Trung tâm viết Thành Nam giới thiệu:
Bài tiểu luận tình huống quản lý nhà nước số 02 dùng để tham khảo
>>Bài tiểu luận tình huống quản lý nhà nước dùng để tham khảo số 01
Bài tiểu luận tình huống quản lý nhà nước số 02 dùng để tham khảo
>>Bài tiểu luận tình huống quản lý nhà nước dùng để tham khảo số 01
MỤC LỤC
Trang
|
|
Lời nói đầu
|
|
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
|
|
1.1. Hoàn cảnh ra đời
|
|
1.2. Diễn biến tình
huống
|
|
II. PHÂN TÍCH TÌNH
HUỐNG
|
|
2.1. Mục tiêu phân tích
tình huống
|
|
2.2. Cơ sở lý luận
|
|
2.3. Phân tích diễn
biến tình huống
|
|
2.4. Nguyên nhân
|
|
III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
|
|
3.1. Mục tiêu xử lý
tình huống
|
|
3.2. Đề xuất, lựa chọn
phương án
|
|
3.3. Các giải pháp thực
hiện phương án tối ưu
|
|
IV. KIẾN NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
|
|
4.1. Một số kiến nghị
|
|
4.2. Kết luận
|
|
TÀI LIỆU THAM KHẢO
|
LỜI NÓI ĐẦU
Nhà
nước là chủ thể đại diện đương nhiên trong xã hội có giai cấp thực hiện vai trò
quản lý (cai trị) và cung ứng dịch vụ công cộng cho xã hội công dân. Để quản lý
mọi mặt của xã hội, nhà nước sử dụng các công cụ hỗ trợ như: pháp luật, kế
hoạch, chính sách,... nhằm định hướng, điều tiết, bảo đảm và bảo vệ các quan hệ
xã hội theo định hướng đã đặt ra. Trong đó, công cụ pháp luật được coi là công
cụ hữu hiệu do nhà nước ban hành và bảo đảm thực hiện bằng quyền lực nhà nước.
Tuy nhiên, những hạn chế về năng lực, khả năng xây dựng, ban hành văn bản quy
phạm pháp luật và tổ chức thực hiện của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền
không những không đảm bảo được mục tiêu mà nhà nước đặt ra mà còn gây tác động
xấu đến các quan hệ xã hội thuộc đối tượng điều chỉnh của nó.
Thực trạng hoạt động chấp hành và điều hành của cơ
quan hành pháp trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế ở
Việt Nam hiện nay, phản ánh khả năng, kỹ năng và năng lực trong việc tổ chức
thực hiện các nhiệm vụ được nhà nước giao trên các mặt, các lĩnh vực quản lý
còn hạn chế, như: Điều tiết, định hướng, hoạch định để bảo vệ thị trường còn
mang tính đối phó; bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của chủ thể hay duy trì trật
tự, kỷ cương còn yếu và kém nên hiệu quả chưa cao. Đặc biệt, khi triển khai
thực hiện Quyết định của Thủ tướng Chính phủ về thực hiện những cam kết khung
của Công ước quốc tế nhằm cắt giảm thuốc lá ở Việt Nam, trong đó có việc cấm
hút thuốc lá nơi công cộng, công sở,... cho thấy năng lực và khả năng thực tế
của các cơ quan quản lý nhà nước. Bởi, sau gần 1 tháng thực hiện, nhưng tình
hình hút thuốc vẫn không có sự chuyển biến ở những nơi nhạy cảm như: công sở,
nhà ga, bến xe, bệnh viện,... Điều này phản ánh hiệu quả thực thi các văn bản
quy phạm pháp luật trong thực tế còn thấp, chưa tạo được sự chuyển biến trong
nhận thức và ý thức tự giác chấp hành nghiêm minh của các chủ thể trong xã hội.
Để
nâng cao hiệu lực thực thi của các văn bản quy phạm pháp luật trong thực tế,
đòi hỏi phải nâng cao khả năng ban hành và kỹ năng, biện pháp tổ chức thực hiện
của các cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền, nhất là các lĩnh vực có liên
quan đến việc bảo đảm và bảo vệ sức khoẻ của con người trong giai đoạn hiện
nay. Với những lý do đó, tiểu luận lựa chọn vấn đề “Nâng cao hiệu quả tổ chức thực hiện văn bản quy phạm pháp luật trong
việc cấm hút thuốc nơi công cộng, công sở” làm nội dung cơ bản để viết bài
tiểu luận cuối khoá.
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1. Hoàn cảnh ra đời
Sau 10 năm thực hiện Nghị quyết của
Chính phủ về “Chính sách quốc gia phòng chống tác hại của thuốc lá” trong giai
đoạn 2001-2010 đã không đạt được các chỉ tiêu đặt ra về các tỷ lệ người hút
thuốc; cắt giảm các sản phẩm thuốc lá; quảng cáo thuốc lá;... Do vậy, để tiếp tục
thực hiện trách nhiệm và cam kết quốc tế về vấn đề này, Thủ tướng Chính phủ
tiếp tục ban hành Quyết định số 1315/QĐ-TTg ngày 21/08/2009 về việc phê duyệt
Kế hoạch thực hiện Công ước khung về kiểm soát thuốc lá trong đó xác định lộ
trình thực hiện việc cắt giảm như: Cấm hút thuốc lá nơi công cộng; giá thuế đối
với thuốc lá; các biện pháp cai nghiện và buôn bán sản phẩm thuốc lá;... Song, khi
tổ chức thực hiện Quyết định này từ ngày 01/01/2010 về cấm hút thuốc lá, thuốc
lào nơi công cộng, công sở thì dường như không có sự chuyển biến trong xã hội.
