Tin liên quan
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo sô 24
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo sô 24
MỤC LỤC
Trang
Phần mở đầu
|
2
|
Phần nội dung
|
3
|
I. Mô tả tình
huống
|
3
|
II. Mục tiêu
của tình huống
|
4
|
III. Nguyên
nhân của tình trạng vi phạm đạo đức nhà giáo và tắc trách trong quản lý giáo
dục ở địa phương
|
5
|
1. Những nguyên
nhân khách quan
|
6
|
2. Những nguyên
nhân chủ quan
|
12
|
IV. Hậu quả của
hành vi vi phạm đạo đức nhà giáo của cô giáo Trần Huyền Trang
|
13
|
V. Phương án
xử lý tình huống
|
14
|
VI. Kế hoạch
xử lý phương án tối ưu
|
16
|
Phần kiến nghị
và kết luận
|
17
|
I. Kiến nghị
|
17
|
II. Kết luận
|
18
|
Danh mục tài liệu
tham khảo
|
19
|
LỜI NÓI ĐẦU
“Giáo dục là quốc sách hàng đầu”-một nguyên
tắc, chính sách và mục tiêu quan trọng mà Đảng và Nhà nước ta đặt ra không chỉ
trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế hiện nay, mà
ngay từ khi Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà non trẻ ra đời cũng đã xác định
và ghi nhận trong văn bản có giá trị pháp lý cao nhất là Hiến pháp năm 1946.
Trong những năm qua, nhờ chính sách đúng đắn này mà nền giáo dục Việt Nam có những
tiến bộ vượt bậc từ một người biết chữ đến cả xã hội biết chữ (phong trào Bình
dân học vụ); đến những công trình khoa học được cả thế giới công nhận và ngưỡng
mộ;…trong đó, hình ảnh nhà giáo luôn được xã hội tôn vinh, trân trọng và quý trọng.
Bên cạnh những
kết quả và thành tựu mà ngành giáo dục đã đạt được, những hiện tượng nổi cộm đáng
quan tâm ngày nay đang trở thành thách thức với sự phát triển kinh tế tri thức;
vị thế giáo dục Việt Nam như: Nguồn nhân lực có trình độ cao phục vụ cho sự phát
triển ổn định và bền vững nền kinh tế-xã hội thay thế cho nguồn nhân công dẻ và
tài nguyên thiên nhiên cạn dần; những bất cập từ quản lý giáo dục ở các cấp học,
bậc học về chương trình, nội dung và phương pháp giảng dạy;… dẫn đến sự tụt hậu
của giáo dục; vi phạm đạo đức học đường của nhà giáo và học sinh làm “hoen ố”
uy tín, danh dự và môi trường giáo dục;… Không phải bây giờ chúng ta mới lên tiếng
cảnh báo về những hiện tượng này, nhưng có lẽ sự thay đổi của chính bản thân ngành
giáp dục quá “nặng về cơ chế” dẫn đến tình trạng sai đến đâu sửa đến đó và cách
giải quyết không những không đem lại hiệu quả mà còn tạo ra những “lỗ hổng” lớn
trong quản lý giáo dục.
Chính sách “xã
hội hoá” giáo dục của Đảng ghi nhận và đánh dấu những bước khởi động mới cho ngành
giáo dục, bằng việc: “Tách cơ quan hành chính công quyền với tổ chức sự nghiệp.
Khuyến khích và hỗ trợ các tổ chức hoạt động không vì lợi nhuận mà vì nhu cầu và
lợi ích của nhân dân; tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức thực hiện một số
dịch vụ công với sự giám sát của cộng đồng…”[1]
đã mở ra hướng phân biệt giữa quản lý nhà nước và dịch vụ mà Nhà nước đáp ứng
cho xã hội. Đồng thời, khẳng định tính trách nhiệm và chịu trách nhiệm trong hoạt
động quản lý nhà nước có hiệu quả của bộ máy nhà nước trong cung ứng dịch vụ công.
Với những lý do trên, cùng những hạn chế nhất định của bản thân, tiểu luận lựa
chọn lĩnh vực “Quản lý nhà nước về giáo dục”
làm nội dung cơ bản để nghiên cứu.
PHẦN NỘI DUNG
I.
MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Chưa bao giờ những vấn đề
của giáo dục lại được dư luận quan tâm và nhắc nhiều đến như hiện nay, chẳng hạn
như: Nội dung chương trình, sách giáo khoa; cơ sở vật chất, trường lớp; chính sách
phát triển giáo dục; đạo đức nhà giáo; chất lượng giáo dục hiện tại và tương
lai; phương pháp giảng dạy;…Mỗi vấn đề dường như đã để lại nhiều câu chuyện “buồn”
về giáo dục với những căn bệnh phổ biến: bệnh thành tích, bệnh tiêu cực; buông
lỏng quản lý; thất thoát, lãng phí nguồn lực vật chất, chất xám;… đã tạo ra một
bức tranh khá ảm đạm cho tương lai phát triển giáo dục nước nhà. Trong phạm vi
có hạn, tiểu luận lựa chọn vấn đề “Đạo
đức nhà giáo” qua tình huống được đăng trên Báo điện tử Dân trí ngày 10 tháng
12 năm 2008: “…Bị cô giáo bắt chống đẩy 250 lần, em Nguyễn Bảo S choáng váng,
không đi nổi, phải bỏ về chỗ ngồi. Gia đình em Sơn đòi Nhà trường phải bồi thường
50 triệu đồng cho những tổn thất mà cô giáo đã gây ra đối với em S. Chiều ngày
10 tháng 12 năm 2008 tại Uỷ ban nhân dân phường 7, thị xã Bến Tre diễn ra buổi
hoà giải, thương lượng giữa Ban giám hiệu Trường trung học cơ sở Mỹ Hoá và gia đình
em Nguyễn Bảo Sơn (học sinh lớp 7/3 của Trường). Tham gia hoà giải còn có hai
luật sư bảo vệ của gia đình học sinh này. Theo trình bày của em Sơn, chiều 2 tháng
10 năm 2008, em có cãi nhau với bạn trong giờ học nên bị cô giáo Trần Huyền
Trang bắt phạt thụt dầu 150 lần. Khi em Sơn thực hiện được 100 lần thì bị té xuống,
sau đó cô giáo bắt thực hiện lại từ đầu. Đến khi em Sơn thực hiện đủ 150 lần (cộng
100 lần trước là 250 lần) thì đi không nổi nên phải bỏ về chỗi ngồi. Tuy nhiên,
cô giáo Trần Huyền Trang lại cho rằng, do em Sơn có cãi nhau với bạn trong giờ
học và chính em đề xuất hình phạt thụt dầu này. “Khi đó do tiết học còn dài nên
tôi không để ý em Sơn thụt dầu bao nhiêu lần”-cô Trang nói. Tại buổi thương lượng,
gia đình em Sơn đề nghị Nhà trường bồi thường 50 triệu đồng bao gồm chi phí điều
trị, tổn thất tinh thần cho em Sơn nhưng không được chấp nhận và cuối cùng cả
hai thoả thuận là 18 triệu đồng. Ban giám hiệu cũng đã xin lỗi gia đình và em Sơn”.
