Tin liên quan:
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 27
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 27
MỤC
LỤC
Trang
Lời nói đầu
|
2
|
Phần 1:
Mô tả tình huống
|
3
|
Phần 2:
Nhận xét đánh giá về hậu quả của tình huống
|
7
|
1. Nhận xét đánh giá về hậu của tình huống
|
7
|
2. Phân tích nguyên nhân
|
7
|
3. Phân tích hậu quả
|
13
|
Phần 3:
Đề xuất phương án và giải pháp
|
15
|
A. Xây dựng phương án
|
15
|
B. Đánh giá, lựa chọn phương án
|
16
|
I. Đánh giá phương án
|
16
|
II. Lựa chọn phương án
|
17
|
Phần 4:
Kế hoạch thực hiện phương án lựa chọn
|
18
|
Phần 5:
Kết luận-kiến nghị
|
20
|
1. Kết luận
|
20
|
2. Kiến nghị
|
21
|
Danh mục tài
liệu tham khảo
|
23
|
LỜI
NÓI ĐẦU
Hơn
20 năm thực hiện nền kinh tế chuyển đổi: nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa và mới đây là hội nhập kinh tế quốc tế (thành viên của Tổ chức Thương
mại Quốc tế-WTO) đã tạo ra nhiểu tiềm năng to lớn cho sự phát triển kinh tế-xã
hội ổn định và bền vững; an ninh chính trị, trật tự an toàn được đảm bảo; đời sống
của nhân dân ngày càng được nâng cao cả về vật chất và tinh thần;…. Song, những
thách thức mang tính nguy cơ luôn tiềm ẩn, đe doạ đến sự phát triển bền vững của
nền kinh tế, truyền thống văn hoá, an ninh chính trị của dân tộc. Một trong những
thách thức có ý nghĩa quan trọng cả về lý luận và thực tiễn xuất phát từ “hiệu lực-hiệu quả quản lý của bộ máy nhà
nước” ở nước ta hiện nay. Điều này đã tạo nên tính thụ động, ỷ lại, thiếu
trách nhiệm và tính chịu trách nhiệm trong cơ chế của nền hành chính công truyền
thống. Mặt khác, tính năng động của nền kinh tế không được bảo đảm đáp ứng với
những quyết sách chính trị; chính sách; chiến lược; tổ chức bộ máy; đội ngũ cán
bộ, công chức;… phù hợp, đã kìm hãm sự phát triển của nó trong những năm gần đây.
Đặc biệt, trong lĩnh vực quản lý nhà nước về lâm nghiệp, sự phát triển giữa tài
nguyên thiên nhiên và nhu cầu khai thác quá mức tài nguyên thiên nhiên rừng để
phát triển kinh tế là một ngịch lý trong quy hoạch và phát triển kinh tế-xã hội
của một quốc gia.
Trong
những năm qua, bên cạnh những thành tựu mà Đảng, Nhà nước ta quan tâm phát triển
nguồn tài nguyên thiên nhiên rừng theo đúng tính chất, vị trí của nó trong xây
dựng và phát triển đất nước. Với mục đích vừa đảm bảo cân bằng hệ sinh thái, vừa
là động lực để phát triển kinh tế-xã hội của đất nước, của địa phương, nhất xoá
đói, giảm nghèo cho các vùng đồng bào, dân tộc thiểu số. Tuy nhiên, một thực trạng
thường thấy hiện nay là việc khai thác quá mức; không chú ý đến phát triển bền
vững; buông lỏng quản lý;… đã làm cho nhiều cánh rừng tự nhiên biến mất, vùng đất
có tiềm năng phát triển rừng trở nên hoang hoá, cây công nghiệp lâu năm không có
khả năng khai thác hiệu quả;... dẫn đến những hậu quả về thiên tai, môi trường
sinh thái bị ô nhiễm;… tác động xấu đến đời sống của nhân dân. Điều này cho thấy,
những bất cập về thể chế pháp luật, chính sách, chiến lược phát triển và khai
thác rừng không hợp lý, trong đó nhất là chính quyền địa phương các cấp chưa thực
hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ quản lý của mình đối với các diện tích rừng
thuộc đơn vị hành chính lãnh thổ, nên đã để xảy ra tình trạng phá rừng, đốt rừng
làm dẫy theo tập tục, cháy rừng,… thậm chí kể cả những trường hợp lợi dụng kẽ hở
của các quy định của pháp luật nhằm khai thác trái phép thu lợi cho cá nhân;…
Trước
những thực trạng trên, Đảng ta đã ban hành Nghị quyết số 17-NQ/TW về đẩy mạnh cải
cách chính và nâng cao hiệu lực, hiệu quả của bộ máy Nhà nước[1];
Chính phủ đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ và phát triển
rừng. Chẳng hạn như: Nghị định số 5/2008/NĐ-CP ngày 14/1/2008 về quỹ bảo vệ và
phát triển rừng; Quyết định số 144/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày
10/09/2007 về một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn 2007-2015;
Chỉ thị số 334/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ngày 10/03/2009 về tăng cường các
biện pháp tổ chức thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng;… nhằm khôi phục, bảo
vệ và quản lý nguồn tài nguyên thiên rừng phục vụ cho phát triển kinh tế-xã hội
và bảo vệ môi trường sinh thái. Cùng với những kiến thức lý luận khoa học quản
lý nhà nước đã được học, tiểu luận xác định vấn đề: “Quản lý nhà nước về lâm nghiệp ở chính quyền cấp tỉnh” làm nội dung
cơ bản để nghiên cứu.
PHẦN
1: MÔ TẢ TÌNH HUỐNG
Quản
lý Nhà nước về lâm nghiệp là một trong những lĩnh vực phức tạp, có nội dung
rộng bao gồm nhiều vấn đề như: xây dựng và phát triển đề án phát triển rừng,
cây công nghiệp lâu năm; quy hoạch đất rừng và bảo vệ rừng; khai thác, phát
triển tiềm năng của rừng; hoạt động quản lý nhà nước về cấp phép, quản lý,
thanh tra, kiểm tra, xử lý các hành vi khai thác, sử dụng và phát triển rừng;…
Song, với thời gian và năng lực có hạn, tiểu luận giới hạn trong phạm vi “Công tác quản lý và bảo vệ rừng ở chính quyền
địa phương” qua tình huống được đăng trên Báo Nhân dân điện tử ngày
10/03/2009 như sau:
“… Ngày 15-8-2006, UBND tỉnh Đắk Nông đã
ban hành Quyết định số 1007/QĐ-CTUBND, về việc cho Công ty Ngọc Thạch thuê
589,1 ha đất tại các Tiểu khu 1515, 1516 thuộc xã Quảng Tân (huyện Tuy Đức),
trong đó có 535,4 ha rừng tự nhiên và 53,7 ha đất trống để thực hiện dự án bảo
vệ rừng và trồng rừng nguyên liệu. Ngày 30-8-2006, UBND tỉnh Đắk Nông lại ban
hành Quyết định số 1097/QĐ-CTUBND điều chỉnh, bổ sung một số điểm của Quyết
định 1007. Theo hai quyết định này của UBND tỉnh Đắk Nông, thì hiện trạng khu
đất giao cho Công ty TNHH Ngọc Thạch thuê đưa vào quản lý, khoanh nuôi bảo vệ
rừng tập trung là 249,3 ha; khoanh nuôi làm giàu rừng là 124 ha và diện tích
còn lại khoảng 116 ha để trồng rừng gồm cao su, keo, gió bầu… và trồng cây công
nghiệp, đồng cỏ, và xây dựng cơ sở hạ tầng…
Đến tháng 2-2007, Công ty TNHH Ngọc
Thạch chính thức nhận biên bản bàn giao thực địa với tổng diện tích là 451,9 ha
đất và rừng, trong đó đất có rừng tự nhiên là 416,2 ha và đất không có rừng là
35,7 ha. Mặc dù được tỉnh và các cấp, các ngành ở địa phương tạo điều kiện cho
thuê đất chiếm phần lớn là rừng, nhưng do không đủ năng lực và buông lỏng công
tác quản lý, bảo vệ rừng, nên chỉ sau hai năm thực hiện dự án đã có 90 ha rừng
thuộc lâm phận công ty quản lý bị lâm tặc xóa sổ, thay vào đó là những rẫy sắn
của người dân địa phương.