2. Diễn biến của tình
huống
Có thể thấy diễn biến tình hình chấp hành
văn bản của Chính phủ về việc cấm hút thuốc nơi công cộng, công sở thông qua phóng
sự được đăng tải trên Báo điện tử Việt Nam ngày 07/01/2010 như sau: “Sau gần một tuần Quyết định 1315
của Thủ tướng Chính phủ về việc cấm hút thuốc lá nơi công cộng có hiệu lực, tại
Hà Nội, việc thực hiện vẫn không nghiêm. Ngày
7-1, chúng tôi có mặt ở các điểm công cộng như bệnh viện, bến xe khách, nhà
ga... tại Hà Nội thì dường như quy định cấm hút thuốc lá chỉ có hiệu lực trên
giấy: Tại bến xe Giáp Bát, bến xe Mỹ Đình (Hà Nội), rất nhiều biển báo,
áp phích cấm hút thuốc lá được treo tại các điểm tập trung đông người, song
tình trạng xả khói vẫn diễn ra phổ biến mà không hề có lực lượng nào nhắc nhở.
Ngay cả ga Hà Nội, nơi chờ lên tàu vẫn có nhiều người thản nhiên hút thuốc. Đặc biệt, ngay cả nơi nhạy cảm với việc hút thuốc như bệnh
viện vẫn tràn ngập khói thuốc. Trong khuôn viên Bệnh viện Bạch Mai, một người
đàn ông chừng 50 tuổi vừa “soi” tấm phim chụp X- quang vừa phì phèo thuốc lá.
Ngay tại cổng khu vực nhà xe có treo tấm biển lớn “Không hút thuốc trong khu
vực nhà xe” nhưng chính nhân viên trông giữ xe của Bệnh viện cũng điềm nhiên
hút thuốc. Bước vào Bệnh viện K, cơ sở điều trị bệnh nhân ung thư lớn nhất cả
nước, ai cũng nhìn thấy ngay tấm biển rất to với dòng chữ “Không hút thuốc lá”,
kèm theo dòng phụ đề “Hút thuốc lá là nguyên nhân chính gây ra bệnh ung
thư”. Thế nhưng chỉ trong chưa đầy một
giờ quan sát tại khu vực ngồi chờ của người nhà bệnh nhân, chúng tôi đã gặp
hàng chục người đứng hút thuốc lá ngay dưới tấm biển “Cấm hút thuốc lá”. Thậm
chí, một số nhân viên y tế mặc áo blouse trắng cũng vừa đi vừa hút thuốc ngay
trong khuôn viên Bệnh viện....”[1].
Đây cũng chính là thực trạng chung trong cả nước trong thời gian qua.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
1. Mục tiêu phân tích tình
huống
Với những vấn đề mà diễn biến tình huống đề cập, có thể thấy
hàng loạt câu hỏi được đặt ra: Tại sao một văn bản của Chính phủ có sự chuẩn bị
về thời gian và lộ trình lại không được người hút thuốc lá, thuốc lào chấp hành?
các cơ quan có chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện và bảo đảm cho môi trường
công cộng không còn khói thuốc lại không thể làm gì được đối với các hành vi vi
phạm ?... là mục tiêu mà tình huống đặt ra cần phải có câu trả lời thoả đáng.
2. Cơ sở lý luận
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước Việt Nam pháp quyền xã hội
chủ nghĩa, bên cạnh việc xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện và đồng bộ
thì vấn đề hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý của bộ máy nhà nước là một vấn đề
quan trọng nhằm đảm bảo cho các quy định của pháp luật được tổ chức thực hiện
nghiêm minh góp phần xây dựng trật tự pháp luật xã hội chủ nghĩa, trật tự xã hội.
Hiệu lực và hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước, trong đó có
cơ quan quản lý nhà nước được xác định trong Nghị quyết số 17/NQ-TW, Hội nghị lần
thứ 5 Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X ngày 01/8/2007 về “Đẩy mạnh cải cách
hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy nhà nước”. Theo đó,
khẳng định mối quan hệ biến chứng giữa hiệu lực và hiệu quả hoạt động quản lý
nhà nước trong điều kiện ở nước ta hiện nay. Nếu hiệu lực của quản lý nhà nước
là sự tác động của chủ thể có thẩm quyền được pháp luật xác định một cách rành
mạch (tính trách nhiệm và phải chịu trách nhiệm về mọi hoạt động công vụ được
giao) thì hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước được thể hiện thông qua sự chấp
hành, đồng thuận và hợp tác trong mối quan hệ giữa các cơ quan quản lý nhà nước
với các đối tượng thuộc khách thể của hoạt động quản lý. Do vậy, xét dưới khía
cạnh này, thì việc Chính phủ, các cơ quan thuộc Chính phủ, Bộ, và chính quyền địa
phương các cấp thực hiện chức năng chấp hành và điều hành đã không đạt được mục
tiêu đặt ra nên hiệu quả thực tế của nó thấp. Chẳng hạn như, tình trạng người hút
thuốc vẫn ngang nhiên, cơ quan có thẩm quyền thì “làm ngơ”, “bỏ mặc” hay thậm
chí “coi như không biết, không liên quan”,... đã phản ánh những thiếu sót từ khâu
ban hành văn bản, chuẩn bị và tổ chức thực hiện các quy định trong thực tế.