Quả thật, qua tình huống trên khó có
thể có ai nghĩ rằng: Gia đình em Sơn lại mạnh dạn đi đòi bồi thường về hành vi vi
phạm của cô giáo Trần Huyền Trang và càng không tin nổi khi Ban giám hiệu Nhà
trường thoả thuận mức bồi thường là 18 triệu đồng. Nếu xét trong xã hội dân sự,
việc khởi kiện và trách nhiệm bồi thường dân sự là hợp quy luật, đúng pháp luật.
Nhưng nếu ở góc độ giáo dục như hiện nay, mấy gia đình đã có được dũng khí như
gia đình em Sơn và sự mạnh dạn “quyết” của Ban giám hiệu chấp nhận mức bồi thường
theo hình thức dân sự ở một ngôi trường trường công lập.
II. MỤC TIÊU
CỦA TÌNH HUỐNG
Tình huống trên để lại cho
chúng ta nhiều bài học về cách ứng xử của nhà giáo trên bục giảng; ứng xử của
Ban giám hiệu Nhà trường; Chính quyền địa phương và xã hội,.. trong việc xây dựng
“hình ảnh” và phương thức quản lý trong ngành giáo dục không chỉ riêng của Trường
trung học cơ sở Mỹ Hoá, giáo viên Trần Huyền Trang mà chính là nền tảng giáo dục
cơ bản của Việt Nam hiện hành. Trong những năm qua, tình huống liên quan đến đạo
đức nhà giáo; đạo đức học sinh; cán bộ, công chức quản lý trong ngành giáo dục
có nhiều. Song, mỗi tình huống tuy có cùng nội dung nhưng lại khác nhau về bản
chất, hình thức biểu hiện nên việc xác định mục tiêu cần đạt được có nhiều cách
phụ thuộc vào góc độ tiếp cận, nghiên cứu. Điều này cho thấy tính đa dạng trong
hoạt động quản lý nhà nước và mỗi cách tiếp cận theo giới hạn của chủ thể nhất định,
nhưng nhìn chung chúng đều có mục đích chung là nhằm hướng đến xây dựng: “môi
trường giáo dục trong sạch, lành mạnh” hơn. Dưới góc độ khoa học quản lý, tiểu
luận xác định các mục tiêu cụ thể của tình huống như:
Một
là, tại sao trong điều kiện của nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế
lại có nhiều hành vi vi phạm đạo đức của nhà giáo như: Việc bắt học sinh phải học
thêm, đến những hành vi đánh đập học sinh, bắt học sinh liếm ghế, ép giao cấu
trái ý muốn, bắt thụt dầu,… trong đó có trường hợp của cô giáo Huyền Trang ngày
càng phổ biến và bị dư luận xã hội lên án gay gắt ? Phải chăng đây chính là sản
phẩm tất yếu nảy sinh từ mặt trái của nền kinh tế thị trường hay chính sách phát
triển và cơ chế quản lý giáo dục ở nước ta còn mang tính “truyền thống” không
phù hợp với điều kiện kinh tế-xã hội mới;…
Hai
là, biện pháp mà ngành giáo dục, trong đó có cơ quan quản lý giáo dục, nhà
trường lâu nay vẫn sử dụng để đánh giá cán bộ, công chức quản lý giáo dục và nhà
giáo phải chăng đã “lỗi thời”, mang tính hình thức và không hiệu quả. Mặt khác,
tính trách nhiệm và chịu trách nhiệm của nền công vụ nói chung và hoạt động công
vụ của mỗi cán bộ, công chức nói riêng còn mập mờ về tính chất, phương thức và
cơ chế thực hiện ?...
Những câu hỏi trên cũng chính là những
vấn đề đặt ra cần phải được giải đáp nhằm tìm ra lời giải cho bài toán “ngăn chặn”
hành vi vi phạm đạo đức nhà giáo trong học đường. Đồng thời, góp phần nâng cao
hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước trong lĩnh vực giáo dục, đặc biệt là quá trình
tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức “vừa hồng, vừa chuyên” phục vụ cho sự
nghiệp “trồng người” ở Việt Nam hiện nay.