Trước tình trạng rừng do công ty quản lý
bị tàn phá nặng nề, sau một thời gian kiểm tra, ngày 20-1-2009 Chi cục Kiểm lâm
tỉnh Đắk Nông đã có báo cáo số 44/BC-KL về kết quả kiểm tra tình hình thực hiện
công tác quản lý, bảo vệ rừng của Công ty TNHH Ngọc Thạch, báo cáo nêu rõ:
“Công ty TNHH Ngọc Thạch đã không triển khai đúng các biện pháp quy định, để
rừng bị phá 88,29 ha. Trong đó, tính đến đầu năm 2009, riêng Hạt kiểm lâm huyện
Tuy Đức đã phát hiện 52,6 ha rừng bị phá mà công ty không có biện pháp ngăn
chặn kịp thời. Còn riêng Đoàn kiểm tra liên ngành của tỉnh do Chi cục kiểm lâm
tỉnh chủ trì cũng đã phát hiện thêm 35,69 ha rừng bị chặt phá, chưa được công
ty và các ngành chức năng địa phương thống kê báo cáo…”. Điều đáng nói là sau khi có
kết quả kiểm tra, các ngành chức năng của tỉnh đã thông báo về tình trạng rừng
do Công ty nhận quản lý, bảo vệ bị tàn phá nặng nề, nhưng công ty vẫn không có
biện pháp quản lý, bảo vệ hiệu quả. Vì vậy, chỉ hơn một tháng sau, đến ngày
23-2-2009, qua kiểm tra, Hạt kiểm lâm huyện Tuy Đức lại phát hiện đã có thêm
gần 1,5 ha rừng bị chặt phá… Nguyên nhân chủ yếu để mất rừng là do Công ty Ngọc
Thạch đã buông lỏng công tác quản lý, bảo vệ rừng.
Trong những ngày đầu tháng 3, chúng tôi
được các cán bộ Hạt Kiểm lâm huyện Tuy Đức đưa đến tận các Tiểu khu 1515, 1516
thuộc lâm phận Công ty TNHH Ngọc Thạch quản lý, vừa đến nơi đã bắt gặp cảnh
tượng hàng chục người dân ngang nhiên vào rừng phát, dọn, đốt cây chiếm đất sản
xuất ngay trên khu vực rừng do công ty quản lý. Trong khi đó, không thấy bóng
dáng lực lượng bảo vệ rừng của công ty ở đâu. Khi chúng tôi thắc mắc về việc
buông lỏng công tác quản lý, bảo vệ rừng của công ty, thì được các anh ở Hạt
Kiểm lâm huyện và cán bộ thôn dẫn đường cho biết: không phải bây giờ mà kể từ
khi được tỉnh cho thuê đất triển khai thực hiện dự án bảo vệ rừng và trồng rừng
nguyên liệu đến nay, có bao giờ thấy người của công ty đâu mà bảo vệ. Quả đúng
như vậy, khi chúng tôi đến trạm bảo vệ rừng số 1 của Công ty đặt ở đầu thôn Đác
M’rê thì thấy cửa đóng im ỉm, chung quanh cỏ dại mọc um tùm. Đi sâu thêm vào
rừng, nhiều cánh rừng già hàng trăm năm tuổi nay chỉ còn lại vài cây thưa thớt,
xen lẫn với các rẫy sắn. Còn những khoảnh rừng nằm sát mặt đường, địa thế bằng
phẳng thì cây cối vừa bị chặt phá ngã ngổn ngang, thân cây bị đốt cháy đen lẹm.
Vào sâu hơn nữa, sát cánh rừng già là trạm bảo vệ rừng số 2 của công ty. Nhưng
cai quản cả khu vực này chỉ có một mình bà Bùi Thị Dung, năm nay đã 60 tuổi.
Theo bà Dung thì lâu nay ở trạm bảo vệ rừng này chỉ có bà cùng với chồng là ông
Phan Văn Thủy, đã 70 tuổi; ngoài ra còn có thêm hai thanh niên nữa được Công ty
thuê giữ rừng, nhưng hiện nay họ đi đâu bà không biết…
Tìm hiểu thực tế tình hình sản xuất của
Công ty TNHH Ngọc Thạch, chúng tôi được nhiều người dân sinh sống chung quanh
khu vực đất của công ty cho biết: đến nay công ty chỉ mới trồng được khoảng 10
ha cao su, còn không thấy trồng thêm cây gì nữa. Ngay cả chính quyền địa phương
cũng không biết công ty đã và đang triển khai những gì trên địa bàn. Chủ tịch
UBND xã Quảng Tân Châu Phúc Dũng, cho biết: “Lâu nay xã không biết Công ty đã
làm được những gì trên diện tích đất được cho thuê và hiện trụ sở đóng ở đâu xã
cũng chịu. Trong thời gian qua, khi phát hiện những vụ phá rừng trên diện tích
rừng của công ty, xã có điện thoại báo cho đại diện của công ty nhưng đâu có
liên lạc được”. Thậm chí ngay cả vợ chồng bà Dung ông Thủy, người được công ty
thuê giữ rừng cũng chỉ biết là có ông Hậu thuê, rồi trả tiền công cho hai vợ
chồng với mức 3,4 triệu đồng/tháng. Theo bà Dung thì trước đây hàng tháng vợ
chồng bà vẫn nhận tiền đầy đủ lương, còn hai tháng gần đây chỉ nhận được tiền tạm
ứng mà thôi.
Không chỉ buông lỏng công tác quản lý,
bảo vệ rừng, Công ty TNHH Ngọc Thạch còn thiếu trách nhiệm phối hợp với các
ngành chức năng địa phương để giải quyết công việc. Hạt trưởng Hạt Kiểm lâm
huyện Tuy Đức Lê Đình Vũ bức xúc: Để khách quan trong công tác kiểm tra tình
hình quản lý, bảo vệ rừng của công ty, huyện đã thành lập đoàn công tác liên
ngành và mời Công ty cử người tham gia, nhưng công ty cố tình không cử người
tham gia đoàn. Nhiều trường hợp công ty còn bất hợp tác với ngành chức năng,
chẳng hạn như trong chương trình phối hợp với Hạt kiểm lâm huyện để kiểm tra về
tình trạng phá rừng trái phép, công ty không cử người đủ thầm quyền tham gia,
và khi làm việc xong cán bộ của công ty còn không thèm ký vào biên bản. Không
chỉ vậy, nhiều lúc Hạt Kiểm lâm huyện muốn làm việc với công ty nhưng không mấy
khi liên lạc được.
