Trung tâm viết Thành Nam giới thiệu:
Bài tiểu luận tình huống quản lý nhà nước số 03 dùng để tham khảo
>>Bài tiểu luận tình huống quản lý nhà nước dùng để tham khảo số 01
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 02
Bài tiểu luận tình huống quản lý nhà nước số 03 dùng để tham khảo
>>Bài tiểu luận tình huống quản lý nhà nước dùng để tham khảo số 01
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 02
MỤC LỤC
Trang
|
|
Mở đầu
|
2
|
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
|
3
|
1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tình huống
|
3
|
1.2. Mô tả tình
huống
|
3
|
II. PHÂN TÍCH TÌNH
HUỐNG
|
5
|
2.1. Mục tiêu phân
tích tình huống
|
5
|
2.2. Cơ sở lý luận
|
5
|
2.3. Phân tích diễn
biến
|
8
|
2.4. Nguyên nhân
dẫn đến tình huống
|
9
|
2.5. Hậu quả tình
huống
|
12
|
III. XỬ LÝ TÌNH
HUỐNG
|
13
|
3.1. Mục tiêu xử lý
tình huống
|
13
|
3.2. Đề xuất, lựa
chọn phương án
|
13
|
3.3. Các giải pháp
thực hiện phương án lựa chọn
|
16
|
IV. KIẾN NGHỊ
|
20
|
KẾT LUẬN
|
21
|
TÀI LIỆU THAM KHẢO
|
21
|
MỞ ĐẦU
Hằng năm, kinh
phí dành cho chi tiêu mua sắm tài sản, sử dụng dịch vụ từ nguồn ngân sách Nhà
nước chiếm tỷ trọng lớn, để phục vụ hoạt động của các cơ quan, đơn vị, tổ chức
nhà nước và đáp ứng nhu cầu của xã hội. Nhưng trong đó có một phần đáng kể tiền vốn này đã không được sử
dụng hiệu quả, gây lãng phí, thất thoát, tạo cơ hội cho tham nhũng, nguyên nhân
bắt đầu từ khâu mua sắm.
Mua sắm tài sản công
là khâu đầu tiên của quá trình quản lý tài sản nhà nước, có vị trí then chốt để
bảo đảm hiệu quả trong sử dụng, quản lý tài sản phục vụ cho các mục tiêu của
quản lý nhà nước. Mua sắm tài sản công quyết định sự phù hợp hay không phù hợp
về tài sản phục vụ cho hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước; quyết
định việc tài sản được sử dụng lâu dài hay không lâu dài tùy theo chất lượng
của tài sản mua sắm; quyết định chi phí về tài sản trong tổng chi tiêu công. Do
đó, việc mua sắm công phải đáp ứng các yêu cầu: phù hợp tiêu chuẩn, định mức sử
dụng tài sản và chế độ quản lý, sử dụng tài sản nhà nước do cơ quan nhà nước có
thẩm quyền quy định; đáp ứng một cách tối ưu nhu cầu về tài sản để phục vụ hoạt
động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước trong điều kiện khả năng ngân
sách có hạn; tuân thủ các quy định của pháp luật về đấu thầu mua sắm tài sản; bảo
đảm công khai, minh bạch...
Việt Nam là quốc gia
đang phát triển, nhu cầu và số lượng kinh phí mua sắm tài sản công để phục vụ
hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước chiếm tỷ trọng lớn. Dự toán chi
ngân sách Trung ương năm 2009 cho phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc
phòng, an ninh, quản lý hành chính sự nghiệp là 160.231 tỷ đồng, trong đó 20%
được sử dụng để mua sắm tài sản. Theo các kết quả kiểm toán mới nhất của Kiểm toán Nhà nước cho thấy, tình trạng sử
dụng vốn ngân sách sai mục đích, mua sắm tài sản, thiết bị vượt tiêu chuẩn, sai
quy định, thậm chí kém chất lượng, gây lãng phí xảy ra “tương đối nhiều”. Đây
chính là nguyên nhân dẫn đến thất thoát và sử dụng không hiệu quả các nguồn tài
chính nhà nước, nảy sinh nhiều tiêu cực làm giảm hiệu lực, hiệu quả hoạt động
của bộ máy Nhà nước, gây mất niềm tin trong nhân nhân. Vì vậy, đây luôn là vấn đề
được cả Nhà nước và xã hội quan tâm. Trên cơ sở các kiến thức đã học về quản lý
tài chính công trong chương trình chuyên viên chính và kinh nghiệm thực tiễn
công tác của bản thân, tác giả lựa chọn vấn đề “Mua sắm tài sản công tại các
cơ quan, đơn vị thuộc khu vực hành chính nhà nước” làm đề tài tiểu luận là
vấn đề có ý nghĩa thiết thực cả về lý luận và thực tiễn.
I. NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
1.1. Hoàn cảnh xuất hiện tình huống
Những yếu kém
và sai phạm trong mua sắm tài sản công tại các cơ quan, đơn vị thuộc khu vực
hành chính nhà nước bắt nguồn từ chủ trương và chính sách của Nhà nước trong
việc hiện đại hoá nền hành chính, cải cách hành chính nhằm nâng cao năng lực,
hiệu lực và hiệu quả hoạt động của bộ máy hành chính nhà nước trong phục vụ đời
sống xã hội, thúc đẩy tăng trưởng và giao lưu hợp tác kinh tế quốc tế một cách
nhanh chóng, đúng định hướng của Đảng và Nhà nước ta.
1.2. Mô tả tình huống
Tình hình mua sắm tài sản Nhà nước trong những năm vừa qua, đặc biệt là
trong hai năm 2007 và 2008 đã gây thất thoát hàng chục tỷ động và nhiều triệu
USD từ ngân sách nhà nước (NSNN). Các sai phạm nảy sinh từ nhiều cơ quan, đơn
vị của bộ máy hành chính từ Trung ương đến địa phương. Tiêu biểu là 4 dự án
(D.A) có nguồn vốn hỗ trợ của Nhà nước tại Tổng Công ty Điện tử và Tin học Việt
Nam không phát huy được hiệu quả với số tiền 8.600 triệu đồng; Cty Vắc xin -
Sinh phẩm Y tế số 1 (Hà Nội) đầu tư mua sắm thiết bị để sản xuất vắc xin dại
thế hệ cũ Fuenzalida hiệu quả kém với số tiền 1.287.119 USD; việc thực hiện D.A
mua sắm thiết bị dạy học của Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD&ĐT) gây lãng phí
4.089,8 triệu đồng; việc đầu tư xây dựng phòng thí nghiệm trọng điểm bể thử và
mô hình tàu thủy lãng phí 1.626,83 triệu đồng và 2.608.000 USD.