III. NGUYÊN
NHÂN CỦA TÌNH TRẠNG VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NHÀ GIÁO VÀ TẮC TRÁCH TRONG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC
VỀ GIÁO DỤC Ở ĐỊA PHƯƠNG
Nguyên nhân của tình trạng
xuống cấp về đạo đức của cán bộ, công chức, trong đó có nhà giáo được phản ánh
qua nhiều kênh khác nhau: Các Văn kiện của Đảng; các bài phát biểu, báo cáo tại
các Hội thảo giáo dục; báo chí, phát thanh, truyền hình và dư luận. Song. với tình
huống trên, bản thân tôi nhận thấy: Những yếu tố trực tiếp hay gián tiếp làm nảy
sinh các hiện tượng vi phạm đạo đức nhà giáo của cô giáo Trang đã khẳng định những
nguyên nhân khách quan mang tính nền tảng cơ bản và những nguyên nhân chủ quan
từ phía cá nhân những người tham gia các mối quan hệ. Về cơ bản có thể thấy những
nguyên nhân cơ bản sau:
1. Những nguyên
nhân khách quan
Nguyên nhân khách
quan, được coi là các tác nhân không phụ thuộc vào ý chí chủ quan của con người
trực tiếp hoặc gián tiếp tác động đến hành vi của cô giáo Huyền Trang, cán bộ,
công chức quản lý và cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền khi để xảy ra tình
trạng vi phạm về đạo đức nhà giáo, chế độ công vụ và giảm hiệu quả quản lý nhà
nước trong lĩnh vực giáo dục ở Bến Tre. Các nguyên nhân khách quan có nhiều, nhìn
chung có thể xác định theo các nguyên nhân cơ bản như:
Thứ
nhất, do điều kiện của nền kinh tế thị trường. Về lý luận, cơ sở hạ tầng
quyết định kiến trúc thượng tầng cả về hình thức và nội dung. Trong khi đó, mặt
trái của nền kinh tế thị trường và những tác động của toàn cầu hoá đã tạo ra những
vấn nạn, sự xuống cấp đạo đức của một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức,
thanh-thiếu niên trong xã hội. Xét hành vi của cô giáo Huyền Trang khi bắt học
sinh lớp 7 thụt dầu 150 lần trong lớp chỉ vì vi phạm nội quy của lớp học và nhà
trường đã phản ánh tính khách quan của sự giao thoa văn hoá trong thời hội nhập
và cơ chế giáo dục hiện hành không phù hợp với những phát triển của nền kinh tế
thị trường ở Việt Nam. Nếu cơ chế hiện hành tạo cho cô giáo Huyền Trang cái quyền
“tối thượng” đối với học sinh, thì những ảnh hưởng về nếp sống văn hoá, ứng xử
của nhà giáo trong bị ảnh hưởng trong điều kiện hội nhập sẽ là những hành vi mà
khó có thể kiểm soát nổi về hình thức và phương thức tiến hành. Điều này lý giải
tại sao ngày càng có nhiều hình thức “kỳ quái” mà giáo viên áp dụng với người học
(học sinh, sinh viên) trong môi trường giáo dục ở Việt Nam. Một nguyên lý cơ bản
khi cơ chế không thích ứng với điều kiện kinh tế-xã hội sẽ là những tác động tiêu
cực, kìm hãm sự phát triển trong xã hội. Nếu trong thời kỳ chiến tranh hay bao
cấp (tương ứng với phương thức quản lý mệnh lệnh-hành chính”,.. việc nhà giáo sử
dụng hình thức dùng thước kẻ đánh vào tay học sinh là điều bình thường, được
cha mẹ, xã hội ủng hộ trong cách giáo dục của nhà giáo, nhưng trong điều kiện của
nền kinh tế thị trường (phương thức mệnh lệnh-kinh tế) thì liệu những hình thức
đó có còn được xã hội, cha mẹ học sinh chấp nhận nữa hay không ? Sự áp dụng
theo phương thức, hình thức của cơ chế cũ trong cơ chế mới phản ánh sự không thích
hợp về quy luật và trong quan niệm về chuẩn mục của xã hội ở những giai đoạn nhất
định.
Thứ
hai, những nguyên nhân xuất phát từ thể chế pháp luật quy định về cơ chế, trách
nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục. Các quy định của pháp luật
Việt Nam hiện hành liên quan đến xác định trách nhiệm, quyền hạn và nhiệm vụ của
cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục còn dàn trải, mâu thuẫn và thiếu tính hợp
lý trong áp dụng vào điều kiện của địa phương. Điều này được khẳng định thông
qua những quy định cụ thể như:
Một
là, những bất cập từ phân cấp chức năng quản lý giáo dục hiện hành. Phân cấp
quản lý ở Việt Nam
hiện nay trong lĩnh vực giáo dục được xác định theo cấp học. Chẳng hạn như,
theo quy định của Điều 88 Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày
26/11/2003 xác định Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh có nhiệm vụ và quyền hạn trong lĩnh
vực giáo dục và đào tạo: “(1) Quản lý nhà nước đối với các loại hình trường lớp,
được giao trên địa bàn tỉnh; trực tiếp quản lý các trường cao đẳng sư phạm, trường
trung học chuyên nghiệp, trung học phổ thông, trường bổ túc văn hoá; đào tạo bồi
dưỡng đội ngũ giáo viên trong tỉnh từ trình độ cao đẳng sư phạm trở xuống;….”
trong khi đó, cấp huyện được quản lý các bậc học trung học cơ sở, tiểu học, các
trường dạy nghề của huyện và cấp xã được xác định quản lý bậc mầm non,… đã tạo
ra những mâu thuẫn trong quản lý hiện hành của nhà nước ta. Việc xác định mức độ
phân cấp theo kiểu “tuổi nhỏ làm việc nhỏ”; hay “năng lực cấp thấp bao giờ cũng
yếu”,… đã tạo ra những rào cản nhất định trong hoạt động quản lý đối với học
sinh và cán bộ, công chức, nhà giáo. Điều này cho thấy những hạn chế cụ thể như:
Chính quyền cấp xã (cơ sở) không có quyền can thiệp, xử lý đến hành vi vi phạm đạo
đức của cô giáo Trang trong khi đó học sinh là người của xã, nhà trường đứng trên
địa bàn của xã; những công việc nảy sinh dù lớn hay nhỏ trong trường trung học
cơ sở (bao gồm tiểu học và trung học cơ sở) đều thuộc thẩm quyền của Uỷ ban nhân
dân cấp huyện nên khó được xử lý và giải quyết kịp thời. Trường hợp cô giáo
Trang- Trường trung học cơ sở Mỹ Hoá, thị xã Bến Tre là ví dụ điển hình cho kiểu
phân cấp này. Nếu, như Nhà trường và cô giáo Trang do chính quyền cấp xã quản lý
về chấp hành quy định của pháp luật về các điều kiện dạy học; giải quyết những
mẫu thuẫn giữa học sinh (đại diện cha mẹ học sinh) với nhà trường, giáo viên;…
thì chắc chắn hành vi của cô giáo Trang hay của bất kỳ ai khác được tiến hành xử
lý theo quy định và là bài học cho nhiều trường hợp khác. Nhưng, do cấp huyện
quản lý nên sự sao nhãng, bỏ qua, tiêu cực,… đã lấp liếm nhiều vấn đề ở các nhà
trường, của các giáo viên hiện nay. Mặt khác, trong tình huống trên, xã chỉ với
tư cách là người trung gian hoà giải chứ không phải một bên chịu trách nhiệm về
cung ứng dịch vụ giáo dục ở địa phương. Như vậy, việc phân cấp theo cấp học là
cách phân cấp không phù hợp với hệ thống chính quyền địa phương 3 cấp như ở Việt
Nam.