Trong khi đó, tại quyết định cho thuê
đất của UBND tỉnh Đắk Nông đã nêu rõ: “Công ty TNHH Ngọc Thạch có trách nhiệm
sử dụng đúng mục đích, đúng ranh giới khu rừng cho thuê; chấp hành nghiêm chỉnh
Luật Đất đai và Luật Bảo vệ rừng. Đối với diện tích rừng công ty được giao
khoanh nuôi, phải quản lý, bảo vệ nghiêm ngặt, tuyệt đối không để xảy ra phá
rừng trái phép, nếu để xảy ra tình trạng phá rừng trái phép thì UBND tỉnh sẽ thu
hồi lại diện tích đã cho thuê…”. Thế nhưng với những gì mà Công ty TNHH Ngọc
Thạch đã và đang làm dường như đi ngược lại với quyết định cho thuê đất của
UBND tỉnh Đắk Nông. Cụ thể là chỉ sau hai năm được UBND tỉnh Đắk Nông cho thuê
đất triển khai dự án quản lý, bảo vệ rừng thì đã có 90 ha rừng do công ty quản
lý đã bị xóa sổ. Nhưng các ngành chức năng của tỉnh Đắk Nông vẫn chưa vào cuộc
kiểm tra, xem xét trách nhiệm của công ty để có biện pháp xử lý. Nếu cứ để tình
trạng này kéo dài thì không ai dám chắc hàng trăm ha rừng do công ty quản
lý sẽ còn tồn tại.”
PHẦN 2: NHẬN XÉT VỀ HẬU QUẢ CỦA TÌNH HUỐNG
1. Nhận xét đánh
giá về hậu quả của tình huống
Tình huống trên đã phản ánh đúng thực trạng
phần nào tình hình quản lý, sử dụng và khai thác rừng, đất rừng ở các địa phương
có rừng ở nước ta hiện nay. Sự thiếu năng động, quyết đoán và nhận định của chính
quyền địa phương đã là cơ sở tạo ra những hành hành vi vi phạm pháp luật về quản
lý, phát triển và bảo vệ rừng; phát sinh các hiện tượng tiêu cực trong quản lý;
buông lỏng hay có ý thức “bỏ mặc”, “bàng quan”,
“vô trách nhiệm”,… của những cơ quan chức năng, cán bộ, công chức trong điều
kiện “lờ mờ” của danh giới “ trách nhiệm” gắn với “thẩm quyền”; “tính phải chịu
trách nhiệm” với “hoạt động công vụ” được giao;… Phải chăng, hiện nay nhà nước
ta thiếu cơ chế; văn bản pháp quy và chế tài để xử lý hay thiếu tính quy hoạch;
xây dựng và nguồn lực để phát triển ? Chính quyền địa phương tỉnh Đắk Nông chỉ
là cấp “thừa hành” mang tính mệnh lệnh thứ bậc chặt chẽ để đến nỗi chỉ thực hiện
theo kiểu “cát cứ” mà bỏ quên trách nhiệm trước nhà nước và cộng đồng dân cư
?... luôn là những câu hỏi đặt ra cần phải giải quyết triệt để cả về mặt lý luận
và thực tiễn đối với thực trạng mà tình huống trên nêu lên. Đồng thời, thông
qua đó xây dựng những giải pháp nhằm chấn chỉnh, khắc phục hiện tượng phá rừng
tràn lan trên địa bàn.
2. Phân tích nguyên nhân
Đánh giá nguyên nhân của tình huống trên
làm cơ sở cho việc tìm ra “căn bệnh” để xảy ra tình trạng “buông lỏng quản lý” gây ra hậu quả lớn cho địa phương, Nhà nước và
xã hội có thể xem xét trên nhiều góc độ khác nhau. Dưới góc độ quản lý nhà nước
về lâm nghiệp của chính quyền cấp tỉnh có thể đánh giá thông qua các nguyên nhân
khách quan và chủ quan như:
Thứ
nhất, các nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân khách quan được coi là những yếu tố không phụ
thuộc vào ý chí chủ quan có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp lên hành vi, tình
trạng “buông lỏng” quản lý rừng hiện nay ở Đắk Nông. Về cơ bản có thể xem xét
trên các nguyên nhân như sau:
Một
là, điều kiện phát triển kinh tế-xã hội của địa phương. Xét về lý luận, cơ sở hạ tầng quyết định
kiến trúc thượng tầng cả về nội dung và hình thức, trong đó cơ cấu kinh tế-xã hội
ở địa phương là thành tố cơ bản quan trọng quyết định đến phương thức tổ chức và
quản lý mang tính đặc thù ở tỉnh Đắk Nông. Ở phạm vi rộng sự phát triển khách
quan của nền kinh tế thị trường đòi hỏi nhà nước (bộ máy nhà nước), pháp luật,
chính sách,… phải thích ứng, đáp ứng được những đòi hỏi khách quan đó nhằm thúc
đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Nhưng, những cải cách bộ máy, chính sách, thể chế,…
ở Việt Nam hiện nay vẫn còn chậm, rời rạc,… chưa thực sự tạo ra sự chuyển biến
thực sự trong đổi mới cơ chế quản lý, chính sách, … nên những hạn chế của nền hành
chính công truyền thống là rào cản, hạn chế, kìm hãm sự phát triển kinh tế-xã hội.
Tính không thích ứng này thể hiện bằng những hiệu quả, hiệu lực quản lý của bộ
máy nhà nước trên các mặt, các lĩnh vực khác nhau của đời sống kinh tế-xã hội,
khoa học, giáo dục, văn hoá, y tế, nông-lâm-ngư nghiệp,… Ở phạm vi hẹp, điều kiện
kinh tế-xã hội ở tỉnh Đắk Nông hiện còn là một địa phương có số hộ nghèo cao,
chủ yếu sống bằng phát triển rừng, cây công nghiệp, dân trí có trình độ thấp, lạc
hậu trong các sống du canh, du cư,… Song, việc tổ chức bộ máy và thực hiện các
chính sách kinh tế-xã hội của Nhà nước trên địa bàn không có sự khác biệt đáng
kể so với các địa phương khác. Chẳng hạn, cơ cấu tổ chức chính quyền địa phương
trong tỉnh không khác gì so với cơ cấu tổ chức của tỉnh đồng bằng hay thậm chí
là thành phố trực thuộc Trung ương. Sự đánh đồng mô hình tổ chức này đã tạo ra
những hạn chế trong việc bố trí, sử dụng và tổ chức thực hiện các chức năng,
nhiệm vụ được phân cấp, phân công,…. Mặt khác, mặt trái của nền kinh tế thị trường
đã tạo ra những vấn đề có tính khách quan như xu hướng chạy theo đồng tiền; ích
kỷ cá nhân;… đã làm cho tình hình khai thác bữa bãi, trái phép, bất chấp pháp
luật của người dân, tổ chức và những biểu hiện tiêu cực, tham nhũng, lãng phí của
một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức có thẩm quyền.
Hai
là, diện tích rừng thuộc tỉnh Đắk Nông quản lý lớn, thiếu đất sản xuất nông
nghiệp sự di dân tự do đang là những thách thức khách quan không nhỏ đến việc
quản lý và bảo vệ rừng ở các địa phương trong tỉnh. Tỉnh Đắk Nông với phần lớn dân số thuộc
đồng bào dân tộc thiểu số, có lối sống di canh, di cư lạc hậu, chưa có kinh
nghiệm trong sản xuất, trồng trọt và phát triển với những phương thức kỹ thuật
mới nên đa số cuộc sống của các hộ gia đình vẫn phụ thuộc chính vào nguồn khai
thác tài nguyên rừng thô mà chưa có sự “tái trồng rừng” hay “tái canh tác trên đất
rừng”;… Chẳng hạn như tình huống đã nêu, số hộ dân sau khi khai thác gỗ cũng chỉ
biết trồng sắn một số vụ nhất định rồi di chuyển đến cánh rừng khác. Mặt khác,
chu kỳ sản xuất của cây lâm nghiệp dài, lợi nhuận thấp, nhiều rủi ro, … nên tính
cạnh tranh thấp so với nhiều cây trồng khác.