Mặt khác, hiệu lực, hiệu quả trong hoạt động quản lý nhà nước
là cơ sở quan trọng để xây dựng nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Những biểu hiện
cơ bản:
Thứ nhất, pháp luật được ban hành ra nếu không được tổ chức
thực hiện hoặc thực hiện không có hiệu lực thực thi thì vô hình dung pháp luật đó
chỉ tồn tại trên “giấy”. Pháp luật chỉ khi nó được tồn tại và phát huy hiệu lực
trong thực tế thì mới đảm bảo các mục tiêu, nhiệm vụ mà pháp luật đặt ra theo đó
tình hình chấp hành pháp luật sẽ được đảm bảo thực hiện một cách nghiêm minh, bình
đẳng và thống nhất. Ngược lại, nếu không được tổ chức thực hiện hoặc thực hiện
không có hiệu quả làm nảy sinh tình trạng vi phạm, trật tự kỷ cương bị đảo lộn
theo đó nền pháp chế bị suy giảm. Như vậy, việc tổ chức thực hiện tốt pháp luật
trong các lĩnh vực quản lý là một tất yếu khách quan nhằm xây dựng nền pháp chế
xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, pháp chế xã hội chủ nghĩa là môi trường ưu việt để
hoạt động quản lý nhà nước tiến hành một cách hiệu quả nhất. Pháp chế xã hội chủ
nghĩa chính là sự đòi hỏi các chủ thể phải tuân thủ pháp luật nghiêm minh đồng
nghĩa với việc pháp chế nhằm thúc đẩy xây dựng một hệ thống pháp luật hoàn thiện
và đồng bộ theo đó là cơ sở pháp lý vững chắc để củng cố, tăng cường và bảo đảm
cho các hoạt động quản lý nhà nước được phát huy hiệu lực, hiệu quả trong thực
tế.
Như vậy, trong điều kiện xây dựng pháp chế xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay cần phải đảm bảo các yếu tố từ việc: xây dựng, ban hành đến tổ
chức thực hiện pháp luật phải đảm bảo đúng các yêu cầu nhằm phát huy tối đa hiệu
lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước trên các lĩnh vực của đời sống
kinh tế-xã hội; văn hoá; giáo dục; khoa học-công nghệ;...
3. Phân tích diễn biến tình
huống
Tình huống trên có thể được phân tích, đánh giá dưới nhiều góc
độ, tiêu chí khác nhau, chẳng hạn như: Căn cứ vào góc độ pháp lý có thể đánh giá
về tình hình vi phạm quy định của pháp luật của người dân, cán bộ, công chức,
viên chức; dưới góc độ xã hội học sẽ chỉ ra tỷ lệ % con người, nhóm người, lứa
tuổi, giới tính,.. trong xã hội hút thuốc hay bị hút thuốc lá thụ động ảnh hưởng
đến chất lượng sống hoặc dưới góc độ quản lý nhà nước nhằm chỉ ra về tính không
hiệu lực, hiệu quả của hoạt động quản lý nhà nước trong việc tổ chức thực hiện
Quyết định này. Dù dưới góc độ nào, thì chúng đều có một điểm chung là đều nhằm
ngăn chặn tác hại của thuốc lá đối với cộng đồng, bảo đảm sức khoẻ của con người.
Để làm sáng tỏ diễn biến trên, tiểu luận đánh giá dưới góc độ
quản lý nhà nước với các nội dung cơ bản sau:
Thứ nhất, hình thức và nội dung các văn bản quy phạm pháp luật
quy định về việc cấm hút thuốc nơi công cộng, công sở,... Cho đến thời điểm hiện
nay, các văn bản trước và sau Quyết định số 1315/QĐ-TTg ngày 21/08/2009 về việc phê duyệt Kế hoạch
thực hiện Công ước khung về kiểm soát thuốc lá của Thủ tướng Chính phủ bao gồm:
Nghị quyết của Chính phủ về “Chính sách quốc gia phòng chống tác hại của thuốc
lá” trong giai đoạn 2001-2010; Nghị định số 45/2005/NĐ-CP ngày 06/4/2005 của Chính
phủ về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế; Quyết định số 129/2007/QĐ-TTg ngày
02/8/2007 của Thủ tướng Chính phủ ban hành kèm theo Quy chế về văn hoá công sở
tại các cơ quan hành chính nhà nước; Chỉ thị số 12/2007/CT-TTg ngày 10/5/2007 của
Thủ tướng Chính phủ về tăng cường các hoạt động phòng, chống tác hại của thuốc
lá; Chỉ thị số 08/2001/CT-BYT ngày 03/8/2001 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc đẩy
mạnh hoạt động phòng, chống tác hại của thuốc lá trong ngành y tế; Quyết định số
02/2007/QĐ-BYT ngày 15/01/2007 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành quy định
về vệ sinh an toàn đối với sản phẩm thuốc lá; Quyết định số 5281/QĐ-BYT ngày
31/12/2009 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc ban hành kế hoạch thực hiện Quyết định
số 1315/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch thực hiện Công ước
khung về kiểm soát thuốc lá trong ngành y tế;... là các văn bản quy phạm pháp
luật được ban hành nhằm điều chỉnh hành vi sản xuất, kinh doanh, buôn bán và sử
dụng thuốc lá trong xã hội.