Đành rằng, năng lực và hạn chế về cán bộ, công chức của cấp xã nhưng không thể
phân cấp theo cấp học mà cần xác định theo nhiệm vụ quản lý của các cấp học đặt
ra. Có những cấp học cao như cao đẳng, đại học hay thấp nhất như mẫu giáo cũng
cần phải được phân loại nhiệm vụ quản lý (hoạt động công vụ) để phân cấp. Tránh
tình trạng “cát cứ” quản lý theo cấp học dẫn đến “cát cứ” trong quản lý để rồi
có những hiện tượng “vô cảm”, “thờ ơ”, “bàng quan”,… của những chính quyền không
có trách nhiệm được phân cấp. Đây chính là tiền lệ nguy hiểm nhất trong hoạt động
quản lý của nhà nước ta hiện nay.
Hai
là, những hạn chế về cơ chế thanh tra, kiểm tra đạo đức nhà giáo. Căn cứ theo Thông tư liên tịch số
35/2008/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 14/7/2008 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
và cơ cấu tổ chức của Sở Giáo dục cấp tỉnh và Phòng giáo dục cấp huyện và Quyết
định số 16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/04/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo,
ban hành quy chế về đạo đức nhà giáo điều 8 xác định Uỷ ban nhân dân các huyện,
quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh: “(1) Chỉ đạo ngành giáo dục phối hợp với các
Ban, Ngành, Đoàn thể tổ chức thực hiện Quy định về đạo đức nhà giáo; (3) Định kỳ
thanh tra, kiểm tra công tác tổ chực thực hiện của các cơ quan quản lý giáo dục;
xử lý nghiêm túc, kịp thời đúng pháp luật các cá nhân, tổ chức vi phạm quy định
này”. Rõ ràng, các quy định về đạo đức nhà giáo, phương thức xử lý đã có những
quy định cụ thể. Song, hầu như không có tác dụng trong học đường nói chung và ở
trường Trung học cơ sở Mỹ Hoá nói riêng. Các nội dung quy định trên đặt ra đối
với Phòng Giáo dục và Đào tạo thị xã Bến Tre là phải tham mưu cho Uỷ ban nhân dân
thị xã về chương trình và biện pháp tổ chức hiệu quả các quy định về đạo đức nhà
giáo đến các trường trung học cơ sở trên địa bàn thị xã; tổ chức thanh tra, kiểm
tra việc chấp hành quy định về đạo đức nhà giáo;… Nhưng có lẽ, việc tổ chức không
được thực hiện hoặc chỉ được tổ chức theo kiểu qua loa, đại khái,… nên hậu quả
giáo viên Trang vẫn ngang nhiên dùng hình phạt “thái quá” đối với học sinh của
mình.
Xét theo quy định hiện hành, việc
thanh tra, kiểm tra phải được tiến hành định kỳ 6 tháng và 1 năm nhưng quan niệm
lâu nay vẫn tồn tại “ngầm” trong ngành giáo dục là thanh tra cũng chẳng qua
mang tính “chiếu lệ”, để khẳng định “uy thế” của cán bộ thanh tra nên vẫn thường
rơi vào trạng thái “báo cáo” đạt chuẩn, đạt tốt ở tỷ lệ rất cao.
Nếu Uỷ ban nhân dân thị xã Bến Tre, Phòng
Giáo dục-Đào tạo thị xã Bến Tre làm hết trách nhiệm của mình theo pháp luật, thì
liệu những hành vi lệch chuẩn của thầy-trò; những biểu hiện tiêu cực trong Nhà
trường có thể xảy ra hoặc khi xảy ra có thể kịp thời được ngăn chặn;… Điều này
khẳng định, một mặt cơ chế “thẳng đứng” mệnh lệnh-hành chính một chiều đã làm mất
đi cơ hội giám sát và đánh giá chất lượng giáo dục của người dân địa phương; mặt
khác tạo ra “tiêu cực” trong giáo dục. Chẳng hạn như, việc kiểm chứng chất lượng
giáo dục, chất lượng nhà giáo chỉ được tiến hành thông qua kênh thanh tra, kiểm
tra của cán bộ thanh tra thị xã Bến Tre thì có biết bao nhiêu vấn đề hạn chế mang
tính chủ quan nảy sinh như: hiện tượng “bao che”; “hình thức”;… trong khi đó những
người thụ hưởng dịch vụ giáo dục thì không có tiếng nói, thậm chí không có khả
năng để được đánh giá chất lượng giáo dục, chất lượng giáo viên;…Như vậy, mâu
thuẫn nảy sinh từ cách xác định chủ thể đánh giá, người được hưởng thụ dịch vụ
thì không được đánh giá chất lượng mà người không được hưởng thụ lại có quyền
quyết định chất lượng của giáo dục, của nhà giáo. Đây chính là nghịch lý về cách
đánh giá thông qua hình thức thanh tra, kiểm tra hiện hành của Nhà nước ta. Đồng
thời, điều này giúp chúng ta khẳng định tại sao các báo cáo chất lượng tốt nghiệp
giáo dục, chuẩn giáo dục, chuẩn nhà giáo ưu tú, nhân dân,... vẫn được xây dựng,
vẫn được viết trong các bản báo cáo 6 tháng và hàng năm ở tất cả các cấp học, bậc
học trong khi thực tế thì ngược lại hoàn toàn. Đây cũng chính là nguyên nhân làm
nảy sinh các vấn nạn trong giáo dục, trong đó có hiện tượng của cô giáo Trang mà
lâu nay chúng ta bỏ qua.