Bên cạnh đó, theo Báo
cáo của Kiểm toán Nhà nước về việc mua sắm, quản lý và sử dụng tài sản công tại
các ban quan lý dự án thuộc 4 bộ: Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ
Giao thông Vận tải, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục- Đào tạo, và 4 địa phương: Hà Nội,
TPHCM, Ninh Bình và Đồng Nai còn chĩ rõ hiện tượng sử dụng xe công không đúng
mục đích, mua sắm thiết bị vượt tiêu chuẩn, sai quy định, thậm chí kém chất
lượng vẫn tồn tại…
Số
tiền mà các ban quản lý dự án của 4 bộ và 4 địa phương mua sắm tài sản thiết bị
vượt tiêu chuẩn chế độ, sai mục đích là hơn 95 tỷ đồng. Cụ thể, tài sản
nhà đất vượt tiêu chuẩn hơn 19 tỷ đồng, xây dựng vượt tiêu chuẩn hơn 4,5 triệu
đồng. Các phương tiện đi lại mua cao hơn tiêu chuẩn, không đúng nguồn lên
tới hơn 53 tỷ đồng. Trong đó, 73 ô tô vượt chuẩn gần 33 tỷ đồng, 160 xe máy
ngoài chế độ trang bị cho cán bộ trị giá 4,3 tỷ đồng….. Đáng chú ý là 61 máy
tính xách tay trị giá 1,3 tỷ, 26 chiếc điện thoại di động trị giá 172 triệu
đồng (trung bình 6,6 triệu đồng/chiếc), gấp rưỡi so với tiêu chuẩn, trong khi
tiêu chuẩn điện thoại đối với cấp Vụ hoặc Thứ trưởng chỉ từ 3 tới 4 triệu.
Kiểm toán Nhà nước cũng chỉ rõ sự lỏng
lẻo trong việc mua sắm, quản lý và sử dụng tài sản của các ban quản lý dự án.
Một số lượng tiền lớn được đầu tư mua sắm máy móc thiết bị nhưng không thể đưa
vào sử dụng do không phù hợp với nhu cầu sử dụng, hoặc đầu tư không đồng bộ. Ví
dụ như chưa có phòng đặt máy, chưa có đội ngũ nhân lực sử dụng đã mua thiết
bị. Thậm chí nhiều trang thiết bị mua về còn hỏng ngay từ khi bàn giao, như: 7
thiết bị tại Bệnh viện Đa Khoa Thanh Thủy trị giá 688 triệu đồng, 10 thiết bị
Bệnh viện Đa khoa Tam Nông trị giá 618 triệu đồng, 14 thiết bị của Bệnh viện Đa
Khoa Bình Xuyên trị giá 533 triệu đồng... Thậm chí chỉ một trung tâm Y tế thuộc
tỉnh Vĩnh Yên lại mua tới 1.725 xe đạp có trị giá 1,4 tỷ đồng…Có thể nói, việc
nghiên cứu nhằm tìm ra giải pháp phù
hợp để hạn chế tình trạng thất thoát trong việc quản lý, mua sắm và sử dụng tài
sản công là chuyện đang làm đau đầu các cơ quan quản lý.
II. PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
2.1. Mục tiêu phân tích tình huống
Mục tiêu của việc
phân tích tình huống là nhằm làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá nguyên nhân, hậu
quả và tìm ra các giải pháp để nâng cao hiệu quả hoạt động mua sắm, quản lý và sử dụng tài sản công tại
các cơ quan, đơn vị thuộc khu vực hành chính nhà nước.
2.2. Cơ sở lý luận
Vấn đề quản lý tài
sản được đầu tư, trang bị cho cơ quan nhà nước là để phục vụ cho việc thực hiện
chức năng, nhiệm vụ của chính các cơ quan đó và để phục vụ cho các mục tiêu
phát triển kinh tế, văn hoá-xã hội. Điều này bắt nguồn từ bản chất của dân, do
dân và vì dân của Nhà nước ta do Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng cộng sản Việt Nam
gây dựng. Nhà nước là công cụ của nhân dân, là hình thức để tập hợp, quy tụ sức
mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp chung chứ Nhà nước không phải là nơi để
"thăng quan, phát tài", chia nhau quyền lực, lợi ích và bổng lộc.
Người khẳng định: "Bao nhiêu quyền hạn đều là của dân, chính quyền từ xã
đến Chính phủ trung ương đều do dân cử ra"... Việc xây dựng nâng cao hiệu
quả hoạt động của nhà nước phải căn cứ vào chỗ bộ máy nhà nước giải quyết những
nhu cầu thiết yếu hằng ngày của dân chúng tốt hay chưa, có vì lợi ích của nhân
dân, một lòng một dạ phục vụ nhân dân hay không.
Thực hiện tư tưởng
của Chủ tịch Hồ Chí Minh và chủ trương, đường lối của Đảng trong lãnh đạo Nhà nước
và xã hội, sau gần 17 năm đổi mới, nhất là 5 năm gần đây, nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam từng bước được hình thành. Qua
đó, sự quản lý của Nhà nước về kinh tế đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Tuy
nhiên, tất cả mới chỉ là bước đầu, nhất là sự quản lý của Nhà nước về kinh tế
còn nhiều yếu kém, hiệu lực và hiệu quả quản lý còn thấp. Hệ thống luật pháp, chính
sách chưa đồng bộ và chưa nhất quán, kỷ cương pháp luật chưa nghiêm. Công tác
tài chính, ngân hàng, giá cả, kế hoạch, quy hoạch xây dựng, quản lý đất đai...
còn nhiều yếu kém, sơ hở; thủ tục hành chính vẫn rườm rà, cải cách hành chính
còn chậm và chưa kiên quyết. Do đó, bên cạnh việc nâng cao hiệu lực và hiệu quả
quản lý của Nhà nước đối với kinh tế thị trường là việc nâng cao hiệu lực, hiệu
quả trong mua sắm, quản lý và sử dụng tài sản công ở Việt Nam.