Thứ
hai, các nguyên nhân chủ quan. Những nhân tố chủ quan là các yếu tố phụ thuộc vào ý chí chủ quan của
con người tác động trực tiếp họăc gián tiếp đến những tình trạng “phá rừng” mà
tình huống nêu ra. Biểu hiện cụ thể như:
Một là, thể chế pháp luật,chính sách phát
triển và quản lý rừng của nhà nước hiện nay còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo chưa
tạo ra được cơ sở pháp lý vững chắc trong việc xác định trách nhiệm, chế độ
thanh tra, kiểm tra xử lý các vi phạm về lâm nghiệp. Qua tình huống trên cho thấy những biểu
hiện mâu thuẫn cơ bản trong các văn bản quy phạm pháp quy hiện hành và sự tắc
trách của chính quyền dẫn đến tình trạng “rừng” không có “chủ” kiểm soát, quản
lý và bảo vệ.
- Xét về cơ cấu
tổ chức chính quyền (Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông) và cơ quan chuyên môn Sở Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh theo quy định tại các điều 88 và 102 Luật tổ
chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân ngày 26/11/2003; Điều 8, khoản 6 Nghị
định số 13/2008/NĐ-CP của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ
quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã
xác định cơ chế quản lý của Uỷ ban nhân dân tỉnh và Sở Nông nghiệp đối với các
nhiệm vụ, thẩm quyền được giao trong quản lý rừng “(b) Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn tham mưu, giúp Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện chức năng quản
lý nhà nước về: nông nghiệp; lâm nghiệp; diêm nghiệp;…”[2].
Nếu theo các quy định này, cơ quan chuyên môn chỉ với tính cách là cơ quan tham
mưu giúp Uỷ ban nhân dân tỉnh thực hiện các hoạt động như lựa chọn tổ chức, cá
nhân có khả năng để giao dự án trồng, quản lý và phát triển rừng; tham mưu xây
dựng các chính sách; các văn bản pháp quy và xây dựng, tổ chức lực lượng quản lý
được giao;… đã tạo ra tính khó xác định trách nhiệm và sự song trùng trực thuộc
trong quan hệ cấp trên, cấp dưới. Trong tình huống trên, để xác định được trách
nhiệm thuộc về ai khi lựa chọn Công ty TNHH Ngọc Thạch làm chủ đầu tư trong các
dự án trồng rừng và bảo vệ rừng thì quả thật không đủ cơ sở xác định. Nếu cho rằng,
Sở Nông nghiệp và phiển nông thôn tỉnh Đắk Nông thì Sở chỉ là cơ quan chuyên môn
tham mưu không phải là cơ quan có thẩm quyền quyết định, còn nếu xác định Uỷ
ban nhân dân tình trách nhiệm giữa tập thể Uỷ ban và cá nhân chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tỉnh là là một khoảng cách “xa vời” nên khó quy trách nhiệm và tính phải chịu
trách nhiệm. Mặt khác, sự phân cấp hiện nay mới chỉ dừng lại ở phân cấp chức năng-tức
là Chính phủ phân cấp cho Uỷ ban nhân dân tỉnh, Uỷ ban nhân dân tỉnh trên cơ sở
đánh giá năng lực, thực tiễn của các quận, huyện, xã,… để tiếp tục phân cấp, nhưng
trên thực tế sự phân cấp của tỉnh chỉ mang tính hình thức tức là phân cấp nhiệm
vụ không gắn với phân cấp nguồn lực (ngân sách, tài chính, vật chất) hoặc chỉ là
những phân cấp dè dặt chưa có sự mạnh dạn giao phó nên không tạo ra được tính đồng
bộ trong việc xem xét, quy hoạch, lựa chọn tổ chức, cá nhân, bố trí lực lượng,
phương tiện, trang thiết bị phục vụ quá trình phát triển và bảo vệ rừng bền vững.
Một khía cạnh khác, sự mâu thuẫn quản lý giữa các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ
ban nhân dân như: Sở Nông nghiệp với sở Tài nguyên môi trường;… là nguyên nhân
nảy sinh những tồn tại không đáng có về sự ỷ lại, cát cứ trong việc quản lý. Thông
thường, các sở và các địa phương thường thực hiện theo nguyên tắc “việc ai nấy
làm” nên cho dù có phát hiện vi phạm nhưng không thuộc chức năng của mình thì cũng
bỏ mặc hoặc những vấn đề quản lý không xác định được danh giới trách nhiệm của
cơ quan thì thường có ý thức “đùn đẩy” trách nhiệm;…
- Việc ra quyết
định và bàn giao đất rừng của Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông vào thời điểm thời điểm
tháng 8/2006 cho Công ty TNHH Ngọc Thạch là không đúng thẩm quyền và đề án phát
triển rừng mà Chính phủ giao cho Uỷ ban nhân dân. Bởi lẽ, căn cứ vào Quyết định
số 66/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 15/7/2007 về việc phê duyệt đề án,
sắp xếp đổi mới nông, lâm trường quốc doanh thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông
xác định Công ty TNHH Ngọc Thạch không thuộc đối tượng được giao quản lý rừng tự
nhiên. Như vậy, Nếu là rừng tự nhiên chỉ có lâm trường quốc doanh mới được nhận
bảo vệ, còn với đất rừng dùng trồng cây dự án được phép giao cho cá nhân, tổ chức
thực hiện dự án. Sự khác biệt về đất rừng tự nhiên và đất trồng rừng đã bị Sở Nông nghiệp và Uỷ ban nhân dân
dân tỉnh “phù phép” trong Quyết định của mình là giao xen lẫn một số đất có
rừng tự nhiên với đất dùng để trồng cây keo, gió bầu, cao xu của Công ty TNHH
Ngọc Thạch. Như vậy, sự tắc trách trong phân loại rừng, đánh giá vị trí, tính
chất rừng,… của Sở Nông nghiệp để tham mưu cho Uỷ ban ra các quyết định hợp lý,
hợp pháp ở Đắk Nông không được làm triệt để và tuân thủ theo đúng quy định của
pháp luật.
- Xét về chức năng nhiệm vụ, cơ chế phối hợp của cơ quan kiểm lâm trong
việc bảo vệ rừng được phân công mà tình huống trên nêu cho thấy: Tính thụ động
của các cấp, ngành trong tỉnh Đắk Nông ở việc để hành vi hoang hoá đất trồng
rừng; phá rừng tự nhiên liên tiếp và ngang nhiên. Theo Quyết định số
22/2008/QĐ-BNN của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn ngày 28/01/2008 về
quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Cục kiểm lâm tại
Điều 2, khoản 6: Về bảo vệ rừng: “(c) Chỉ đạo, hướng dẫn và kiểm tra việc tổ chức thực hiện
các biện pháp chống chặt, phá rừng trái phép và các hành vi vi phạm pháp luật
trong lĩnh vực quản lý bảo vệ rừng và quản ý lâm sản;..” thì không hiểu
sự chỉ đạo của Cục kiểm lâm đối với Chi cục tỉnh, hạt kiểm lâm huyện và chính
quyền cơ sở trong việc bảo vệ số diện tích rừng bị phá thuộc quản lý của Công
ty TNHH Ngọc Thạch. Mặc dù, đã có sự kiểm tra của Chi cục kiểm lâm; rồi đến những
phát hiện của Hạt kiểm lâm huyện Tuy Đức,… trong 2 năm nhưng không thấy động thái
của Cục kiểm lâm và Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông. Không lẽ, đất rừng và rừng đã
giao cho Công ty TNHH Ngọc Thạch thì chính quyền không có quyền xử lý, can thiệp
và đưa ra các biện pháp kịp thời để bảo vệ rừng ? Đây là một câu hỏi lớn đặt ra
đối với chính quyền tỉnh ĐắK Nông trong chiến lược phát triển rừng ở Việt Nam hiện
nay. Cơ chế phối hợp khi phát hiện ra sự lãng phí và thờ ơ của các cơ quan kiểm
lâm và dân quân tự vệ không được tổ chức tiến thành theo đúng quy định của pháp
luật nên tình trạng trên vẫn có thể tiếp tục xảy ra trong số diện tích rừng còn
lại thuộc quản lý của Công ty TNHH Ngọc Thạch.