Ba
là, các quy định liên quan đến Ban giám hiệu, Ban đại diện cha mẹ học sinh
trong quản lý giáo dục, nhất là đảm bảo về đạo đức nhà giáo. Nếu như các
quy định trên tạo ra mối quan hệ mệnh lệnh-hành chính một chiều thì ngay trong
Quyết định số 11/2008/QĐ-BGDĐT ngày 28/3/2008 ban hành Điều lệ Ban đại diện cha
mẹ học sinh, cũng không xác định cho họ cái quyền năng được giám sát và đánh giá
tư cách đạo đức của nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục hàng năm. Bản thân, những
người như Ban đại diện cha mẹ học sinh là Hội đại diện (giám hộ, đại diện hợp
pháp) cho tiếng nói và quyền lợi của học sinh (con em họ) nhưng cũng chỉ được
quyền phát biểu trong mối quan hệ nhiều cấp quản lý hiện hành. Khoản 3, Điều 13
Điều lệ xác định: “Tổ chức lấy ý kiến của Ban đại diện cha mẹ học sinh trường về
công tác giáo dục học sinh, quản lý dạy học, giúp đỡ học sinh có hoàn cảnh khó
khăn, vận động học sinh bỏ học trở lại lớp học và thực hiện Điều lệ Ban đại diện
cha mẹ học sinh” và Điều 13, khoản 2: “Định kỳ tổ chức cuộc hợp với Ban đại diện
cha mẹ học sinh trường, Ban đại diện cha mẹ học sinh lớp để tiếp thu ý kiến của
Ban đại diện và cha mẹ học sinh về công tác quản lý của nhà trường, biện pháp
phối hợp giúp đỡ học sinh,…”. Như vậy, hành vi vi phạm của cô giáo Trang, được
gia đình em Sơn sử dụng hình thức khởi kiện mà không phải là thông qua Ban đại
diện cha mẹ học sinh đã phản ánh những quy định vừa mới ban hành vẫn quá cứng
nhắc và theo lối một chiều. Nếu giả sử hiện tượng vi phạm đạo đức do học sinh gây
ra đối với giáo viên thì cũng không thể sử dụng các quy định hiện hành của ngành
giáo dục để bảo vệ quyền lợi về thể chất và tinh thần của mình. Phải chăng, đây
chính là “lỗ hổng” trong tính thống nhất các mối quan hệ giám sát, trách nhiệm
và chịu trách nhiệm của các chủ thể tham gia như: cơ quan quản lý giáo dục
(cung cấp dịch vụ giáo dục); ban giám hiệu nhà trường và học sinh (cha mẹ đại
diện khi chưa đủ tuổi theo quy định). Mặt khác, sau khi thực hiện trách nhiệm dân
sự (bồi thường 18 triệu đồng) thì trách nhiệm của nhà giáo, cán bộ quản lý giáo
dục sẽ như thế nào ? Đây là vấn đề khó trong xác định trách nhiệm theo quy định
của pháp luật Việt Nam
và đồng thời hình thức xử lý vẫn còn là “thách thức” đối với các trường hợp khác
vi phạm. Xét theo quy định hiện hành, cô giáo Trang có thể bị xử lý kỷ luật, hoặc
nặng nhất là tạm chuyển công tác sang làm việc khác không phải là giảng dạy. Điều
này không ảnh hưởng nhiều đến quyền lợi của cô giáo Trang nên dễ trở thành điều
kiện cho nhiều giáo viên khác cố tình vi phạm đạo đức nhà giáo. Giữa cái lợi họ
hưởng và cái mất khi bị phát hiện (lên án) đôi khi là cái “cân” để các giáo viên
tính toán thiệt hơn khi thực hiện hành vi vi phạm chuẩn mực đạo đức nhà giáo. Ví
dụ. nếu lựa chọn giữa dạy thêm “kiếm vài triệu” một tháng với hình thức xử lý
vi phạm hiện hành (nếu bị phát hiện và dư luận lên án) thì câu trả lời sẽ phải
là dạy thêm. Vì, việc phát hiện và xử lý theo cơ chế như trên phân tích thì “còn
lâu” họ mới bị phát hiện và xử lý nên “cờ đến tay ai thì người đó phất” cũng là
lẽ tự nhiên.
2. Những nguyên
nhân chủ quan
Những nguyên nhân
chủ quan được coi là những tiền đề phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể tác
động một cách trực tiếp hoặc giám tiếp vào hành vi vi phạm đạo đức nhà giáo.
Theo tình huống trên, có thể thấy những nguyên nhân cơ bản như:
Đối với hành vi của cô Trang bên cạnh
những lý do khách quan đã lý giải thì về phía chủ quan cho thấy: sự rèn luyện nền
nếp, tác phong; lối sống, đạo đức không được quan tâm. Điều này, chứng minh quá
trình từ khi cô giáo Trang còn là học sinh đến khi được đào tạo trong môi trường
sư phạm và môi trường công tác ở Trường trung học cơ sở Mỹ Hoá không chịu khó học
tập, rèn luyện và hỏi hỏi các bạn, đồng nghiệp và nền tảng đạo lý giáo dục của
người Việt Nam. Do vậy, luôn có ý thức tự mãn và tự cho mình là “thành công”; là
“nhất” trong các mối quan hệ. Nên làm việc gì ? như thế nào ? không ảnh hưởng đến
bản thân,… Đây là biểu hiện cơ bản “cố hữu” của một số giáo viên hiện nay, khi được
tuyển dụng và biên chế chính thức là không còn phải “phấn đấu” cả về đạo đức lẫn
chuyên môn. Cách nhận thức này, hiện nay vẫn phổ biến trong mô hình chức nghiệp
mà nhà nước ta đang áp dụng.