Tuy nhiên, xét về mặt hình thức pháp lý trong hệ thống văn bản quy phạm
pháp luật theo Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2008 ở Việt Nam hiện
nay thì các văn bản do Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng Bộ Y tế ban hành
là các văn bản mang tính chấp hành (văn bản dưới luật) các văn bản của cơ quan
lập pháp (văn bản luật) nên giá trị pháp lý của nó còn hạn chế. Nếu có Luật phòng,
chống thuốc lá thì có thể bảo đảm về tính thống nhất về hình thức pháp lý của văn
bản sẽ cao hơn.
Xét về nội dung quy định của các văn bản trên, tuy có văn bản quy định về
nội dung các hành vi sản xuất, quảng cáo, kinh doanh, buôn bán, tàng trữ và sử
dụng,... và các quy định về thủ tục tố tụng: trình tự thủ tục xử phạt hành chính
trong lĩnh vực y tế hay trách nhiệm của cơ quan chủ quản: Bộ y tế và các cơ
quan có liên quan như: Các bộ, các cơ quan ngang bộ; chính quyền địa phương các
cấp trong việc tổ chức thực hiện các quy định trên;... Mặc dù các quy định này
mang tính cụ thể hoá, hướng dẫn tổ chức thực hiện nhưng vẫn mang tính “chung
chung” chưa phải là các quy định để bảo đảm có thể thực hiện được. Chẳng hạn như,
lộ trình thực hiện Công ước về cắt giảm thuốc lá; mục tiêu cắt giảm thuốc lá nơi
công cộng, công sở;... nhưng thiếu đi những giải pháp mang tính cần thiết. Chủ
yếu các quy định được bảo đảm bằng “giáo dục, thuyết phục” mà chưa có sự gắn kết
với “cưỡng chế”. Theo Nghị định số 45/2005/NĐ-CP được Chính phủ ban hành về xử
phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực y tế, quyền xử phạt hút thuốc lá nơi
công cộng thuộc về thanh tra chuyên ngành của các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân
các cấp nhưng lực lượng này quá mỏng, lại phải chuyên trách nhiều việc. Dù
Chính phủ đã bổ sung một Nghị định về cấm hút thuốc lá nơi công cộng nhằm siết
chặt hành vi này nhưng việc xử phạt có lẽ vẫn quá khó đối với các cơ quan chức
năng. Vì thế sau 4 năm thực thi Nghị định số 45 vẫn chưa có một trường hợp nào
bị xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực này.
Do vậy, hình thức và nội dung của các văn bản quy định về việc triển khai
thực hiện cấm hút thuốc nơi công cộng, công sở chưa đảm bảo về giá trị pháp lý,
hiệu lực thực thi. Thậm chí, chưa có sự đồng bộ trong hệ thống văn bản của toàn
bộ các cơ quan quản lý nhà nước. Bởi lẽ, việc cấm hút thuốc lá nơi công cộng, công
sở có liên quan đến cá nhân ở mọi nơi, cấp và ngành trong khi đó chỉ có văn bản
của cơ quan chủ quản mà không có những văn bản phối hợp mang tính “liên tịch”
hay văn bản riêng lẻ của các bộ, ngành và địa phương khác. Điều này, tạo ra nhiều
mâu thuẫn về thể thức và nội dung quy định của văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành.
Thứ hai, hiệu quả và hiệu lực tổ chức thực hiện các văn bản
trên của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Thực tế tổ chức triển khai từ ngày
01/01/2010 nhưng hiệu lực, hiệu quả của nó còn có nhiều vướng mắc, khó khăn. Cụ
thể:
Một là, công tác tổ chức tuyên truyền, phổ biến đã được tổ chức
triển khai đa dạng, dưới nhiều hình thức khác nhau như: Hệ thống Panô áp phích
ghi “cấm hút thuốc” tại các nơi công cộng hay “thuốc lá có thể gây ung thư”,
“thuốc lá có hại cho sức khoẻ”; các phương tiện thông tin đại chúng (báo hình,
báo nói, báo viết) và các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị-xã hội; tổ chức xã
hội, tổ chức kinh tế,... đều tổ chức các buổi sinh hoạt phổ biến về các quy định
của Chính phủ,.. Như vậy, công tác tuyên truyền, phổ biến để mọi người dân, cán
bộ, công chức, viên chức biết được lộ trình và quy định của Nhà nước về cấm hút
thuốc lá được tiến hành trước ngày có hiệu lực của văn bản nên được mọi người
biết đến và có tác dụng sâu rộng. Tuy nhiên, các buổi tuyên truyền và các hình
thức phổ biến vẫn chỉ dừng lại ở việc “thông báo” cho chủ thể biết ngày cấm hút
thuốc mà không hề tuyên truyền, phổ biến về hình thức xử lý vi phạm đối với cá
nhân có hành vi vi phạm hay cơ quan có thẩm quyền về xử phạt vi phạm hành chính
trong hút thuốc lá nơi công cộng, công sở.