Mặt khác, những chế tài xử lý, trách nhiệm xử lý theo quy định tại Nghị
định 159/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30/10/2007 về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ rừng và quản lý lâm sản thì việc xử lý cá
nhân, tổ chức vi phạm đến rừng nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự
còn ở mức quá nhẹ. Chẳng hạn, mức cao nhất của hành vi phá rừng mới chỉ ở khoảng
từ 1 triệu đồng đến 3 triệu đồng; hoặc đối với tổ chức tính 1000 đồng/1m2 rừng.
Như vậy, biện pháp chính mà Nhà nước đưa ra không đủ sức để răn đe các hành vi
vi phạm hành chính trong lâm nghiệp. Điều này đồng thời cũng khẳng định rằng, tại
sao Công ty TNHH Ngọc Thạch sau khi nhận số diện tích rừng và đất trống trên lại
chỉ thuê một vài người dân trông nom ? hay đằng sau những vụ phá rừng này là hành
vi của “lâm tặc” hay của chính “Công ty” ?
Sự mờ ám này là lý do lý giải tại sao Công ty cũng không có mặt hoặc chí ít có
động thái tích cực trong ngăn chặn nạn phá rừng do Công ty quản lý. Rõ ràng,
mục đích để hoang hoá và bị phá rừng của Công ty là có chủ đích trong việc lợi
dụng chính sách, kẽ hở của pháp luật để trục lợi.
Hai là, phẩm chất năng lực của đội
ngũ cán bộ, công chức còn chưa “xứng tầm” với nhiệm vụ được giao. Tình huống trên
là hàng loạt các sự kiện phá rừng nối tiếp nhau; cách hành xử của cán bộ, công
chức có chức năng của các cơ quan thuộc tỉnh đã phản ánh phần nào về phẩm chất đạo
đức và năng lực chuyên môn. Mặc dù tình huống không nêu lên cụ thể nhưng qua những
biểu hiện đó cho thấy khả năng về sự liên quan của cán bộ, công chức có thẩm
quyền với Công ty TNHH Ngọc Thạch trong việc để xảy ra hiện tượng “rừng ngày một
mất dần” là có căn cứ. Thực tế cho thấy nhiều trường hợp, hợp thức hoá lâm sản
bất hợp pháp thành lam sản hợp pháp mà các kênh thông tin, báo chí nêu lên
trong những năm qua là những thủ đoạn, mánh khoé của những đầu nậu nhận được sự
“che chở”, “bảo kê”,… của một số cán bộ, công chức có chức có quyền. Mặt khác,
tình trạng năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức có chuyên môn cao về quản lý
và lâm nghiệp trong các tỉnh có diện tích rừng lớn như Đắk Nông còn hạn chế nên
cũng là những nguyên nhân tạo ra những “kẽ hở”, “thao túng”,… trong quản lý và
bảo vệ rừng.
Bên cạnh các nguyên nhân chủ quan trên, cũng cần phải
kể đến các nguyên nhân khác như: nhận thức về lâm nghiệp của cán bộ, công chức;
chính sách xã hội hoá về lâm nghiệp chưa được phát huy; đầu tư cho khoa học
công nghệ phục vụ công tác theo dõi, quản lý và bảo vệ rừng chưa được quan tâm;…
3. Phân tích
hậu quả của tình huống
Tình huống trên cho thấy một thực trạng
thường thấy trong công tác quản lý nhà nước; giao rừng cho tổ chức, cá nhân thực
hiện các dự án phát triển theo quy hoạch của Nhà nước,… đã để xảy ra những hậu
quả lớn cho địa phương, xã hội và Nhà nước. Hàng loạt các sự kiện mà tình huống
nêu, từ kiểm tra, thanh tra của cơ quan chức năng, kiểm lâm của tỉnh, huyện đến
thực tiễn khi thâm nhập khu vực do Công ty trách nhiệm hữu hạn Ngọc Thạch quản
lý là những cánh rừng đang ngày ngày bị biến mất: Theo quyết định giao đất của Uỷ ban nhân dân
tỉnh Đắk Nông tháng 2/2007 đến tháng 2/2009 đã có tới 90 ha/416,2 ha rừng tự
nhiên bị “lâm tặc” xoá sổ. Phải chăng, năng lực của Công ty TNHH Ngọc Thạch không
đủ khả năng để nhận quản lý và phát triển theo đề án kinh doanh hay sự tắc trách
của chính quyền tỉnh khi xem xét và ban hành quyết định lựa chọn không đúng
doanh nghiệp;… dẫn đến tình trạng, Công ty THHN Ngọc Thạch không có biện pháp bảo
vệ; quản lý;… chính quyền thì “đứng im” bỏ mặc cho người dân và lâm tặc ngang
nhiên phá… Điều này được chứng minh thông qua các sự kiện như: Theo báo cáo số
44/BC-KL của Chi cục Kiểm lâm tỉnh Đắk Nông ngày 20/1/2009 phát hiện số rừng bị
phá là 88,29 ha, tiếp đó ngày 23/2/2009 Hạt Kiểm lâm huyện Tuy Đức tiếp tục phát
hiện gần 1,5 ha rừng đã bị phá,…?
Những
hiện tượng trên cho thấy hậu quả của việc đánh giá năng lực và trách nhiệm của
doanh nghiệp khi nhận dự án và khả năng bảo vệ, quản lý của doanh nghiệp với diện
tích được giao đã làm thiệt hại khoảng 21,64% số rừng tự nhiên bị mất chỉ trong
2 năm; đồng thời số diện tích 35,7 ha đất rừng trống giao cho Công ty TNHH Ngọc
Thạch trồng cây cao xu, gió bầu, keo,… thì không sử dụng đúng mục đích, chỉ có
khoảng 10 ha đã được trồng cây cao xu;… đã tạo ra những hậu quả:
Một là, hậu quả trực tiếp tác động đến chính
quyền địa phương. Hậu quả mà chính quyền địa phương phải gánh chịu là diện
tích rừng tự nhiên, đất trống nằm trong quy hoạch phát triển kinh tế-xã hội tỉnh
Đắk Nông không đạt được kết quả theo mục đích đã đề ra. Nếu, việc giao dự án phát triển rừng tự nhiên, đất
trống cho doanh nghiệp có khả năng thì hiệu quả to lớn mà nó đem lại trước hết
là sự phát triển kinh tế-xã hội chung của tỉnh, nguồn nhân lực của đồng bào dân
tộc, thiểu số được sử dụng tạo công ăn việc làm cho những hộ gia đình sống xung
quanh khu vực của dự án; môi trường trật tự, an toàn xã hội được đảm bảo;… Ngược
lại, khi giao đất không xác định được năng lực của doanh nghiệp đã gây ra tình
trạng phá rừng gây thiệt hại lớn về tài sản rừng của Nhà nước; lãng phí nguồn tài
nguyên thiên nhiên, nguồn nhân lực; mất ổn
định trật tự xã hội;…. Điều đáng quan tâm hơn là đã tạo ra hệ luỵ mang tính
chất duy truyền trong việc “buông lỏng
quản lý” của các cấp chính quyền trong tỉnh và đội ngũ cán bộ, công chức
chỉ biết lo vun vén cho lợi ích cá nhân, gia đình mà không để ý đến lợi ích tập
thể, địa phương và của Nhà nước.