Để làm được điều đó, Đảng
và Nhà nước ta chủ trương cải cách nền hành chính nhà nước (HCNN) và đã có các
nghị quyết chuyên đề về cải cách nền HCNN; xây dựng và tổ chức thực hiện Chương
trình tổng thể cải cách HCNN giai đoạn 2001-2010 với nhiều nội dung, biện pháp,
trong đó sắp xếp, tinh giản bộ máy hành chính và thực hành tiết kiệm là một vấn
đề có ý nghĩa quan trọng. Đối với vấn đề này, V.I.Lênin đã viết: “Nhiệm vụ cấp
thiết, chủ yếu nhất trong lúc này, và cũng vẫn còn là nhiệm vụ quan trọng nhất
trong những năm sắp tới, là không ngừng tinh giản bộ máy xô - viết và giảm bớt
chi phí của nó bằng cách giảm nhẹ biên chế, cải tiến tổ chức, xoá bỏ tác phong
lề mề hành chính, bệnh quan liêu và giảm bớt các khoản chi tiêu phi sản
xuất”(1). V.I.Lênin đã đặt vấn đề tiết kiệm trong xây dựng bộ máy HCNN cả trong
sản xuất và tiêu dùng, trong hoạt động sản xuất và hoạt động quản lý, trong xây
dựng bộ máy, trong hình thành luật pháp, cả về thời gian, công sức lao động và
phương thức sử dụng hợp lý các nguồn lực, bảo đảm phát huy tối ưu các nguồn lực
có được. Người chỉ rõ, “nhờ một sự tiết kiệm nghiêm ngặt nhất trong việc quản
lý nhà nước của chúng ta, chúng ta sẽ có thể dùng cả đến món tiền tiết kiệm nhỏ
nhất để phát triển đại công nghiệp cơ khí của chúng ta”(2).
Hội nghị Trung ương 5
khoá X đã chủ trương đẩy mạnh cải cách hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả
quản lý của bộ máy nhà nước. Nghị quyết xác định rõ mục tiêu, quan điểm, yêu
cầu và 10 chủ trương, giải pháp đẩy mạnh cải cách hành chính: tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng đối với công tác cải cách hành chính; thực hiện đồng bộ cải
cách hành chính với cải cách lập pháp, cải cách tư pháp; tiếp tục xây dựng và
hoàn thiện hệ thống thể chế, tiếp tục đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính; xác
định rõ chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ và các cơ quan HCNN; tiếp tục cải
cách chế độ công vụ, công chức, cải cách tài chính công; hiện đại hoá nền HCNN;
giải quyết tốt mối quan hệ giữa cơ quan hành chính với nhân dân, huy động sự
tham gia có hiệu quả của nhân dân và xã hội vào hoạt động quản lý của các cơ
quan HCNN; nâng cao nhận thức và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên đối với công
tác cải cách hành chính.
Trên cơ sở các quan điểm, tư tưởng của Lênin
và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chủ trương, đường lối của Đảng về cải cách hành chính
trong đó cải cách tài chính công là một nội dung trọng tâm, để hoạt động mua
sắm, quản lý, sử dụng tài sản công đi vào nề nếp, khắc phục các vi phạm, Nhà
nước đã tập trung xây dựng, hoàn thiện các quy định pháp luật về lĩnh vực này.
Từ năm 2005 đến nay, Quốc hội đã ban hành các luật: Ðầu tư; Ðấu thầu; Quản lý,
sử dụng tài sản nhà nước; Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; Phòng, chống
tham nhũng; Quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước. Chính phủ cũng đã ban hành nhiều
Nghị định quy định về vấn đề này như Nghị định số 52/2009/NÐ-CP ngày 03 tháng 6
năm 2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý,
sử dụng tài sản nhà nước, Nghị định số 111/2006/NÐ-CP ngày 29/9/2006 hướng dẫn
thi hành Luật Ðấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây dựng. Bộ Tài
chính ban hành Thông tư số 63/2007/TT-BTC ngày 15/6/2007; Thông tư số
131/2007/TT-BTC ngày 5/11/2007 sửa đổi, bổ sung Thông tư số 63/2007/TT-BTC
hướng dẫn thực hiện đấu thầu mua sắm tài sản. Ðặc biệt, Thủ tướng Chính phủ ban
hành Quyết định số 179/2007/QÐ-TTg, ngày 26/11/2007 về quy chế tổ chức mua sắm
tài sản, hàng hóa từ ngân sách Nhà nước theo phương thức tập trung; Thông tư số
22/2008/TT-BTC ngày 10/3/2008 hướng dẫn thực hiện một số nội dung quy chế của
quyết định. Với các văn bản quy phạm pháp luật này, việc mua sắm, quản lý và sử
dụng tài sản công trong thời gian qua đã có những tiến bộ, kết quả bước đầu.
Tuy nhiên, theo đánh giá của cơ quan chức năng, việc đầu tư kém hiệu quả, gây
thất thoát, lãng phí trong chi tiêu, mua sắm tài sản công vẫn là vấn đề phức
tạp, khó kiểm soát.
2.3. Phân tích diễn biến
Từ nội dung của tình
huống cho thấy sự thiếu trách nhiệm, của các bộ ngành, các địa phương trong
việc sử dụng nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Trong 2 năm 2007 và 2008, TTCP đã
thực hiện 47 cuộc thanh tra, trong đó 12 cuộc thanh tra có nội dung liên quan
đến việc mua sắm, quản lý và sử dụng tài sản Nhà nước và đã có Báo cáo số 1035/BC-TTCP gửi Ủy ban Tài chính
- Ngân sách của Quốc hội khóa XII về tình hình mua sắm, quản lý và sử dụng tài
sản Nhà nước qua công tác thanh tra, thể hiện con số thất thoát NSNN là
khá lớn.
Sai phạm lớn nhất của
các đơn vị được thanh tra là công tác thẩm định, phê duyệt dự án (D.A) đầu tư
từ nguồn vốn NSNN. Thanh tra Chính phủ (TTCP) khẳng định, chính việc thẩm định,
phê duyệt thiếu chính xác, thiếu căn cứ dẫn đến D.A thực hiện xong không phát
huy được hiệu quả là nguyên nhân gây thất thoát, lãng phí ngân sách.
Qua thanh tra, các
đoàn thanh tra cũng phát hiện còn có sự chênh lệch lớn giữa giá mua vào của các
doanh nghiệp cung cấp và giá bán của các đơn vị này như việc mua sắm đàn Casio
LK55VN của Bộ GD&ĐT; việc xây dựng mua sắm trang thiết bị cho các phòng thí
nghiệm trọng điểm. Việc mua sắm tài sản theo các D.A được đầu tư thường bị các
bên tham gia thực hiện D.A vi phạm thời gian thực hiện hợp đồng, dẫn đến kéo dài
thời gian, làm giảm hiệu quả đầu tư.
Báo cáo cũng khẳng
định, việc chấp hành các qui định về đầu tư xây dựng cơ bản, các qui định của
Nhà nước về quản lý, sử dụng NSNN chưa được thực hiện tốt. Cá biệt, có những
D.A lớn được đầu tư, nhưng đơn vị không xin phép cơ quan chủ quản như 2 D.A tại
Tổng Công ty Điện tử và Tin học Việt Nam với số tiền gần 200 triệu đồng.