Hai là, công tác tổ chức thực thi bảo đảm môi trường công cộng
không có khói thuốc ở các đơn vị hành chính lãnh thổ theo khu vực đã được giới
hạn “cấm hút thuốc”. Tình huống trên chỉ ra một thực tế là người hút vẫn cứ hút,
bỏ qua các biển quảng cáo, Panô áp phích có quy định cấm. Thực tế, bản thân các
chính quyền địa phương trong phạm vi, quyền hạn của mình nhất là cấp tỉnh cần
phải chủ động xây dựng quy trình, thủ tục nhằm đảm bảo cho các quy định của Chính
phủ đi vào thực tế thì dường như không có cấp chính quyền nào có động thái này
mà chỉ dừng lại ở việc tuyên truyền, phổ biến là chính. Điều này dẫn đến một thực
trạng các quy định không những không được chấp hành thực hiện mà còn bị người dân
“coi thường”. Có thể thấy, không thấy bóng dáng của cơ quan, người có thẩm quyền
áp dụng trình tự xử phạt hành chính đối với những người vi phạm tại nơi công cộng,
công sở mà thay vào đó chỉ có lực lượng kiêm nhiệm của các cơ quan, tổ chức đứng
ra để nhắc nhở người vi phạm. Chẳng hạn tại xe Giáp Bát nơi cấm hút thuốc lá nhưng
nhân viên kiểm soát bén xe cũng chỉ được phép nhắc nhở nhở hành khách ra vào không
hút thuốc, trong khi đó ở bến xe khách ra vào nườm nượp, lại đủ hạng người nên
nhắc nhở rất khó khăn. Thậm chí, việc nhắc nhở không khéo thì chính nhân viên
kiểm soát cũng sẽ bị người hút thuốc sừng sộ hay lờ đi. Rõ ràng, các biện pháp
tiến hành vẫn chỉ là “nhắc nhở” chứ chưa phải là “cưỡng chế bằng xử phạt hành
chính” nên hiệu lực thực thi không có hiệu quả. Đối với bệnh viện, thì đội bảo
vệ của bệnh viện cũng nằm trong tình trạng chung như đội kiểm soát bến xe tức là
chỉ được phép nhắc nhở mà không có quyền xử phạt hành chính. Đối với cán bộ, công
chức, viên chức hay công nhân lao động thì có thể xử lý được dưới hình thức là
xử lý kỷ luật, trừ lương,... nhưng cái khó vẫn là cơ sở pháp lý cho thủ trưởng
các cơ quan này có thẩm quyền xử lý. Do vậy, tình trạng các cơ quan nhà nước, tổ
chức chính trị-xã hội, tổ chức kinh tế,... vẫn chỉ tổ chức “vận động” nhân viên
của mình mà không có biện pháp để xử lý một cách cương quyết.
Ba là, lực lượng tổ chức thực hiện quá mỏng không đảm bảo đủ để
có thể kiểm soát các khu vực công cộng, công sở. Hiện tại, chỉ có thanh tra
chuyên ngành của các bộ, ngành và Uỷ ban nhân dân các cấp mới là cơ quan chức năng
có thẩm quyền xử phạt hành chính theo Nghị định số 45/2005/NĐ-CP, nhưng sự mâu
thuẫn giữa khối lượng công việc được giao và số lượng biên chế cán bộ, công chức
thực hiện khó có thể tiến hành kịp thời tại mọi địa bàn theo quy định cấm. Hành
vi hút thuốc lá thường diễn ra bất chợp ở mỗi cá nhân (người nghiện thuốc) ở mọi
lúc, mọi nơi nên không thể theo dõi, kiểm tra, phát hiện và xử lý kịp thời.
Do vậy, từ thời điểm triển khai cho đến nay, trong cả nước chưa
có một quyết định xử phạt hành chính nào được Thanh tra chuyên ngành hay của Uỷ
ban nhân dân các cấp thực hiện về vấn đề này. Điều này đồng nghĩa với việc, văn
bản này không hề có sự tác động nào đến hành vi vi phạm của người hút thuốc nơi
công cộng, công sở-có nguy cơ “chết yểu”.
3. Nguyên nhân của tình
trạng trên
Qua phân tích những yếu kém và hạn chế trên, có thể thấy xuất
phát từ những nguyên nhân khách quan và chủ quan như:
Thứ nhất, nguyên nhân khách quan là do sự phát triển của nền
kinh tế thị trường đã tạo ra thị trường hàng hoá đa dạng, nhất là thị trường các
sản phẩm thuốc lá. Bên cạnh các sản phẩm thuốc lá trong nước thì các sản phẩm
thuốc lá ngoại nhập ngày càng tràn lan và có nhiều sản phẩm được sản xuất bằng
công nghệ cao nhằm thu hút, hấp dẫn người tiêu dùng. Do vậy, khi nhà nước đánh
thuế cao đối với sản phẩm thuốc trong nước và ngoại nhập thì số lượng thuốc lá
nhập lập gia tăng tạo ra những hạn chế trong lộ trình tăng thuế đối với thuốc lá-mặt
hàng không khuyến khích tiêu dùng. Trên thị trường, một bao thuốc lá nhập lậu có
chất lượng hơn hẳn thuốc lá sản xuất trong nước lại có giá rẻ hơn nhiều so với
sản phẩm thuốc lá trong nước nên không thể hạn chế được sản phẩm này đối với người
tiêu dùng ở Việt Nam
hiện nay.