Hai là hậu quả tác động đến nhân dân, xã hội
và chính sách quy hoạch phát triển rừng của Chính phủ. Mục đích xây dựng và
phát triển rừng của Việt Nam không chỉ nhằm xây dựng, bảo tồn và phát triển hệ
sinh thái, môi trường bền vững mà còn là một trong những quốc gia có hệ sinh
vật, thực vật, … đa dạng và phong phú được thế giới công nhận và quan tâm. Bởi
lẽ, sự tác động của nạn phá rừng, diện tích rừng tự nhiên bị giảm, các loài
sinh vật, thực vật quý hiếm bị tiệt chủng là mối đe doạ đến môi trường, đời sống
không chỉ của nhân dân Việt Nam mà còn cả các nước khác trong khu vực và trên
thế giới. Chẳng hạn như: tình trạng khí hậu trái đất nóng lên; hiện tượng băng
tan; lũ lụt, hạn hán;… đều xuất phát từ hậu quả do con người không những không bảo vệ mà còn tàn phá
rừng.
Những
hậu quả trên cho ta thấy mối quan hệ biện chứng giữa phát triển bền vững rừng và
tỷ lệ tăng trưởng kinh tế-xã hội của một địa phương; một quốc gia và cả cộng đồng
quốc tế. Tính chất biện chứng này, không phải bây giờ các nhà khoa học, các nhà
môi trường hay các quốc gia mới lên tiếng cảnh báo mà chính những hậu quả mà
con người phải gánh chịu trong những năm qua về sự biến đổi khí hậu, thiên nhiên
là những minh chứng sinh động nhất.
PHẦN 3: ĐỀ XUẤT PHƯƠNG ÁN VÀ GIẢI PHÁP
A.
XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN
Để giải quyết tình trạng trên có thể có nhiều cách xử lý và
lựa chọn khác nhau tuỳ thuộc vào từng góc độ tiếp cận. Trên cơ sở lý luận về quản
lý nhà nước và thực tiễn kinh nghiệm công tác của bản thân trong lĩnh vực lâm
nghiệp, tiểu luận mạnh dạn đề xuất các phương án giải quyết như sau:
1.
Phương án 1 tiến hành xác định mức độ thiệt hại về rừng và mức độ hiệu quả trồng
rừng theo đề án và quyết định giao rừng và đất trồng rừng cho Công ty TNHH Ngọc
Thạch để tiến hành xử lý vi phạm hành chính hoặc truy cứu trách nhiệm hình sự
theo quy định của pháp luật;
2.
Phương án 2: Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết định yêu cầu Công ty TNHH Ngọc Thạch
phải có biện pháp hữu hiện để quản lý và bảo vệ rừng;
3.
Phương án 3: Uỷ ban nhân dân tỉnh ĐắK Nông ra quyết định đình chỉ và thu hồi diện
tích rừng và đất trồng rừng đã giao cho Công ty TNHH Ngọc Thạch.
B. ĐÁNH GIÁ, LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN
I. Đánh giá
phương án
Các phương án nêu trên đều có những ưu điểm và hạn chế nhất
định trong điều kiện phát triển kinh tế-xã hội và chính sách xã hội hoá lâm
nghiệp; chiến lược phát triển và bảo vệ rừng ở Việt Nam nói chung và ở tỉnh Đắk Nông nói
riêng. Về cơ bản có thể thấy những ưu và nhược điểm của mỗi phương án như sau:
1. Đối với phương án 1:
-
Ưu điểm: Kịp thời chấn chỉnh hành vi
vi phạm của Công ty TNHH Ngọc Thạch đối với diện tích rừng và đất trồng rừng được
giao theo đúng quy định về xử phạt vi phạm hành chính hiện hành. Đồng thời, giữ
nghiêm được nền nếp, kỷ cương pháp chế trong hoạt động quản lý, khai thác và bảo
vệ rừng ở các Nông trường quốc doanh; các tổ chức; cá nhân nhận trồng rừng trên
địa bàn tỉnh Đắk Nông nói chung. Điều này cho thấy những động thái tích cực của
cơ quan quản lý nhà nước ở tỉnh trong việc kiên quyết xử lý các hành vi vi phạm
lâm luật và các quy định về quản lý và bảo vệ rừng.
-
Hạn chế: Hạn chế lớn nhất của phương án
này là các chế tài hiện hành còn quá nhẹ; khả năng thanh tra, kiểm tra và xác định
mức độ thiệt hại của cán bộ, công chức, nhất là cán bộ kiểm lâm còn hạn chế nên
khó tổ chức lực ; lượng và
tiến hành thực hiện xử lý. Mặt khác, sự công tâm và quyết tâm của cán bộ, công
chức chính quyền tỉnh cũng là những trở ngại lớn trong việc thực hiện phương án
này. Thông thường, sự ngại va chạm của cán bộ, công chức đối với “lâm tặc” mà tình
huống trên nêu lên là điều dễ hiểu vì sự táo tợn; hung dữ và được sự hậu thuẫn
của nhiều người trong đó có cả những cán bộ, công chức và người dân địa phương;…
nên hiệu quả của việc xử lý vi phạm quả tang theo quy định hiện hành là rất khó.
2. Phương
án 2:
- Ưu điểm: Phương
án này có các ưu điểm như: phù hợp với chủ trương xã hội hoá lâm nghiệp trên địa
bàn về chính sách ưu đãi đối với các cá nhân, tổ chức nhận đất trồng rừng; tuân
thủ các thủ tục hành chính về quản lý và bảo vệ rừng;…
-
Hạn chế: Phương án này có nhiều hạn
chế đối với trường hợp của Công ty TNHH Ngọc Thạch, bởi vì đã nhiều lần các cơ
quan chức năng như Chi cục kiểm lâm tỉnh Đắk Nông; Hạt kiểm lâm huyện Tuy Đức yêu
có biên bản vi phạm và yêu cầu Công ty có biện pháp quản lý nhưng thực tế tình
trạng phá rừng, khai thác lâm sản trái phép vẫn không giảm và có chiều hướng tăng.
Như vậy, nếu thực hiện phương án này thì sẽ mất nhiều thời gian để Công ty nghiên
cứu, khảo sát và xây dựng biện pháp bảo vệ, quản lý hoặc các lý do mà Công ty có
thể đưa ra lúc này là nguồn lực (bao gồm nhân lực và vật lực) để bao biện cho tình
trạng khó kiểm soát và kiểm soát hiệu quả số rừng tự nhiên còn lại.