Đối với em Sơn, vì lý do tuổi còn nhỏ
(mới chỉ học lớp 7) nên việc nhận thức về hành vi của cô giáo Trang đúng hay không
đúng; chuẩn mực hay không chuẩn mực; và các quyền lợi của mình được làm gì để bảo
vệ mình;… đã dẫn đến tình trạng cô bắt thụt dầu 150 lần vẫn pháp chấp hành nghiêm
chỉnh, ngay cả khi mới thực hiện được 100 lần không thực hiện được tiếp vẫn phải
thực hiện lại hình phạt từ đầu… là những nguyên nhân chủ quan làm nảy sinh tình
huống trên. Nếu em Sơn có khả năng nhận thức đầy đủ về quyền lợi của mình và hành
vi sai trái của cô thì em không thực hiện và nhờ sự giúp đỡ can thiệp của cô giáo
chủ nhiệm, ban giám hiệu, ban đại diện cha mẹ học sinh,…chắc chắn cô Trang và
Ban giám hiệu nhà trường không phải bồi thường 18 triệu đồng, nhà trường không để
xảy ra hành vi vi phạm đạo đức của giáo viên đối với thể chất và tinh thần của
học sinh;…Phải chăng, nên hướng dẫn, tuyên truyền và tạo điều kiện để học sinh
tự thực hiện quyền bảo vệ trước sự xâm hại của giáo viên.
Đối với cán bộ, công chức quản lý giáo
dục ở Phòng Giáo dục-Đào Tạo thị xã Bến Tre, Ban giám hiệu trường trung học cơ
sở Mỹ Hoá còn hạn chế về năng lực tổ chức, quản lý và tuyên truyền phổ biến các
quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam về đạo đức nhà giáo, quy chuẩn nhà giáo
trong môi trường giáo dục. Tính “công bằng”, “nghiêm minh” và “dân chủ” được các
cán bộ, công chức quản lý giáo dục, cán bộ thanh tra, Ban giám hiệu thực hiện
nghiêm chỉnh theo quy định hiện hành thì việc để xảy ra sự cố như cô giáo Trang
có lẽ sẽ không có. Bởi lẽ, trước và sau khi có quy chế “đạo đức nhà giáo” năm
2008 đã có nhiều bài học về sự lệch chuẩn đạo đức bị xử lý. Song, dường như những
bài học này không đến được với cô giáo Trang và những hoạt động được các cán bộ
thực thi theo kiểu “cho xong” nên những quan tâm thực sự về môi trường sư phạm
trong nhà trường không được các nhà quản lý quan tâm.
IV. HẬU QUẢ
CỦA HÀNH VI VI PHẠM ĐẠO ĐỨC NHÀ GIÁO CỦA CÔ GIÁO TRẦN HUYỀN TRANG
Qua phân tích và nội dung tình huống nêu
lên những hậu quả trực tiếp, gián tiếp mà em Sơn, gia đình em Sơn, các học sinh
Trường trung học cơ sở Mỹ Hoá và nhân dân trên địa bàn phải gánh chịu. Đặc biệt
hơn là những tiền lệ nguy hiểm cho môi trường giáo dục và quản lý giáo dục ở Việt
Nam
trong thời gian tới. Biểu hiện cụ thể:
Thứ
nhất, lòng tin của học sinh, phụ huynh học sinh và xã hội đối với nhà giáo, cơ
quan quản lý giáo dục bị giảm sút. Trong mối quan hệ 3 bên, nếu một bên không
có thiện chí như học sinh, cha mẹ học sinh đối với môi trường giáo dục mà họ sẽ
giao phó con cái họ là sơ sở để họ từ chối môi trường này mà chạy đi môi trường
giáo dục khác. Đây là hậu quả tất yếu trong khi xã hội hoá giáo dục trong điều
kiện nền kinh tế thị trường, lúc này môi trường công lập bị “tẩy chay” và môi
trường “dân lập” sẽ là cơ sở để thu hút sự quan tâm của học sinh và cha mẹ học
sinh. Điều đáng nói hơn, khi lòng tin bị giảm sút thì những hậu quả trong sự “hợp
tác” giữa học sinh, cha mẹ học sinh sẽ không có hiệu quả và vô hình dung đã tạo
ra gánh nặng cho giáo dục ở địa phương.
Thứ hai, tạo ra những tiền lệ xấu trong quản lý và
lối hành xử của giáo viên trong môi trường giáo dục. Những ảnh hưởng từ việc xử lý không nghiêm hoặc
không có hình thức chế tài xử lý thích đáng đã để lại hệ quả mang tính chất
“dây truyền” trong môi trường giáo dục ở Việt Nam trong những năm qua. Nguy
hiểm hơn là những hành vi lệch chuẩn này có thể xâm phạm đến danh dự, nhân phẩm
của học sinh như: Đánh đập, ép giao cấu trái ý muốn,…
Ngoài ra, những hậu quả trực tiếp về
thể chất và tinh thần mà trực tiếp nhất là em Sơn và gia đình em phải gánh chịu;
thiệt hại về tài sản mà Ban giám hiệu nhà trường phải chi trả trong thương lượng
bồi thường;… đã được tình huống nêu lên khá chi tiết và đầy đủ.
V. PHƯƠNG ÁN
XỬ LÝ
Từ những phân tích nguyên
nhân, hậu quả của tình huống trên đòi hỏi các cấp, các ngành, trong đó đặc biệt
là cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục cần phải có trách nhiệm, có cách nhìn
khách quan, đánh giá đúng bản chất của vấn đề,… từ đó đề ra những phương hướng,
giải pháp hữu ích nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và xây dựng môi trường giáo dục
trong sạch, lành mạnh ở mọi cấp học trên địa bàn địa phương. Với những kiến thức
đã được học và những hoạt động thực tế của một giáo viên, tôi xin mạnh dạn đề
xuất một số các phương án giải quyết cụ thể như sau:
* Phương án 1: Xây dựng và xác định cơ chế chịu
trách nhiệm và tính phải chịu trách nhiệm của cơ quản quản lý nhà nước về giáo
dục ở cấp huyện.