Thứ hai, những nguyên nhân chủ quan như thể chế, năng lực tổ
chức thực hiện và lực lượng tổ chức như trên phân tích đã chỉ ra những yếu kém
về tính thống nhất và đồng bộ. Tính thống nhất và đồng bộ của thể chế pháp luật
đã tạo ra rào cản trong quá trình tổ chức thực thi cùng với những hạn chế về số
lượng, kỹ năng của cơ quan có thẩm quyền. Điều này phản ánh sự thụ động, ỷ lại,
chông chờ,... của cơ quan quản lý nhà nước ở các cấp, nhất là chính quyền địa
phương đã tạo ra cơ chế khó kiểm soát và quản lý hiệu quả lính vực này. Mặt khác,
ý thức của cá nhân trong xã hội trong việc chủ động bảo vệ mình và bảo vệ những
người xung quanh còn dè dặt. Đa số những người hút thuốc thường có thói quen lâu
năm nên họ chỉ chủ yếu thoả mãn nhu cầu của mình mà bỏ qua những người sung
quanh và sức khoẻ của họ. Đồng thời, những người sung quanh như gia đình, bạn bè,
đồng chí, đồng nghiệp,... thường “ngại va chạm” nên không muốn nhắc nhở mà chủ
yếu “bỏ mặc” người hút thuốc. Sự thiếu phản ứng “cương quyết” của những người này
đã tạo thêm động lực cho thói quen hút thuốc của người nghiện thuốc mà không thể
hạn chế, ngăn cản được người nghiện thuốc lá....
III.
XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
1. Mục tiêu xử lý tình huống
Mục tiêu mà tình huống đặt ra là phải giải quyết triệt để tình
trạng hút thuốc lá nơi công cộng-tức là không để những nơi này có khói thuốc gây
ảnh hưởng đến sức khoẻ của con người. Để đạt được thì cần xây dựng giải pháp nhằm
nâng cao hiệu lực của văn bản quy định hiện hành bằng hiệu quả hoạt động của cơ
quan quản lý nhà nước có thẩm quyền.
2. Đề xuất, lựa chọn phương án xử lý tình huống
2.1. Đề xuất
phương án xử lý tình huống
Với mục tiêu trên, tiểu luận mạnh dạn đề xuất các phương án cụ
thể như:
* Phương án 1: Phân loại đối tượng người hút thuốc để xây dựng biện pháp
xử lý.
- Mục tiêu của phương
án: Đảm bảo xây dựng các biện pháp xử lý phù hợp với từng loại đối tượng hút
thuốc, góp phần nâng cao hiệu quả thực thi của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.
- Nội dung thực hiện:
Để thực hiện được phương án trên, cần tiến hành:
+ Xây dựng văn bản nhằm phân loại các đối tượng hút thuốc. Đối
tượng là cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước, đơn vị hành
chính-sự nghiệp, doanh nghiệp của nhà nước; đối tượng là nhân viên trong các tổ
chức chính trị-xã hội; tổ chức xã hội; đối tượng là nhân viên trong các tổ chức
kinh tế (người lao động); đối tượng là người khác.
+ Tiến hành xây dựng các biện pháp xử lý phù hợp: Đối với đối
tượng hoạt động trong các cơ quan nhà nước giao cho thủ trưởng cơ quan và đồng
nghiệp theo dõi, phát hiện và xử lý với hình thức xử lý theo trách nhiệm kỷ
luật hoặc trừ lương; đối với nhân viên trong các tổ chức thì giao cho thủ trưởng
các cơ quan này phát hiện, báo cho cơ quan có thẩm quyền ngoài các biện pháp có
thể áp dụng theo Điều lệ của tổ chức thì phải báo cho cơ quan có thẩm quyền
(Thanh tra chuyên ngành hoặc Uỷ ban nhân dân) để tiến hành xử phạt; đối với đối
tượng khác có thể sử dụng biện pháp vừa động viên vừa xử lý hành chính theo quy
định hiện hành.
- Nguồn lực thực hiện
phương án:
+ Cơ quan thực hiện: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ cần xây dựng
văn bản quy phạm pháp luật chỉ đạo cho các bộ, ngành và địa phương chủ động xây
dựng kế hoạch và tổ chức thực hiện.
+ Kinh phí thực hiện: Do các bộ, ngành và địa phương tổ chức
thực hiện xác định cụ thể.
* Phương án 2: Tăng cường lực lượng cho Thanh tra chuyên ngành và Uỷ ban
nhân dân các cấp để tổ chức triển khai thực hiện xử phạt hành chính theo quy định
của Nghị định số 45/2005/NĐ-CP
- Mục tiêu của phương án:
Phương án này nhằm đảm bảo số lượng cho cơ quan có thẩm quyền có đủ số lượng, cơ
cấu, tổ chức để thực hiện xử phạt hành chính đối với những người vi phạm quy định
tại nơi cấm hút thuốc.
- Nội dung thực hiện:
Để thực hiện được phương án này cần tiến hành:
+ Xây dựng văn bản để kiện toàn tổ chức, cơ quan và bố trí nhân
sự hợp lý theo bộ, ngành và địa phương tiến tới xây dựng lực lượng chuyên trách
trong xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế.
+ Chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương tổ chức và bảo đảm thực
hiện.
- Nguồn lực thực hiện
phương án:
+ Cơ quan thực hiện: Chính phủ hoặc Thủ
tướng Chính phủ ban hành và chỉ đạo các bộ, ngành, địa phương xây dựng văn bản
quy phạm pháp luật và tổ chức thực hiện.
+ Kinh phí thực hiện: Kinh phí chi cho khảo sát, thiết kế và
trả lương lớn nên cần có ngân sách của Trung ương chi cho các bộ, ngành và địa
phương khi tổ chức thực hiện.