Rõ ràng các ban quản
lý dự án đã có sự lợi dụng trong chi tiêu và mua sắm công. Có thể nói,
các ban quản lý dự án thực hiện chỉ đạo của Chính phủ về các biện pháp tiết
kiệm giảm bội chi ngân sách chưa nghiêm. Suy nghĩ và chỉ đạo của các đơn
vị này là chưa tốt nên khâu tổng hợp, giám sát, xử lý không kịp thời, dẫn đến
tác dụng răn đe và ngăn ngừa còn thấp.
2.4. Nguyên nhân dẫn đến tình huống
Các sai phạm trong
việc mua sắm tài sản công diễn ra tương đối nhiều và bắt nguồn từ các nguyên
nhân chủ quan và khách quan, bao gồm:
Thứ nhất, về nguyên
nhân chủ quan, bao gồm:
- Sự thiếu kiên quyết
trong việc quản lý, kiểm tra và giám sát hoạt động mua sắm tài sản công tại các
cơ quan, đơn vị. Có rất nhiều bộ ngành, địa phương, tổng công ty của Nhà nước
không tổng hợp tình hình sử dụng, quản lý và mua sắm tài sản công để báo cáo
lên Bộ Tài chính, cơ quan có thẩm quyền cấp trên theo chỉ đạo của Thủ tướng
Chính phủ. Hoạt động kiểm tra, giám sát quy trình, hiệu quả mua sắm tài sản
công của cơ quan cấp trên, kiểm toán và thanh tra nhà nước chưa được tiến hành
chặt chẽ, còn có tình trạng nể nang, nhất là trong xử lý và kiến nghị xử lý các
sai phạm.
- Sự thông đồng trong
đấu thầu của các doanh nghiệp, tổ chức hay cá nhân nhằm trục lợi bất chính từ
nguồn ngân sách Nhà nước. Qua theo dõi của Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương),
việc mua sắm tài sản công liên quan đến các gói thầu có giá trị lớn nên thường
nảy sinh các hành vi thông đồng giữa các cơ quan quản lý hay tổ chức thầu và
bên dự thầu, hoặc các thông tin liên quan đến hoạt động mua sắm tài sản công
không bảo đảm tính công khai, minh bạch, do đó không tạo lập, duy trì và thúc đẩy
môi trường cạnh tranh lành mạnh trong hoạt động mua sắm tài sản công.
- Sự thiếu trách
nhiệm của cá nhân, lãnh đạo các cơ quan, đơn vị trong mua sắm tài sản công phù
hợp với tiêu chuẩn, định mức, chế độ quản lý, sử dụng tài sản nhà nước. Phần
lớn các sai phạm trong mua sắm tài sản công là việc mua sắm vượt định mức, tiêu
chuẩn quy định hoặc trình tự, thủ tục mua sắm không được thực hiện theo quy định
của pháp luật về đấu thầu và các quy định pháp luật khác có liên quan. Mặt
khác, do nhận thức chưa đúng đắn nên lãnh đạo của một số cơ quan, đơn vị còn cố
tình vi phạm nhằm thể hiện vị trí, vai trò của mình và của cơ quan, đơn vị mình
trong mối quan hệ với các cơ quan, đơn vị khác.
Thứ hai, nguyên nhân
khách quan, bao gồm:
- Pháp luật về quản lý, sử dụng tài sản
nhà nước quy định còn phân tán, chưa đầy đủ, thiếu đồng bộ, chưa điều chỉnh bao
quát hết các quan hệ về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước và hiệu lực pháp lý
còn thấp.
Việc quản lý tài sản nhà nước gồm ba nội dung cơ bản: quản lý
quá trình hình thành tài sản; quản lý quá trình khai thác, sử dụng tài sản;
quản lý quá trình kết thúc tài sản. Trong đó, mua sắm tài sản công là khâu đầu
tiên của quá trình quản lý tài sản nhà nước, có vị trí then chốt để bảo đảm
hiệu quả trong sử dụng, quản lý. Hiện nay, trong hệ thống pháp luật hiện hành ở nước ta có tới 45 văn bản quy phạm
pháp luật có các quy định liên quan đến tài sản nhà nước, từ Hiến pháp cho đến
các quyết định, thông tư của bộ trưởng, thủ trưởng cơ quan ngang bộ. Như vậy là
quá phân tán. Trong khi đó, các quy định của Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước
(03/6/2008), Nghị định số 52/2009/NĐ-CP ngày 03/6/2009 (có hiệu lực kể từ ngày
20/7/2009) quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật quản
lý, sử dụng tài sản nhà nước cho đến thời điểm hiện nay chưa được triển khai một
cách đồng bộ và có hiệu quả cho các đối tượng có thẩm quyền mua sắm tài sản
công vì văn bản này đã bãi bỏ một phần nội dung của một số văn bản pháp lý như:
các quy định về quản lý, sử dụng tài sản nhà nước tại khu vực hành chính sự
nghiệp tại khoản 1 Điều 2 và các Điều 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15, 16 Nghị định số 14/1998/NĐ-CP ngày 6/3/1998 về quản lý tài sản nhà nước; các quy định về quản
lý, sử dụng tài sản nhà nước tại điểm c khoản 3 Điều 5 và Điều 12 Nghị định số
43/2006/NĐ-CP ngày 25/4/2006 quy định quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực
hiện nhiệm vụ, tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với đơn vị sự nghiệp
công lập; các quy định về phân cấp quản lý đối với tài sản nhà nước tại cơ quan
nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập tại khoản 1 Điều 3, khoản 1 và khoản 2 Điều
4, điểm b khoản 3 Điều 6 và các Điều 7, 8, 9, 10, 11, 12, 13, 14, 15 Nghị định số 137/2006/NĐ-CP ngày 14/11/2006 quy định việc phân cấp quản lý
nhà nước đối với tài sản nhà nước tại cơ quan hành chính, đơn vị sự nghiệp công
lập, tài sản được xác lập quyền sở hữu của nhà nước. Bên cạnh đó, quy định
tại Quyết định số 179/2007/QĐ-TTg ngày 26/11/2007 Ban hành quy chế tổ chức mua
sắm tài sản, hàng hoá từ ngân sách nhà nước theo phương thức tập trung được
thực hiện chưa có hiệu quả, thường xuyên bị vi phạm, trong khi việc mua sắm
phân tán lại rất khó kiểm soát, giám sát.