- Ưu
điểm: Phương án này có nhiều ưu điểm nhằm cải cách phương thức quản lý giáo
dục theo đúng “bản chất” của vấn đề chứ không phải chỉ là những giải quyết mang
tính “hiện tượng” rời rạc và chắp vá. Xây dựng cơ chế này nhằm làm thay đổi nhận
thức, quan niệm về quản lý “thụ động” hiện hành của các cơ quan quản lý giáo dục
cấp huyện.
- Hạn
chế: Phương án này có những hạn chế như: Để thay đổi được bản chất của vấn đề
cần phải có người lãnh đạo (Trưởng Phòng Giáo dục-Đào tạo cấp huyện) quyết đoán,
giám đối mặt với tiêu cực và thử thách. Mặt khác, liên quan đến thay đổi thể chế
pháp luật chung về giáo dục hiện hành nên mất nhiều thời gian xây dựng và thực
hiện.
- Kế
hoạch thực hiện: Với mục tiêu mà phương án đặt ra, cần phải tiến hành các
trình tự, thủ tục cần thiết để xây dựng quy chế và phương pháp tổ chức thực hiện
khoa học.
+
Hoàn thiện hệ thống thể chế các quy định liên quan đến quản lý nhà nước về giáo
dục, trong đó xác định giữa “trách nhiệm và quyền hạn”; “trách nhiệm và tính
phải chịu trách nhiệm” theo từng chức năng, công việc được giao.
+ Tổ chức tuyên truyền phổ biến nhằm tạo
sự chuyển biến về nhận thức, nâng cao tinh thần trách nhiệm giám sát của các tổ
chức chính trị-xã hội; đoàn thể, nhân dân.
* Phương
án 2: Xây dựng cơ chế đối trọng trong quan hệ “nhà giáo-học sinh” ; “Nhà giáo-Ban
đại diện cha mẹ học sinh”; “Nhà quản lý-học sinh” và “Nhà quản lý-Ban đại diện
cha mẹ học sinh”.
- Ưu
điểm: Đây là phương án nhằm tạo ra sự đối trọng trong quan hệ “độc tôn” của
cơ chế giáo dục và quản lý giáo dục hiện hành ở nước ta. Phương án này cho phép
trực tiếp giải quyết mọi vấn đề phát sinh từ hành vi tiêu cực của nhà giáo đối
với học sinh.
- Hạn
chế: Hạn chế lớn nhất hiện nay vẫn thuộc về ý chí chủ quan của cán bộ, quản
lý giáo dục khi mà họ không muốn hoặc không nỡ từ bỏ các “quyền năng” mà từ trước
đến nay pháp luật và xã hội đã ban cho họ. Do vậy, khi thay đổi tình trạng của
quan hệ, sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến quyền, lợi của họ và đó cũng chính là những
hạn chế cho việc thực hiện phương án này. Mặt khác, Uỷ ban nhân thị xã Bến Tre
có mạnh dạn “phá dào” quy định về quản lý giáo dục hiện hành hay không còn phụ
thuộc vào vào sự tham mưu của Phòng Giáo dục-Đào tạo và quyết định của Chủ tịch
Uỷ ban nhân dân thị xã.
- Thực
hiện phương án: Để thực hiện phương án này cần tiến hành các nội dung như:
+ Sửa đổi lại các quy định trong quy
chế và điều lệ của học sinh và Ban đại diện cha mẹ học sinh.
+ Phổ biến và tổ chức thực hiện trên mọi
cấp học được phân cấp trên địa bàn thị xã kể cả công lập, dân lập hoặc bán công.
VI. KẾ HOẠCH
THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN TỐI ƯU
Mỗi phương án trên đều có
những ưu điểm, hạn chế nhất định, song xét điều kiện thể chế pháp luật và xu hướng
phân cấp quản lý ở Trung ương và địa phương hiện hành của Việt Nam, tiểu luận lựa
chọn phương án 2 là phương án tối ưu nhằm giải quyết các hiện tượng mà tình huống
nêu lên. Việc lựa chọn phương án này xuất phát từ những lý do như: Phương án
hai có những ưu điểm về tính khả thi, nhanh và phù hợp với sự thay đổi của cấp
Huyện. Đồng thời, phương án này là điều kiện quyết định làm thay đổi sự giám sát
và bảo đảm môi trường giáo dục “trong sạch, lành mạnh” ở các nhà trường thuộc địa
phương quản lý. Để thực hiện được phương án tối ưu này cần phải tiến hành các kế
hoạch hoạt động cụ thể như sau:
Bước một, xây
dựng quy chế giám sát đạo đức nhà giáo của học sinh và cha mẹ học sinh
Đây là bước cơ
bản quan trọng nhằm tạo ra cơ sở pháp lý cho việc thực hiện các hoạt động tiếp
theo. Trong bước này, cụ thể phải tiến hành:
+ Phòng Giáo dục-Đào tạo thị xã Bến
Tre tiến hành khảo sát, nghiên cứu xây dựng bản tường trình làm cơ sở tham mưu
cho Uỷ ban nhân thị xã quyết định giao cho Phòng Giáo dục xây dựng quy chế và
Chủ tịch Uỷ ban nhân dân ban hành Quyết định kèm theo quy chế.
+ Sau khi có bản giải trình của Phòng
giáo dục, Thường trực Uỷ ban nhân dân xem xét các điều kiện, căn cứ và tính khả
thi của nó để quyết định giao cho Phòng giáo dục tiến hành soạn thảo quy chế giám
sát của học sinh và Ban đại diện cha mẹ
học sinh đối với môi trường giáo dục của Nhà trường và cán bộ, giáo viên.
+ Phòng giáo dục soạn thảo quy chế, lấy
ý kiến rộng rãi từ phía học sinh, giáo viên, cán bộ quản lý, các nhà khoa học và
nhân dân thị xã để nhằm tìm ra cơ chế phù hợp nhất để giám sát hiệu quả và bảo
vệ các quyền lợi của người trực tiếp được hưởng thụ dịch vụ giáo dục.
+ Chủ tịch Uỷ ban nhân dân trên cơ sở
quy chế hoàn thiện ban hành Quyết định của Uỷ ban kèm theo Quy chế áp dụng bắt
buộc đối với các cấp học, bậc học trong phạm vi phân cấp của thị xã.
