TIN LIÊN QUAN
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 21
Một là, xây
dựng và hoàn thiện Quy chế làm việc của Viện; Quy chế quản lý công chức, viên
chức; Quy chế công vụ công chức, viên chức hiện tại phải phù hợp với các nội
dung của Luật cán bộ, công chức. Rà soát, tổ chức, sắp xếp và kiện toàn đội ngũ
công chức, viên chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn. Có kế hoạch thường xuyên
bồi dưỡng, nâng cao trình độ; kịp thời bổ
sung, thay thế những công chức, viên chức yếu kém và thoái hoá. Để làm được
điều này, cần phải tiến hành xác định và xây dựng Quy chế hoạt động công vụ
trong đó xác định giữa tiêu chuẩn và điều kiện theo từng chuyên môn, nhiệm vụ
nhất định để làm cơ sở đánh giá hiệu quả công việc cho công chức, viên chức
nghiên cứu ở Viện. Uỷ ban nhân dân Thành phố cần giao cho Viện kết hợp với Sở
Tư pháp Thành phố chịu trách nhiệm soạn thảo và xây dựng các quy chế cụ thể. Có
những Quy chế do Viện ban hành, có những Quy chế phải trình Uỷ ban nhân dân ra
Quyết định ban hành kèm theo Quy chế. Xây dựng quy chế công vụ phù hợp, chính
xác là cơ sở để thực hiện tốt chế độ, chính sách đãi ngộ đúng theo “năng lực”
của từng công chức, viên chức ở đơn vị sự nghiệp trong điều kiện hiện nay.
Hai là,
thực hiện đúng chính sách tiền lương: Đối với đội ngũ công chức,
viên chức trong Viện phải bảo đảm “đủ phẩm chất và năng lực gắn với chế độ
hưởng thụ thoả đáng và công bằng”. Qui định về bậc lương và xét nâng lương
thiếu cơ sở khoa học làm nản lòng nhiều công chức, viên chức tốt. Chế độ tiền
lương của nước ta đã được cải tiến nhưng so với yêu cầu cuộc sống thì chưa giải
quyết được căn bản đời sống của người cán bộ, công chức, viên chức trong khi
các doanh nghiệp ở khu vực ngoài nhà nước sẵn sàng trả lương
xứng đáng cho những người làm việc có hiệu quả. Nếu không quyết liệt cải cách
chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức thì tình trạng bỏ việc
ngày càng nhiều, nhất là đối với những người có năng lực. Cùng với quy chế công
vụ, việc xây dựng kế hoạch để trả lương và phụ cấp nghiên cứu “thoả đáng”.
Trong đó Uỷ ban nhân dân tiến hành giao giao cho Ban giám đốc Viện, Sở Tài
chính nghiên cứu xây dựng nguồn lực để chi trả cho các công trình, dự án mà các
cán bộ, viên chức tham gia như: xác định nguồn ngân sách Nhà nước; ngân sách
Thành phố và khả năng thu của Viện;… từ đó xây dựng các tiêu chuẩn, chế độ,
chính sách cho các cán bộ, viên chức tham gia nghiên cứu. Sau đó, trình lên Uỷ
ban nhân dân ra Quyết định để tổ chức thực hiện.
Một là, Viện nghiên cứu
cần tạo môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến: Ngoài
thu nhập, môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến cũng là điều rất quan trọng
đối với công chức, viên chức. Bất kỳ ai, dù làm cho cơ quan nào cũng đều cần
lương, phản ánh đúng năng lực của mỗi người. Song đối với những người có
năng lực, tâm huyết thì đồng lương không phải là tất cả. Với năng lực thật sự
của mình, họ hoàn toàn có những cách khác để kiếm tiền một cách minh bạch và
lương thiện, do vậy lương không phải là chuyện lớn. Sự thăng tiến của bản thân,
sự phát triển của cơ quan là một ước mơ cháy bỏng đối với người có tài năng và
tâm huyết.
>>Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 21
LỜI NÓI ĐẦU
Nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, đã và đang mở ra cho
chúng ta nhiều cơ hội phát triển kinh tế-xã hội ổn định và bền vững. Bên cạnh
những lợi thế mà nền kinh tế đem lại, những bất cập nảy sinh từ thể chế pháp
luật, chính sách phát triển, chiến lược, tổ chức bộ máy,… tiềm ẩn những nguy cơ
và thách thức lớn đối với sự phát triển chung của đất nước trong những năm tới.