- Các cơ quan quản lý nhà nước còn chưa
thực sự quản lý, theo dõi sát được thực trạng và biến động của tài sản nhà nước
trên thực tế hiện nay, nên không thể xác định chính xác và đúng đắn nhu cầu mua sắm tài
sản công của các cơ quan, đơn vị.
Cho đến nay, như Chính phủ
đã báo cáo trước Quốc hội, chúng ta mới chỉ nắm được tổng quan về tài sản nhà
nước. Có nghĩa là, hiện nay, từ Quốc hội, Chính phủ cho đến các bộ, ngành, các
cấp chính quyền địa phương… đều chưa thực sự nắm rõ được tình trạng tài sản nhà
nước như thế nào, cả về số lượng, giá trị, chất lượng và hiện trạng phân bổ sử
dụng. Đây sẽ là một thách thức không nhỏ đối với các cơ quan có thẩm quyền
trong việc quyết định phân cấp và thực hiện kế hoạch,
quy trình mua sắm tài sản công.
- Chế tài xử lý các sai phạm trong mua sắm tài sản công còn yếu, thiếu và chưa đồng bộ, việc tổ chức
xử lý chưa kiên quyết và thiếu kịp thời, dẫn đến hiệu lực và hiệu quả thấp nên
chưa đủ sức đẩy lùi các tiêu cực. Tình trạng sai phạm trong mua sắm tài sản
công đã và đang diễn ra. Các diễn đàn của Đảng, Quốc hội, Chính phủ và của các
cơ quan, tổ chức hữu quan cũng như công luận đã nhiều lần lên tiếng nhưng việc
xử lý vi phạm vẫn không được như mong muốn, mà thường chỉ dừng lại ở kiểm điểm
và xử lý kỷ luật nội bộ. Đây sẽ lại là những tiền lệ xấu cho những vi phạm
trong tương lai.
2.5. Hậu quả tình huống
Các vi phạm trong mua
sắm tài sản công của một số cơ quan, đơn vị hành chính nhà nước hiện nay gây
nên nhiều hậu quả cho Nhà nước và xã hội.
Thứ nhất, đối với Nhà
nước.
Việc mua sắm tài sản
công vượt tiêu chuẩn, định mức gây lãng phí, thất thoát nguồn vốn ngân sách nhà
nước, ảnh hưởng đến các chi tiêu cho các mục tiêu khác của Nhà nước, trong trường
hợp chất lượng hàng hoá không tốt, không đồng bộ thì hiệu quả sử dụng tài sản
trên thực tế hạn chế, cũng có nghĩa là hạn chế hiệu quả sử dụng nguồn vốn từ
ngân sách nhà nước, đồng thời, tạo cơ hội cho tham nhũng, tham ô, lãng phí phát
triển. Mục tiêu của mua sắm tài sản công là để phục vụ cho việc thực hiện chức
năng, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị và đổi mới, hiện đại hoá công sở, giảm
bớt thời gian, công sức cho việc giải quyết các công việc của công dân, tổ chức
và của chính các mối quan hệ trong nội bộ bộ máy nhà nước. Khi việc mua sắm tài
sản công không được thực hiện đúng, gây lãng phí, thất thoát, hay việc sử dụng
không đạt được hiệu quả cũng tức là các mục tiêu trên không đạt được. Điều này
ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các mục tiêu cải cách hành chính, đơn giản
hoá thủ tục hành chính, hiện đại hoá bộ máy nhà nước và nâng cao năng lực, hiệu
lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước trong bối cảnh phát triển nền kinh
tế thị trường và giao lưu hợp tác nhiều mặt với các nước, các tổ chức quốc tế
trong khu vực và trên thế giới.
Thứ hai, đối với xã
hội.
Dự toán chi ngân sách
Trung ương năm 2009 cho phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng, an
ninh, quản lý hành chính sự nghiệp là 160.231 tỷ đồng, trong đó 20% được sử
dụng để mua sắm tài sản. Điều đó cho thấy chi phí cho mua sắm tài sản công từ
nguồn ngân sách nhà nước là rất lớn và tất yếu dẫn đến hạn chế các khoản chi
cho các mục tiêu khác, đặc biệt là chi cho phúc lợi xã hội, xoá đói giảm nghèo,
xây dựng cơ sở hạ tầng…Mua sắm tài sản công quyết định sự phù hợp hay không phù
hợp về tài sản phục vụ cho hoạt động của cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước;
quyết định việc tài sản được sử dụng lâu dài hay không lâu dài tùy theo chất
lượng của tài sản mua sắm; quyết định chi phí về tài sản trong tổng chi tiêu
công. Khi các khoản chi cho mua sắm tài sản công được sử dụng một cách không có
hiệu quả thì gây nhiều lãng phí tiền của của nhân dân và người dân không được hưởng
lợi từ chính những gì mình đã đóng góp. Đồng thời, làm nảy sinh trong nhân dân
tâm lý hoang mang, thiếu tin tưởng vào cơ quan nhà nước, thậm chí trong nhiều
trường hợp còn có biểu hiện bất hợp tác, không thực hiện các quy định của Nhà nước.
III. XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
3.1. Mục tiêu xử lý tình huống
Mục tiêu của việc xử
lý tình huống là nhằm khắc phục các sai phạm và đề ra giải pháp cho hoạt động
mua sắm tài sản công của các cơ quan, đơn vị trong hệ thống hành chính nhà nước
ở nước ta.
3.2. Đề xuất, lựa chọn phương án
Từ việc nghiên cứu
các quy định pháp luật có liên quan đến mua sắm tài sản công, tình huống trên
có thể được xử lý theo một số phương án sau:
Phương án 1. Tính ra
thành tiền các vi phạm từ việc mua sắm tài sản công không theo đúng định mức,
tiêu chuẩn quy định và các thiệt hại do mua sắm tài sản công không đảm bảo chất
lượng và hiệu quả sử dụng để buộc các cơ quan, đơn vị vi phạm phải bồi hoàn thông
qua trừ vào dự toán chi cho mua sắm tài sản công trong năm ngân sách tiếp theo
Thực tế cho thấy, khi
một số cơ quan, đơn vị hành chính của Hà Nội có các vi phạm trong mua sắm tài
sản công thì Uỷ ban nhân dân Thành phố Hà Nội đã tiến hành siết chặt và tạm
dừng việc mua sắm tài sản công tại một số cơ quan, đơn vị vi phạm. Đây có thể được
coi như một biện pháp mang tính trừng phạt, buộc các cơ quan, đơn vị đó phải
giảm chi tiêu trong năm tiếp theo và tính toán mua sắm tài sản công cho có hiệu
quả hơn, dù hiện nay quy đinh này mới được dỡ bỏ. Ưu điểm của phương án này là
xác định được một cách chính xác các thất thoát, lãng phí từ việc vi phạm quy định
về mua sắm tài sản công, buộc các chủ thể vi phạm phải chịu trách nhiệm công vụ
thông qua việc thắt chặt chi tiêu công trong năm tiếp theo, nhằm nâng cao trách
nhiệm đối với hoạt động mua sắm tài sản phục vụ cho việc thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ do Nhà nước giao. Tuy nhiên, phương án này cũng có những nhược điểm như
khi tài sản được mua sắm về không đảm bảo chất lượng, không sử dụng được, thậm
chí hỏng hóc ngay từ khi mới đưa về, hoặc tài sản, hàng hoá không đồng bộ,
không có người sử dụng thì công vụ không được đảm bảo, không thực hiện được các
mục tiêu hiện đại hoá công sở, nâng cao năng lực của cơ quan, đơn vị hành chính
nhà nước. Ngoài ra, không có tác dụng giáo dục trách nhiệm cá nhân của lãnh đạo
các cơ quan, đơn vị trong vấn đề này.