Bước 2: Tuyên
truyền và tổ chức thực hiện Quyết định ban hành kèm theo quy chế của Chủ tịch Uỷ
ban nhân dân thị xã Bến Tre
Thứ
nhất, tổ chức tuyên truyền phổ biến ở các cơ quan, các bộ phận, các nhà trường
, học sinh, Ban đại diện học sinh và nhân trên trên địa bàn. Đây là khâu
quan trọng quyết định đến hiệu quả của quy chế. Việc tổ chức nghiêm túc và trên
nhiều kênh khác nhau sẽ là cơ sở làm chuyển biến về nhận thức các quyền, nghĩa
vụ của học sinh, ban đại diện cha mẹ học sinh, giáo viên, cán bộ quản lý,…
trong quá trình tham gia vào quy trình dạy-học ở nhà trường trên địa bàn thị xã.
Để tuyên tuyền, phổ biến sâu rộng cần có sự tham gia của các tổ chức chính trị-xã
hội, các đoàn thể và nhà trường, đặc biệt là các tổ chức của chính quyền cấp cơ
sở.
Thứ
hai, tổ chức thực hiện quy chế. Trong quy chế xác định trách nhiệm, thẩm
quyền và nhiệm vụ của từng vị trí trong việc tham gia giám sát đạo đức nhà giáo
trong môi trường công tác và sinh hoạt ở địa phương; cơ chế giám sát, phát hiện
và xử lý thuộc thẩm quyền theo quy định. Đây là những quy định cơ bản có liên
quan đến nhiều đối tượng, chủ thể và được đánh giá tổng kết, rút kinh nghiệm
theo từng học kỳ, từng năm học từ đó làm cơ sở cho việc hoàn thiện dần cơ chế,
các quy định của Quy chế.
KIẾN NGHỊ VÀ KẾT
LUẬN
I.
KIẾN NGHỊ
Vấn đề đạo đức nhà giáo là
vấn đề nhạy cảm có nội dung phức tạp. Do vậy, trong quá trình triển khai phương
án tối ưu cần phải có thời gian, vật chất và sự đồng thuận của nhiều chủ thể.
Song, để chấn chỉnh những hoạt động quản lý và hành vi vi phạm đạo đức nhà giáo,
tiểu luận xin kiến nghị một số vấn đề sau:
Một
là, cần phải có thái độ rõ ràng và dứt khoát của các cơ quan quản lý nhà nước
đối với bất kỳ một hành vi lệch chuẩn nào của nhà giáo nhằm một mặt đảm bảo tính
nghiêm minh của các quy định, đồng thời răn đe đối với những người có ý đồ, xu hướng
đe doạ quyền, lợi ích, tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm của người học.
Hai
là, cần phải coi công khai hoá các trường hợp vi phạm đạo đức nhà giáo như
là một khâu, một thủ tục cần có trong hoạt động quản lý và hoạt động giáo dục của
nhà trường. Điều này là tạo ra những ảnh hưởng tích cực tác động đến cá nhân nhà
giáo, học sinh và Nhà trường trong việc rút kinh nghiệm thông qua các trường hợp
vi phạm bị xử lý ở các môi trường giáo dục khác và ở địa phương khác trong cả nước.
Ba
là, chính quyền địa phương cơ sở và các tổ chức chính trị-xã hội cần quan tâm
hơn nữa đến điều kiện, môi trường học tập ở địa phương nhằm xây dựng cảnh quan,
môi trường giáo dục trong sáng, lành mạnh trên địa bàn chính quyền cơ sở.
II. KẾT LUẬN
Với những đóng góp trên, tiểu
luận hy vọng sẽ góp phần hoàn thiện cơ chế giám sát hoạt động dạy-học ở địa phương
nói riêng và môi trường giáo dục nói chung. Loại trừ những tiêu cực không đáng
có trong hoạt động giáo dục; những khó khăn cả về lý luận và thực tiễn làm nền
móng cho quá trình chấn hưng giáo dục ở Việt Nam trong thời gian tới, làm cho
giáo dục đào tạo thực sự trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế-xã hội phát
triển nhanh, mạnh và bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
|
Báo điện tử Dân
trí
|
2.
|
Đảng Cộng sản
Việt Nam-Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
2001.
|
3.
|
Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003.
|
4.
|
Nghị định số
14/2008/NĐ-CP ngày 04/02/2008 của Chính phủ quy định tổ chức các cơ quan chuyên
môn thuộc Uỷ ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh.
|
5.
|
Quyết định số
07/2007/QĐ-BGDĐT ngày 02/04/2007 ban hành Quyết định kèm theo Điều lệ trường
Trung học cơ sở, trường trung học phổ thông và trường phổ thông có nhiều cấp
học, xác định phân cấp quản lý đối với trường phổ thông.
|
6.
|
Quyết định số
16/2008/QĐ-BGDĐT ngày 16/04/2008 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục-Đào Tại, ban hành
Quy chế về đạo đức nhà giáo.
|
7.
|
Quyết định số
11/2008/QĐ-BGDĐT ngày 28/03/2008 ban hành Điều lệ Ban đại diện cha mẹ học sinh.
|
8.
|
Thông tư liên
tịch số 35/2008/TTLT-BGDĐT-BNV ngày 14/7/2008 hướng dẫn về chức năng, nhiệm vụ,
quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Sở Giáo dục và Đào tạo thuộc Uỷ ban nhân dân
cấp tỉnh, Phòng Giáo dục và Đào tạo thuộc Uỷ ban nhân dân cấp huyện.
|
[1] Đảng Cộng sản
Việt Nam-Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội.2001,
tr.217.
As stated by Stanford Medical, It's really the SINGLE reason women in this country live 10 years longer and weigh 42 pounds less than us.
ReplyDelete(By the way, it really has NOTHING to do with genetics or some secret exercise and absolutely EVERYTHING about "how" they eat.)
BTW, What I said is "HOW", and not "WHAT"...
Tap this link to see if this little test can help you unlock your real weight loss possibilities