* Phương án 3: Phân cấp cho Thủ trưởng các cơ quan nhà nước, tổ chức chính
trị-xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính đối với người vi phạm quy định hút thuốc nơi công cộng, công sở.
- Mục tiêu của phương
án: Bảo đảm mọi hành vi hút thuốc đều được nhắc nhở và xử lý nghiêm minh
theo đúng quy định của Chính phủ.
- Nội dung thực hiện:
+ Tiến hành xây dựng văn bản quy phạm pháp luật nhằm đảm bảo
phân công, phân cấp trách nhiệm thực hiện.
+ Chỉ đạo và tổ chức thực hiện ở các cơ quan được phân cấp.
- Nguồn lực thực hiện
phương án:
+ Cơ quan thực hiện: Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ xây dựng
văn bản pháp lý và các cơ quan được phân cấp tổ chức thực hiện.
+ Nguồn lực thực hiện phương án: Kinh phí chi cho các cơ quan
theo sự phân cấp ngân sách nhà nước.
2.2. Lựa chọn phương án xử
lý tình huống
Ba phương án nêu trên đều có những ưu
điểm và hạn chế nhất định, có thể thấy:
- Nếu lựa chọn phương án 1 thì ưu điểm của nó là dễ áp dụng
theo từng đối tượng trong xử lý; tránh được sự chồng chéo chức năng; đỡ lãng phí
nguồn nhân lực tổ chức thực hiện và có tính khả thi cao nhất là đối với đối tượng
là cán bộ, công chức thuộc các cơ quan nhà nước. Tuy nhiên, nó cũng có những hạn
chế là khó áp dụng các quy định xử phạt hành chính đối với những đối tượng không
phải là nhân viên trong các tổ chức vì lực lượng mỏng như hiện nay.
- Nếu lựa chọn phương án 2, có ưu điểm: là đảm bảo đủ số lượng
biên chế, tổ chức để xử lý những trường hợp vi phạm ở các nơi có quy định cấm
nhưng có nhiều hạn chế về kinh phí chi trả lương, gia tăng biên số cán bộ, công
chức nhà nước.
- Nếu lựa chọn phương án 3, có ưu điểm là dễ dàng nhắc nhở và
xử lý người vi phạm ở mọi nơi nhưng có hạn chế là sự phân cấp, phân công dễ tạo
ra sự trùng lặp, lẫn lộn giữa cơ quan công quyền và cơ quan ngoài nhà nước, thậm
chí một số bộ phận, tổ chức, cá nhân được hành chính hoá có thể lạm quyền, lộng
quyền.
Từ những so sánh trên, phương án 1 là phương án có nhiều ưu điểm
nhất trong điều kiện ở nước ta hiện nay. Do vậy, tiểu luận lựa chọn phương án 1
là phương án tối ưu để tổ chức thực hiện.
3.Các giải pháp thực hiện
phương án tối ưu
Để thực hiện được phương án 1 (phương án tối ưu), trên cơ sở
những nội dung đã được đề cập ở trên, tiểu luận xác định các bước tiến hành cụ
thể như sau:
Bước 1: Xây dựng và ban hành
văn bản quy phạm pháp luật
Chính phủ chỉ đạo cho cơ quan chủ quản là Bộ Y tế, phối hợp với
các cơ quan, ban, ngành khác tiến hành khảo sát thực tế, phân loại đối tượng để
từ đó soạn thảo văn bản trình Chính phủ xem xét ban hành Nghị định. Nghị định
phải thể hiện được các nội dung cơ bản như: Đối tượng và phạm vi áp dụng; thẩm
quyền và trách nhiệm của các cơ quan thực hiện; khen thưởng và xử phạt. Thời
gian để tiến hành khảo sát, phân loại và ban hành Nghị định khoảng 3 tháng.
Bộ y tế, các bộ, ngành, địa phương chủ động xây dựng văn bản dưới dạng chỉ
thị sau khi có văn bản của Chính phủ để xác định đối với từng đối tượng cụ thể
thuộc lĩnh vực mình quản lý; cơ quan, người có thẩm quyền xử phạt vi phạm hành
chính và các biện pháp bảo đảm thực hiện cụ thể. Cơ quan nào thì quản lý nhân
viên của cơ quan đó và áp dụng các biện pháp xử lý theo quy định chung. Các văn
bản của Trung ương phải đảm bảo tính tạo ra cơ sở pháp lý pháp lý thống nhất
cho các chính quyền địa phương (cơ quan có thẩm quyền chung và cơ quan chuyên môn
có thẩm quyền riêng), các cơ quan, đơn vị, hành chính sự nghiệp của nhà nước xác
định rõ trách nhiệm và biện pháp tổ chức thực hiện. Thời gian thực hiện có thể
là 2 tháng.
Bước 2: Chỉ đạo và tổ chức
thực hiện
Sau khi có văn bản của Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương
theo sự chỉ đạo của Chính phủ để tiến hành tổ chức chỉ đạo thực hiện trong ngành,
lĩnh vực và địa phương mình quản lý.
Công tác chỉ đạo phải thực sự kiên quyết, bám sát theo từng
hoạt động của mỗi đầu mối cơ quan được giao. Trong đó có tổng kết rút kinh nghiệm
theo từng quý, tháng theo hình thức giao ban tại cơ quan và giao ban giữa các cơ
quan.