3.Phương án 3: Là phương án cũng có những
ưu và khuyết điểm sau:
-
Ưu điểm: Đây là phương án có khả năng
khắc phục được các nhược điểm của hai phương
án trên như: thiếu chế tài nghiêm để xử lý; tránh tình trạng “vòng vo” của Công
ty TNHH Ngọc Thạch. Đặc biệt, phương án này hạn chế tối đa sự phá hoại và hoang
hoá số diện tích rừng tự nhiên và diện tích đất trồng rừng hiện đang cần được
bảo vệ và quản lý; đảm bảo được mục đích phát triển và quản lý rừng mà nhà nước
và chính quyền địa phương đặt ra;…
-
Hạn chế: Để thực hiện tốt phương án này
đòi hỏi cán bộ, công chức, nhất là người có thẩm quyền phải có thái độ “dứt khoát”,
“thẳng thắn” và “mạnh dạn” quyết định. Nếu không thì những yếu tố chủ quan này
lại trở thành trở ngại cho việc thực hiện phương án 3.
II.
Lựa chọn phương án
Như vậy, mỗi phương án đều có tính khả
thi trong những điều kiện khách quan, chủ quan nhất định và trong từng trường hợp
cụ thể. Có thể việc thực hiện phương án này cần phải kết hợp với phương án khác
thì mới tạo ra hiệu quả cao trong công tác đấu tranh, quản lý và bảo vệ rừng.
Song, trong điều kiện giới hạn của một bài tiểu luận và hoàn cảnh thực tế mà tình
huống trên nêu lên, tiểu luận lựa chọn phương án 3 làm phương án tối ưu để giải
quyết triệt để tình huống xảy ra ở tỉnh Đắk Nông. Bởi lẽ, phương án 3 là phương
án có nhiều ưu điểm thích hợp để chính quyền địa phương thực hiện chức năng,
nhiệm vụ của mình trong quy hoạch, chính sách và chiến lược phát triển bền vững
diện tích rừng trên địa bàn tỉnh. Mặt khác, việc làm của chính quyền là cơ sở vừa
có tính pháp lý (hợp pháp) vừa được đảm bảo bằng mệnh lệnh “hành chính” nên khả
năng tổ chức cưỡng chế, xử lý và thu hồi nhanh. Đồng thời, việc rút ra bài học
trong việc thực hiện chính sách xã hội hoá khi giao đất, rừng cho các cá nhân,
tổ chức ở đối với diện tích rừng trên địa bàn tỉnh sẽ có cơ sở để thực hiện tốt-tức
giao cho những cá nhân, tổ chức có đủ năng lực tài chính, nhân lực,… và có trách
nhiệm đối với chính quyền và nhân dân địa phương.
PHẦN 4: KẾ HOẠCH THỰC HIỆN PHƯƠNG ÁN LỰA CHỌN
Để thực hiện phương án tối ưu (phương án
3) có hiệu quả cần có sự phối hợp và tiến hành các hoạt động cụ thể của nhiều cơ
quan có liên quan. Đồng thời, tuân thủ triệt để các nguyên tắc khoa học và các
yêu cầu đặt ra đối với quy trình, thủ tục hành chính trong hoạt động quản lý nhà
nước về lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh Đắk Nông. Các bước tiến hành cụ thể cần xác
định:
Bước 1:
Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông cần họp thường trực Uỷ ban và Chủ tịch Uỷ ban nhân
dân tiến hành ban hành Quyết định yêu cầu Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
tiến hành xây dựng kế hoạch, dự kiến lực lượng chuyên ngành, phối hợp tiến hành
thanh tra, kiểm tra đánh giá mức độ vi phạm của Công ty TNHH Ngọc Thạch đối với
diện tích rừng và đất trồng rừng được giao. Hoặc cũng có thể ban hành Chỉ thị
giao cho Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn chủ trì, tổ chức tiến hành và
thực hiện theo yêu cầu.
Căn
cứ vào Quyết định này (hoặc Chỉ thị), Giám đốc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn tiến hành ra Quyết định thành lập đoàn thanh tra do Chi cục kiểm lâm chủ
trì, trong đó xác định sự tham gia của Hạt kiểm lâm các huyện; lực lượng dân quân
tự vệ và cơ quan công an; các chuyên viên có chuyên môn được trưng tập; xác định
ngày, giờ tiến hành thanh tra; địa điểm thanh tra; vật chất bảo đảm cho thanh
tra nhằm đánh giá mức độ thực trạng diện tích rừng từ khi bàn giao cho Công ty
TNHH Ngọc Thạch cho đến nay.
Tiến
hành thanh tra đánh giá mức độ, khi thanh tra cần xác minh, đánh giá thực trạng
theo tiêu chí so sánh trước khi bàn giao và sau khi bàn giao; tỷ lệ phần trăm đất
rừng tự nhiên bị mất; mức độ đất hoang hoá;… có sự chứng kiến và xác nhận của
chính quyền địa phương cơ sở và Hạt kiểm lâm huyện và đại diện Công ty TNHH Ngọc
Thạch. Biên bản thanh tra thể hiện đầy đủ các chứng cứ (kể cả ảnh chụp),
ý kiến đánh giá mức độ của các
chuyên gia được trưng tập; ý kiến của chính quyền cơ sở làm cơ sở cho việc đề
xuất mức độ xử lý.
Trên
cơ sở biên bản thanh tra Giám đốc Sở Nông nghiệp căn cứ vào các điều kiện thực
tế ra quyết định xử phạt vi phạm hành chính thành quy định hiện hiện và làm Tờ
trình báo cáo với Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắc Nông. Đối với quyết định xử
phạt vi phạm hành chính, Giám đốc Sở Nông nghiệp yêu cầu Ban quản trị Công ty
(Giám đốc Công ty) lên để giải quyết theo Quyết định xử phạt hành chính nếu 3 lần
triệu tập không có mặt, Giám đốc Sở ban hành Quyết định cưỡng chế xử phạt vi phạm
hành chính theo phương thức trừ tiền tại tài khoản của Công ty ở Ngân hàng Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh.
Bước 2: Chủ
tịch Uỷ ban căn cứ vào các kết luận của biên bản thanh tra có thể tiến hành các
thủ tục sau:
Một là, tiến hành mời Ban quản trị (Giám
đốc) Công ty TNHH Ngọc Thạch đến Uỷ ban nhân dân để làm việc về khả năng và năng
lực nhận đầu tư theo quy hoạch và kế hoạch trước đây mà Công ty trình Uỷ ban nhân
dân. Trên cơ sở đưa ra những chứng cứ chứng minh khả năng của Công ty TNHH Ngọc
Thạch đối với dự án quản lý và bảo vệ rừng tự nhiên, quỹ đất trồng rừng. Nếu đại
diện hợp pháp của Công ty không có mặt, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh có quyền
ra Công văn thông báo đánh giá mức độ vi phạm, và khả năng của Công ty.
Hai là, sau thời hạn 30 ngày nếu Công ty
không giải trình về phương án, giải pháp của mình bằng văn bản cho Uỷ ban nhân
dân thì Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh ra Quyết định đình chỉ việc quản lý, sử dụng,
khai thác, quản lý và bảo vệ rừng đối với số diện tích mà Uỷ ban nhân dân đã
giao theo Quyết định số 1007/QĐ-CTUBND ngày 15/8/2006 và Quyết định số 1097/QĐ-CTUBND
ngày 30/8/2007 và ban hành Quyết định thu hồi số diện tích rừng và đất trồng rừng
đã giao cho Công ty quản lý và sử dụng.
Như
vậy, số diện tích rừng sẽ được thu hồi. Song vấn đề đặt ra với Uỷ ban nhân dân
tỉnh là phải đảm bảo để các diện tích đó được quản lý và bảo vệ tránh tình trạng
phá rừng tiếp tục xảy ra. Để đáp ứng yêu cầu này, căn cứ vào các Nông trường lầm
nghiệp và Công ty một thành viên theo đề án mà Chính phủ đã có quyết định phê
duyệt để Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh ra quyết định giao quản lý và bảo vệ hoặc
tiến hành đấu thầu để lựa chọn chủ đầu tư có năng lực theo quy định của pháp luật.