Một trong các nguy cơ chủ yếu vẫn là nguồn nhân lực có chất lượng cao-với nguồn
nhân công dẻ và sự mất cân đối giữa lực lượng cán bộ, công chức trong khu vực
công với khu vực ngoài nhà nước.
Từ
khi chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế theo cơ
chế thị trường, nền kinh tế thị trường, cơ chế tổ chức và hoạt động của bộ máy
quản lý nhà nước tỏ ra kém hiệu quả; chính sách chậm thay đổi hoặc thay đổi chỉ
mang tính hiện tượng mà chưa giải quyết được căn bản của vấn đề;… Chẳng hạn
như, năng lực, phẩm chất đạo đức của đội ngũ cán bộ, công chức không đáp ứng
được nhu cầu quản lý trong tính năng động của nền kinh tế; những cán bộ, công
chức có kinh nghiệm, kỹ năng và trình độ không mặn mà với công việc chuyên môn
hoặc hoạt động vụ được giao nên dẫn đến tình
trạng có xu hướng chuyển ra khu vực ngoài nhà nước để làm việc hay làm việc
theo kiểu “chân trong, chân ngoài”;… Nhiều cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp,…
có nguy cơ không đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao, thậm chí phải “giải
thể”. Thực tế này cho thấy, thực trạng quy hoạch sử dụng cán bộ, công chức còn
nhiều hạn chế; quản lý nhà nước có phần “buông lỏng”; chính sách đãi ngộ còn
chưa tạo ra động lực để thu hút và giữ các cán bộ, công chức chủ lực,…tiếp tục
phục vụ trong các cơ quan, đơn vị sự nghiệp của Nhà nước.
Đứng
trước các yêu cầu trên, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chính sách, quy
định để quản lý, sử dụng, bố trí và đào tạo hợp lý nguồn nhân lực có chất lượng
cao đáp ứng các yêu cầu đòi hỏi trong tình hình mới, cùng với những kiến thức
quản lý nhà nước được trang bị ở Nhà trường tiểu luận lựa chọn vấn đề “Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với
nguồn nhân lực ở Viện nghiên cứu kinh tế-xã hội thuộc Ủy ban nhân dân Thành phố
Hồ Chí Minh” làm nội dung cơ bản để viết tiểu luận cuối khóa.
PHẦN
THỨ NHẤT: NỘI DUNG TÌNH HUỐNG
Hiện nay, tại các thành phố lớn,
tình trạng cán bộ, công chức, viên chức làm việc tại các cơ quan Nhà nước, đặc
biệt là ở các viện nghiên cứu,… đi làm thêm bên ngoài diễn ra phổ biến. Điều
đáng nói ở đây là công việc làm thêm nhưng thu nhập chính lại từ các nguồn làm thêm,
nên họ thường hay thoái thác công việc được giao, bỏ nhiệm sở, thậm chí bỏ hẳn
công việc. Chế độ, chích sách của Nhà nước đối với cán bộ, công chức,
viên chức trong các cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp là một lĩnh vực rộng,
phức tạp có nhiều nội dung nghiên cứu. Song, với tính đặc thù của đơn vị sự
nghiệp thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương về quản lý,
sử dụng và bố trí cán bộ, công chức, viên chức, tiểu luận xác định phạm vi
nghiên cứu “Tình trạng chảy máu chất xám ở Viện nghiên cứu Kinh tế-xã hội
thuộc Uỷ ban nhân dân thành phố Hồ Chí Minh” thông qua tình huống được xác
định trong Báo cáo tổng kết Viện Nghiên cứu kinh tế-xã hội Thành phố Hồ Chí
Minh với các nội dung cơ bản như sau:
“ Trong một năm (năm 2008), 3 Phó giám
đốc Sở xin từ nhiệm. Cũng trong năm 2008, Viện kinh tế Thành phố có 20 cán bộ
xin nghỉ việc”. Những người được coi là năng động là những người làm việc theo
kiểu “chân trong, chân ngoài”. Chị M, có thâm niên nghiên cứu hàng chục năm tại
Viện cho biết: “Ngoài lương cơ bản, mỗi tháng chỉ thu nhập thêm 300-400 ngàn
đồng từ việc làm đề tài. Với tổng thu hòm hòm gần 2 triệu đồng mỗi tháng cũng
chỉ đủ trả tiền thuê nhà và ăn uống tùng tiệm trong tình trạng lạm phát hiện
nay, chị M không hề có tích luỹ và cũng chẳng biết sống thế nào trong thời gian
tới”. “Chất xám rẻ như bèo”, đó là khẳng định của một vị giáo sư ở Viện khi nói
về công trình nghiên cứu khoa học dày hơn 300 trang của mình. Thành quả hơn 15
năm nghiên cứu, lao động miệt mài của ông được trả nhuận bút chỉ 1,4 triệu
đồng. Nghĩa là chưa đến 5.000 đồng cho mỗi trang sách
- trang đời của một nhà khoa học. Đó cũng là lý do chính khiến nhiều nhà nghiên
cứu không mặn mà với nghiên cứu khoa học, hoặc có nghiên cứu khoa học nhưng
cũng chỉ là hình thức….”.