Công tác tổ chức thực hiện cần nhanh chóng tổ chức nghiêm túc
và đồng loạt tại các cơ quan đã được phân loại đối tượng. Mỗi cơ quan, đơn vị cụ
thể cần xây dựng các kế hoạch phân công theo dõi, kiểm tra, đôn đốc nhắc nhở vi
phạm và tiến hành bàn giao những trường hợp vi phạm cho người có thẩm quyền (Thủ
trưởng cơ quan). Hàng tuần, tháng, quý và năm tổ chức sinh hoạt công khai, dân
chủ (có thể tổ chức một buổi riêng hoặc lồng ghép với các buổi sinh hoạt khác của
cơ quan) để tiến hành nêu gương những cán bộ, công chức, viên chức bỏ thuốc; những
trường hợp cố tình vi phạm bị xử lý;...
IV.KIẾN
NGHỊ VÀ KẾT LUẬN
1. Một số kiến nghị
Đối với Trung ương:
- Chính phủ trình báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc hội hoặc trình
Quốc hội (tại kỳ họp gần nhất) để tiến hành đưa vào kế hoạch làm Luật phòng chống
thuốc lá (Luật phòng, chống tác hại của thuốc lá) làm cơ sở pháp lý cho việc xây
dựng và tổ chức thực hiện vấn đề này trong điều kiện ở Việt Nam trong thời gian
tới.
- Chính phủ cần kiên quyết chỉ đạo và giám sát thực hiện một
cách nghiêm túc nhằm tạo ra tính ổn định và bền vững về thời gian và quy mô. Tránh
tình trạng “Đáng trống bỏ rùi”; “hình thức, qua loa, đại khái”;... để mọi quy định
đều được làm triệt để và đến nơi, đến chốn.
- Bộ Y tế cần chủ động, phối hợp, hiệp đồng với các bộ, ngành
ở Trung ương để bảo đảm việc xây dựng và tổ chức thực hiện theo đúng lộ trình,
nội dung thống nhất trong phạm toàn quốc. Đồng thời, tạo ra kênh thông tin trao
đổi kinh nghiệm, kỹ năng và phối hợp nhịp nhàng trong phát hiện và xử lý các đối
tượng.
Đối với địa phương:
- Chính quyền địa phương các cấp cần thấy rõ trách nhiệm của
mình trong tổ chức thực hiện các quy định ở công sở và chỉ đạo các đơn vị trên địa
bàn tiến hành thực hiện tốt các quy định được giao.
- Ủy ban nhân dân các cấp cần chỉ đạo và phối hợp với các tổ
chức chính trị-xã hội, tổ chức xã hội, đoàn thể, tổ chức kinh tế,... nhằm tổ chức
tuyên truyền, vận động nâng cao ý thức tự giác và phát hiện kịp thời các trường
hợp vi phạm để tiến hành xử lý hoặc giao cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền xử
lý.
2. Kết luận
Thực hiện chính sách cắt giảm thuốc lá,
trong đó có việc hút thuốc lá nơi công cộng là chủ trương, chính sách đúng đắn
của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo đảm sức khoẻ cho con người và phát triển
kinh tế xã hội bền vững. Bởi lẽ, ngoài những tác hại đối với sức khoẻ, hút
thuốc lá còn gây ra những tổn thất lớn về kinh tế cho từng gia đình và toàn xã
hội. Do vậy, cần chủ động xây dựng các biện pháp tổng hợp một mặt nhằm nâng cao
ý thức bảo vệ của cộng đồng và mặt khác, bảo đảm duy trì pháp chế xã hội chủ
nghĩa trong công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân. Làm tốt các vấn đề trên vừa là
cơ sở để tăng cường hiệu lực của các văn bản quản lý vừa là cơ sở thực hiện tốt
các cam kết của Việt Nam và trách nhiệm của Nhà nước đối với công dân trong điều
kiện ở nước ta hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
01.
|
Bộ trưởng Bộ
Y tế, Chỉ thị số
08/2001/CT-BYT ngày 03/8/2001 về việc đẩy mạnh hoạt động phòng, chống tác hại
của thuốc lá trong ngành y tế.
|
02.
|
Bộ trưởng Bộ
Y tế, Quyết định số
02/2007/QĐ-BYT ngày 15/01/2007 về việc ban hành quy định về vệ sinh an toàn đối
với sản phẩm thuốc lá.
|
03.
|
Bộ trưởng Bộ
Y tế, Quyết định số
5281/QĐ-BYT ngày 31/12/2009 về việc ban hành kế hoạch thực hiện Quyết định số
1315/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt kế hoạch thực hiện Công ước
khung về kiểm soát thuốc lá trong ngành y tế
|
04.
|
Chính phủ, Nghị định số 45/2005/NĐ-CP ngày
06/4/2005 về xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế.
|
05.
|
Đảng Cộng sản
Việt
|
06.
|
Thủ tướng
Chính phủ, Chỉ thị số
12/2007/CT-TTg ngày 10/5/2007 về tăng cường các hoạt động phòng, chống tác hại
của thuốc lá.
|
07.
|
Thủ tướng
Chính phủ, Quyết định
số 129/2007/QĐ-TTg ngày 02/8/2007 ban hành kèm theo Quy chế về văn hoá công sở
tại các cơ quan hành chính nhà nước.
|
08.
|
Thủ tướng
Chính phủ, Quyết định số
1315/QĐ-TTg ngày 21/08/2009 về việc phê duyệt Kế hoạch thực hiện Công ước
khung về kiểm soát thuốc lá.
|
No comments:
Post a Comment