua
ngày 26 tháng 11 năm 2003.
[2]
Xem: Pháp lệnh sô 29/2006/PL-UBTVQH11 của Ủy ban thường vụ Quốc hội ngày 05
tháng 4 năm 2006 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Pháp lệnh thủ tục giải
quyết các vụ án hành chính.
No comments:
Post a Comment