Phương án 2. Xử lý
trách nhiệm cá nhân đối với những người cố tình làm sai các quy định về mua sắm
tài sản công.
Một trong những
nguyên nhân dẫn đến các sai phạm trong mua sắm tài sản công là yếu tố trục lợi
cá nhân. Việc xử lý trách nhiệm cá nhân có ý nghĩa rất lớn trong việc ngăn chặn
các hành vi cố tình làm trái các quy định về mua sắm tài sản công. Theo quy định
thì việc mua sắm tài sản công tại các cơ quan, đơn vị hành chính nhà nước do
thủ trưởng các cơ quan nhà nước lập kế hoạch và được cấp có thẩm quyền quyết định.
Vậy, trước hết phải kể đến trách nhiệm của chính những người đứng đầu trong các
cơ quan nhà nước đối với các loại tài sản do mình để xuất. Tuy nhiên, theo phân
cấp, có những tài sản mua sắm tập trung mà người đứng đầu các cơ quan nhà nước
khó có thể theo dõi, kiểm soát mặc dù theo quy trình thì được phối hợp với đơn
vị được giao mua sắm tài sản để xây dựng phương án tổ chức mua sắm cụ thể.
Những hàng hoá, tài sản thuộc diện mua sắm phân tán thì có thể được giao cho người
đứng đầu các cơ quan nhà nước tổ chức việc mua sắm (thường số lượng ít, giá trị
không lớn). Quy trình mua sắm tài sản gồm nhiều bước, trong đó, bước tổ chức
thực hiện quy trình có sự tham gia của nhiều cơ quan, đơn vị nên việc xác định
trách nhiệm rất khó khăn. Do đó, trên thực tế, thường rất khó xác định trách
nhiệm cụ thể thuộc về ai để truy cứu trách nhiệm pháp lý trong khi các biện
pháp xử lý hiện nay chưa rõ ràng. Đây cũng chính là điểm hạn chế của phương án
này.
Phương án 3. Xử lý
triệt để các hành vi thông đồng trong đấu thầu mua sắm tài sản công giữa cơ
quan quản lý hay tổ chức thầu với bên dự thầu và các hành vi vi phạm các quy định
về thẩm quyền, chế độ, tiêu chuẩn, định mức mua sắm tài sản công.
Ưu điểm của phương án
này là hạn chế được tiêu cực, bảo đảm hiệu quả, tạo lập, duy trì và thúc đẩy
môi trường cạnh tranh, ngăn chặn tham nhũng phát sinh và bảo đảm pháp chế, kỷ cương,
kỷ luật nhà nước trong hoạt động mua sắm tài sản công. Tuy nhiên, thực tế hiện
nay rất khó để xác định các hành vi thông đồng này, bởi hoạt động của thanh tra
và kiểm toán nhà nước thường được tiến hành dưới hình thức kiểm tra sau (hậu
kiểm) mà không bám sát tiến trình (quy trình mua sắm tài sản công). Mặt khác,
các quy định về xử lý sai phạm trong mua sắm tài sản công hiện nay chưa rõ ràng
về trách nhiệm của chủ thể vi phạm, thẩm quyền xử lý và biện pháp xử lý cụ thể.
Các tài sản công được mua sắm thông qua các hợp đồng dân sự hoặc qua đấu thầu
và đi đến ký kết hợp đồng dân sự nên khi sự vi phạm từ phía cơ quan, đơn vị của
Nhà nước thì cũng không cho phép khôi phục lại tình trạng ban đầu theo hướng
trả lại hàng, tài sản cho bên bán và thu tiền về để hoàn trả vào ngân sách nhà
nước. Như vậy, mặc dù không có đủ cơ sở pháp lý và cơ chế để thực hiện nhưng đây
lại là một phương án có khả năng giải quyết tốt tình huống nêu trên và các hạn
chế có thể khắc phục được.
3.3. Các giải pháp thực hiện phương án lựa chọn
Để phương án trên được
thực hiện một cách có hiệu quả, cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:
Thứ nhất, hoàn thiện
thể chế pháp lý liên quan đến mua sắm tài sản công.
Hiện nay, các quy định
về mua sắm tài sản công mới chỉ dừng lại ở những quy định chung chung trong
Luật quản lý, sử dụng tài sản nhà nước và một số quy định về mua sắm tài sản
công nằm rải rác ở nhiều văn bản quy phạm pháp luật, gây nhiều khó khăn cho
việc tổ chức thực hiện, đặc biệt là sự thiếu rõ ràng, cụ thể trong xác định
trách nhiệm của cơ quan, đơn vị, cá nhân vi phạm. Theo Điều 11 của Quy chế mua
sắm tài sản, hàng hoá từ ngân sách nhà nước theo phương thức tập trung thì các
cơ quan, đơn vị, cá nhân vi phạm tuỳ theo tính chất, mức độ có thể bị xử lý kỷ
luật hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật; trường
hợp gây thiệt hại về vật chất thì phải bồi thường theo quy định của pháp luật.
Bộ luật hình sự 1999
quy định tội thiếu trách nhiệm gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản nhà nước
(Điều 144) quy định giá trị tài sản là yếu tố định tội và định khung hình phạt,
trong đó, xác định “người nào có nhiệm vụ trực tiếp trong công tác quản lý tài
sản của Nhà nước, vì thiếu trách nhiệm mà để mất mát, hư hỏng, lãng phí gây
thiệt hại cho tài sản Nhà nước có giá trị từ năm mưới triệu đồng đến dưới hai
trăm triệu đồng, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ
sáu tháng đến ba năm”. Nhưng chưa có văn bản pháp lý nào lý giải cụ thể về
“công tác quản lý tài sản của Nhà nước” và thế nào là “có nhiệm vụ trực tiếp
trong công tác quản lý tài sản của Nhà nước”, bởi vấn đề mua sắm tài sản có sự
tham gia của nhiều chủ thể. Như vậy, cơ sở để áp dụng Điều luật này đối với vi
phạm trong mua sắm tài sản công là không vững chắc. Vì vậy, cần có sự hướng dẫn
một cách cụ thể việc áp dụng chế tài hình sự đối với các vi phạm này.