PHẦN 5: KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ
1. Kết luận
Lâm nghiệp là một ngành kinh tế-kỹ thuật
đặc thù bao gồm tất cả các hoạt động gắn liền với hoạt động sản xuất hàng hoá và
dịch vụ từ rừng như: các hoạt động bảo vệ, gây trồng, khai thác, vận chuyển, sản
xuất, chế biến lâm sản và các dịch vụ môi trường có liên quan đến rừng; đồng thời
ngành lâm nghiệp có vai trò rất quan trọng trong việc bảo vệ môi trường, bảo tồn
đa dạng sinh học, xoá đói, giảm nghèo, đặc biệt cho người dân miền núi góp phần
ổn định xã hội và an ninh quốc phòng. Do vậy, tăng cường hiệu lực, hiệu quả quản
lý nhà nước trong lĩnh vực lâm nghiệp là một nhu cầu tất yếu khách quan, một mặt
vừa nhằm đảm bảo ổn định hoạt động của ngành lâm nghiệp trên địa bàn tỉnh, mặt
khác tạo ra động lực cho việc phát triển các thế mạnh của chính quyền địa phương,
người dân địa phương tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước đối với sự phát
triển các hoạt động, dịch vụ từ lâm nghiệp.
2. Kiến nghị
Qua
phân tích đánh giá tình huống quản lý nhà nước về giao đất rừng và quản lý rừng
theo chủ trương xã hội hoá chính sách phát triển rừng nhằm xoá đói giảm nghèo ở
tỉnh Đắk Nông, bản thân tôi nhận thấy còn nhiều vấn đề bất cập từ thể chế pháp
luật, chính sách và năng lực quản lý hiện hành ở các chính quyền địa phương nói
chung, trong đó có tỉnh Đắk Nông nói riêng. Để thực sự phát huy hiệu quả của hoạt
động quản lý, tạo môi trường pháp lý ổn định và trở thành động lực để giúp các
cá nhân, tổ chức thực hiện tốt các chương trình, dự án được giao, tiểu luận xin
kiến nghị một số vấn đề như sau:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền
phổ biến pháp luật và chương trình khoa học kỹ thuật lâm nghiệp trên địa bàn
địa phương, nhất là các vùng dân tộc thiểu số. Việc phổ biến chính sách, chủ trương
và pháp luật của Nhà nước về quản lý, bảo vệ, khai thác và phát triển rừng là kênh
cung cấp thông tin hiệu quả giúp cá nhân, tổ chức có nhận thức đúng đắn, đầy đủ
về chủ trương, đường lối và ý nghĩa tầm quan trọng của việc bảo vệ và phát triển
tài nguyên rừng nói chung và của địa phương nói riêng. Đồng thời, tổ chức triển
khai tập huấn, hỗ trợ khoa học kỹ thuật giúp các gia đình có kinh nghiệm trong
việc gây trồng, chăm sóc và bảo vệ những diện tích đất và rừng được chính quyền
giao cho quản lý, sử dụng và khai thác. Tuy nhiên, việc tổ chức tuyên truyền phải
tiến hành thường xuyên, thông qua nhiều kênh khác nhau như phát thanh, truyền hình
tỉnh kết hợp với các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể; ấp, bản;… Nhằm làm
chuyển biến về nhận thức của người dân đối với công tác quản lý, bảo vệ rừng, tài
nguyên, môi trường sinh thái.
Hai là, kiên quyết xử lý các hành vi vi
phạm quy định về lâm nghiệp trên địa bàn. Việc “buông lỏng quản lý”, xử lý thiếu
kiên quyết là nguyên nhân làm nảy sinh các hành vi vi phạm có tính dây chuyền.
Do vậy, sự kiên quyết của chính quyền địa phương là biện pháp hữu hiệu để giáo
dục, dăn đe những hành vi vi phạm và tư tưởng vi phạm của lâm tặc trên địa bàn.
Ba là, đẩy mạnh công tác phối hợp lực lượng
giữa lực lượng kiểm lâm và lực lượng dân quân tự vệ trong công tác bảo vệ rừng.
Phối hợp lực lượng đòi hỏi phải được tiến
hành, tổ chức thực hiện theo Quyết định số 39/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 09/03/2009 về việc ban hành quy chế phối hợp giữa lực lượng kiểm lâm
và lực lượng dân quân tự vệ trong công tác bảo vệ rừng nhằm đảm bảo thường
xuyên bám nắm, xử lý nhanh và hiệu quả các trường hợp vi phạm các quy định về
quản lý và bảo vệ rừng.
Với
những đề xuất trên, cùng với những phương án giải quyết chắc chắn tình trạng
“buông lỏng quản lý rừng” ở tỉnh Đắk Nông sẽ không còn là nguyên nhân nảy sinh
tình trạng phá rừng tràn lan và công khai, góp phần xây dựng địa phương tiến
nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá dựa trên thế mạnh địa lý tự nhiên
về tài nguyên thiên nhiên.
DANH
MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
|
Báo Nhân dân điện tử.
|
2.
|
Chỉ thị số 334/CT-TTg ngày 10/03/2009 về tăng cường
các biện pháp tổ chức thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng.
|
3.
|
Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ
ban nhân dân ngày 26/11/2003.
|
4.
|
Nghị quyết số 17-NQ/TW, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X , ngày 1/8/2007 về đẩy mạnh cải cách
hành chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước.
|
5.
|
Nghị định 159/2007/NĐ-CP của Chính phủ ngày
30/10/2007 về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý rừng, bảo vệ
rừng và quản lý lâm sản.
|
6.
|
Nghị định số 13/2008/NĐ-CP của Chính
phủ ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
|
7.
|
Nghị định số 5/2008/NĐ-CP ngày 14/1/2008 về quỹ bảo
vệ và phát triển rừng.
|
8.
|
Quyết định số 66/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng
Chính phủ ngày 15/7/2007 về việc phê duyệt đề án, sắp xếp đổi mới nông, lâm
trường quốc doanh thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh Đắk Nông.
|
9.
|
Quyết định số 144/2007/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 10/09/2007 về một số chính sách phát triển rừng sản xuất giai đoạn
2007-2015.
|
10.
|
Quyết định số 22/2008/QĐ-BNN của Bộ Nông nghiệp và
Phát triển nông thôn ngày 28/01/2008 về quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn và cơ cấu tổ chức của Cục kiểm lâm.
|
11.
|
Quyết định số 39/2009/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 09/03/2009 về việc ban hành quy chế phối hợp giữa lực lượng kiểm lâm
và lực lượng dân quân tự vệ trong công tác bảo vệ rừng.
|
[1] Nghị quyết số 17-NQ/TW, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X , ngày 1/8/2007 về đẩy mạnh cải cách hành
chính, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của bộ máy Nhà nước.
[2] Trích Điều 8 khoản 6 điểm b Nghị định số 13/2008/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 04/02/2008 quy định tổ chức các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ
ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.

If you're looking to lose fat then you absolutely need to start using this totally brand new custom keto diet.
ReplyDeleteTo create this service, certified nutritionists, fitness trainers, and cooks united to provide keto meal plans that are useful, painless, cost-efficient, and enjoyable.
Since their launch in early 2019, thousands of individuals have already transformed their body and health with the benefits a certified keto diet can offer.
Speaking of benefits: in this link, you'll discover 8 scientifically-certified ones offered by the keto diet.