Bên cạnh đó, cần xây
dựng một quy trình tổ chức mua sắm tài sản công trên cơ sở thống nhất thẩm
quyền chính một chủ thể, có thể là chủ thể trực tiếp sử dụng tài sản hoặc cơ
quan chủ quản cấp trên, có sự tham gia giám sát, hỗ trợ, tư vấn của các cơ
quan, đơn vị có liên quan nhằm xác định trách nhiệm chính một cách rõ ràng
trong trường hợp để xảy ra các vi phạm.
Thứ hai, thực hiện đấu
thầu công khai, minh bạch trong mua sắm tài sản công.
Việc mua sắm tài sản
công liên quan đến các gói thầu có giá trị lớn nên nguy cơ xuất hiện các
hành vi thông đồng đấu thầu của các doanh nghiệp, tổ chức hay cá nhân nhằm trục
lợi bất chính từ nguồn ngân sách Nhà nước là rất cao. Ðể hạn chế tiêu cực, bảo
đảm hiệu quả, cần thiết phải tạo lập, duy trì và thúc đẩy môi trường cạnh tranh
lành mạnh trong hoạt động mua sắm tài sản công, trước hết phải ngăn chặn, hạn
chế và xử lý triệt để các hành vi thông đồng đấu thầu. Muốn vậy cần phải bảo
đảm tính công khai, minh bạch về thông tin liên quan hoạt động mua sắm tài sản
công; áp dụng và thực thi hiệu quả Luật Ðấu thầu, Luật Cạnh tranh và các văn
bản pháp luật liên quan; khuyến khích gia tăng số lượng bên tham gia dự thầu;
ngăn chặn hiệu quả việc thông đồng giữa các cơ quan quản lý hay tổ chức thầu và
bên dự thầu; hợp tác chặt chẽ giữa cơ quan quản lý cạnh tranh và cơ quan quản
lý nhà nước về đấu thầu.
Thứ ba, kết hợp hai
hình thức mua sắm tập trung và mua sắm phân tán.
Để nâng cao hiệu quả,
hiệu lực quản lý mua sắm tài sản công, về mô hình cần kết hợp mua sắm tập trung
và mua sắm phân tán. Mua sắm tập trung
được áp dụng đối với các loại tài sản, hàng hóa có số lượng mua sắm nhiều, tổng
giá trị lớn và có yêu cầu được trang bị đồng bộ, hiện đại như: ô-tô phục vụ
công tác, chuyên dụng, xe tải, ô-tô trên 16 chỗ ngồi, phương tiện vận tải
chuyên dùng, trang thiết bị chuyên dùng, trang thiết bị tin học... Mua sắm phân tán được áp dụng đối với
các loại tài sản, hàng hóa có số lượng mua sắm ít, tổng giá trị nhỏ như: công
cụ, dụng cụ phục vụ cho công tác chuyên môn, vật tư, phương tiện đặc thù...
Ðồng thời thực hiện việc hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, định mức sử dụng tài
sản, hàng hóa của cơ quan, tổ chức, đơn vị nhà nước; phân bổ ngân sách Nhà nước
cho việc mua sắm kịp thời, đúng mục đích, tiết kiệm có hiệu quả; hoàn thiện các
quy định pháp luật về đấu thầu, xây dựng hệ thống văn bản pháp luật riêng điều
chỉnh về đấu thầu mua sắm tài sản, hàng hóa theo hướng tối đa hóa số lượng các
nhà thầu, bảo đảm công khai, minh bạch, hiệu quả, thủ tục đơn giản nhưng chặt
chẽ, các quy định nhằm ngăn chặn sự liên kết giữa các nhà thầu, có thể xây dựng
các hồ sơ đấu thầu mẫu cho từng loại tài sản, hàng hóa để thực hiện thống nhất;
từng bước hình thành tổ chức chuyên trách mua sắm tài sản, hàng hóa theo phương
thức tập trung ở các bộ, ngành, địa phương;
Thứ tư, nâng cao ý
thức trách nhiệm và năng lực cho cán bộ lãnh đạo và đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ
mua sắm tài sản công.
Tăng cường công tác
chỉ đạo, hướng dẫn, bồi dưỡng về phẩm chất, đạo đức, nghiệp vụ đấu thầu, nghiệp
vụ tài chính, kỹ thuật tài sản... cho đội ngũ cán bộ làm nhiệm vụ mua sắm tài
sản, hàng hóa theo mô hình tập trung; tăng cường công tác kiểm tra, thanh tra,
giám sát, kiểm toán việc mua sắm tài sản công của các bộ, ngành, địa phương và
xử lý kiên quyết, đúng pháp luật các hành vi vi phạm. Đồng thời, cần bồi dưỡng
kiến thức pháp lý về các quy định liên quan đến định mức, tiêu chuẩn, quy
trình, thẩm quyền trong mua sắm tài sản công cho cán bộ lãnh đạo của các cơ
quan, đơn vị hành chính nhà nước; đặc biệt là đại biểu Hội đồng nhân dân trong
việc phân cấp mua sắm tài sản công và lãnh đạo Uỷ ban nhân dân trong việc quyết
định các vấn đề liên quan đến việc mua sắm tài sản công tại địa phương. Tuỳ
thuộc vào tính chất của loại tài sản được mua sắm để xây dựng quy trình tổ chức
thực hiện cho phù hợp, đồng thời phải giám sát, kiểm soát chặt chẽ các vấn đề
liên quan trực tiếp đến chất lượng của tài sản, hàng hoá và việc sử dụng trong
thực tiễn quản lý của cơ quan, đơn vị.
Quy định về chế độ
trách nhiệm của thủ trưởng các đơn vị trong việc quản lý sử dụng mua sắm tài
sản công cần phải rõ ràng. Thủ trưởng của đơn vị trong một năm được mua sắm bao
nhiêu tiền, mua sắm các tài sản đấy là đấu thầu hay không đấu thầu, tài sản sử
dụng đến thời điểm nào phải thanh lý theo quy định của pháp luật. Tài sản mua
về có giao cho người sử dụng hay không, sử dụng có đúng mục đích, đúng chế độ
hay không thủ trưởng các đơn vị phải chịu trách nhiệm. Nếu để xảy ra tiêu cực
thất thoát thì phải xử lý răn đe theo quy định pháp luật có thể về hành
chính, hình sự.
Các cán bộ, công chức
cần phát huy tinh thần trách nhiệm trong phát hiện, đấu tranh với các hành vi
sai phạm trong mua sắm tài sản công nhằm ngăn chặn sớm sự nảy sinh của các hành
vi này tại các cơ quan, đơn vị hành chính của Nhà nước ta.
Thứ năm, thực hiện
nghiêm quy định của Bộ Tài chính về công khai quản lý, sử dụng tài sản nhà nước.
Theo đó, các tài sản
như nhà, công trình xây dựng, phương tiện đi lại... được hình thành từ nguồn
ngân sách; tài sản là hàng viện trợ, quà biếu của tổ chức, cá nhân trong và
ngoài nước giao cho các cơ quan quản lý... đều được coi là tài sản nhà nước.
Các đơn vị được giao mua sắm tài sản nhà nước phải công khai hoạt động này. Cụ
thể, khi mua sắm tài sản có giá trị từ 500 triệu đồng trở lên, cơ quan chủ quản
phải công khai việc trang bị tài sản.
Bên cạnh đó, cần tăng
cường hoạt động thanh tra, kiểm toán đối với hoạt động mua sắm tài sản công ở
tất cả các khâu trong quy trình tổ chức mua sắm tài sản công.
IV. KIẾN NGHỊ
Các giải pháp trên có
mối quan hệ chặt chẽ với nhau nên cần được thực hiện một cách đồng bộ, không
nên xem nhẹ giải pháp nào. Tuy nhiên, để các giải pháp đó được thực hiện tốt,
cần đến sự tham gia của nhiều cơ quan nhà nước có thẩm quyền cụ thể như sau:
Thứ nhất, đối với
Quốc hội: cần nghiên cứu để xác định rõ ràng, cụ thể trách nhiệm hình sự đối
với các hành vi vi phạm quy định về mua sắm tài sản công, gây thất thoát, lãng
phí ngân sách nhà nước.
Thứ hai, đối với
Chính phủ: cần xác định rõ chế tài hành chính và chế tài kỷ luật đối với hành
vi vi phạm quy định về mua sắm tài sản công, cần sớm được ghi nhận trong nghị định
của chính phủ về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài
sản nhà nước. Đồng thời, chỉ đạo các Bộ, các ngành xây dựng các quy chế cụ thể
về mua sắm tài sản công, tập trung vào vấn đề phân cấp, phân quyền và quy trình
cụ thể trong mua sắm tài sản công của Bộ, ngành mình để hoạt động này nhanh
chóng đi vào nề nếp.
Thứ ba, Bộ Tài chính
và cơ quan tài chính các địa phương cần có các hướng dẫn cụ thể về phân loại
tài sản, hàng hoá thuộc diện mua sắm để phục vụ cho hoạt động công vụ, các biểu
mẫu phù hợp đối với từng đối tượng tài sản và quy trình tổ chức mua sắm tài sản
nhằm tạo điều kiện cho các cơ quan, đơn vị hành chính nhà nước thực hiện tốt
các quy định về mua sắm tài sản công trong thời gian tới.
KẾT LUẬN
Trong bối cảnh nền
kinh tế gặp khó khăn như hiện nay, việc thực hành tiết nhằm giảm bội chi ngân
sách đang là một trong những nhiệm vụ hàng đầu. Vì vậy, việc mua sắm tài sản
công hơn lúc nào hết cần được cân nhắc, tính toán kỹ lưỡng để các loại tài sản,
hàng hoá được mua phát huy hiệu quả, phục vụ cho công tác quản lý của các cơ
quan, đơn vị hành chính và trong việc giải quyết nhanh chóng các công việc của
công dân, tổ chức trong xã hội. Những vi phạm trong mua sắm tài sản công chắc
chắn không chỉ nảy sinh ở một, một số cơ quan, đơn vị mà có khả năng phát sinh
ở bất kỳ đâu, bất kỳ bộ phận, cơ quan nào nếu không các biện pháp quản lý, các
quy trình công việc không được thực hiện một cách nghiêm túc và chặt chẽ. Với
các phương án và giải pháp đã đề xuất trong phạm vi tiểu luận này, cần đến sự
quan tâm, thực hiện một cách nghiêm túc thì mới khắc phục được các vi phạm và
nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ngân sách nói riêng và các tiềm lực xã hội
khác nói chung.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1)
V.I.Lênin, toàn tập, tập 45, NXB Tiến Bộ M.1978, tr.359.
2)
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ X: NXBCTQG, H.2006, tr.174. (8) Sđd, tr.156.
3)
Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị Quốc gia, H. 2006, tr. 247.
4)
Đinh Dũng Sĩ, Hệ thống các văn bản pháp luật hiện hành về tài sản nhà
nước và việc xây dựng Dự án Luật Quản lý, sử dụng tài sản nhà nước, Tạp chí
Nghiên cứu Lập pháp số 10, tháng 10/2007.
5) Bộ Tài chính: Báo cáo tổng kết
công tác quản lý tài sản công.
6) Bộ Tài chính: Báo cáo thực
trạng và biện pháp đổi mới quản lý tài sản nhà nước phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Hà Nội, năm 2007.
7)
Nghị định số 52/2009/NÐ-CP ngày 03 tháng 6
năm 2009 quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý,
sử dụng tài sản nhà nước.
8)
Nghị định số 111/2006/NÐ-CP ngày 29/9/2006
hướng dẫn thi hành Luật Ðấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật Xây
dựng.
Quyết định số
179/2007/QÐ-TTg, ngày 26/11/2007 về quy chế tổ chức mua sắm tài sản, hàng hóa
từ ngân sách Nhà nước theo phương thức tập trung;
Nhận làm chuyên đề tốt nghiệp, luận văn tốt nghiệp, báo cáo thực tập tốt nghiệp, khóa luận, đề án, tiểu luận các trường khối kinh tế trung cấp, cao đẳng, đại học, cao học
ReplyDeleteGiá luận văn, báo cáo, chuyên đề các trường TC, CĐ, ĐH ( giá từ 200K – 1 triệu) tùy mức độ khó dễ của từng trường
Tiểu luận cao đẳng, đại học ( 200K – 500K)
Tiểu luận cao học ( 500K – 1tr)
Luận văn Cao học ( Từ 2 triệu – 5triệu)
Liên hệ nick: lvkinhte
Email: lvkinhte@gmail.com
Điện thoại: 098.513.0242
Zalo: 0985 130 242