Từ tình huống trên cho thấy, tình trạng
“ra đi”, “chân trong, chân ngoài” hay “không mặn mà với việc nghiên cứu”,… ở
Viện nghiên cứu thành phố nói riêng và cán bộ, công chức nói chung là điều dễ
hiểu. Ở Viện nghiên cứu kinh tế
hiện nay, chủ yếu vẫn là các cán bộ nghiên cứu, bao gồm cả lực lượng chính
trong ngạch nghiên cứu viên, lẫn một số ít ngạch kỹ sư hoặc chuyên viên; ngoài
Viện thì vẫn có một số giáo sư, phó giáo sư tiến sĩ thường xuyên gắn bó với tư
cách cộng tác viên. Một hệ thống nhân sự như vậy là phù hợp và luôn luôn thích
ứng được mọi yêu cầu trong nghiên cứu khoa học, chuyên sâu lẫn “phản ứng nhanh”
phục vụ cho lãnh đạo Thành uỷ và Uỷ ban nhân dân thành phố, đôi khi cả cho
Chính phủ. Tuy nhiên, chỉ trong đội ngũ của Viện- lực lượng nòng cốt chủ lực, đã
nảy sinh một thực tế: Trong các năm gần đây, Viện đã phải hoàn trả lại ngân
sách tối thiểu 20% phân kinh phí nghiên cứu khoa học (trong tổng số bình quân
2,4 tỷ/năm); Cũng thời gian qua, một số cán bộ nghiên cứu, đã được đào tạo khá
cao khá bài bản, và cũng có nhiều năng lực trong nghiên cứu lẫn quan hệ hợp
tác, đã lần lượt xin nghỉ hoặc chuyển công tác, vì lý do này hay lý do khác.
Lý
giải hiện tượng trên, có nhiều quan điểm, ý kiến tiếp cận trên nhiều phương
diện khác nhau. Song, về cơ bản đều có chung một mục đích nhằm trả lời thoả
đáng câu hỏi “vì sao lại có sự ra đi của công chức, viên chức” hay “vì sao công
chức, viên chức của Viện lại vừa làm việc trong vừa làm việc ngoài” ?;... để từ
đó xây dựng các giải pháp thích hợp. Dưới góc độ quản lý nhà nước, có thể đánh
giá theo nhóm các nguyên nhân khách quan và chủ quan như sau:
Thứ nhất, kinh tế thị trường phát triển tạo ra sự bất
bình đẳng giữa khu vực công và tư về chế độ, chính sách, điều kiện và môi trường
làm việc.
Một là, chế độ chính sách,
đãi ngộ công chức, viên chức làm việc ở Viện nghiên
cứu so với khu vực tư nhân là quá thấp. Mức thu nhập từ lương của cán bộ, viên chức chưa đảm
bảo đời sống của bản thân và gia đình. Việc trả lương còn nặng về chủ nghĩa
bình quân “sống lâu lên lão làng”, không phản ánh đúng năng lực của mỗi cán bộ,
nhất là chưa tương xứng với năng lực và kết quả làm việc của những người tài.
Tình huống trên cho thấy, chị M chỉ nhận được vẻn vẹn chưa đầy 2 triệu
đồng/tháng (tiền lương và thu nhập thêm từ các công trình nghiên cứu của Viện).
Trong khi đó, ở các đơn vị kinh tế tư nhân, nhất là các công ty chứng khoán có
thể chi trả cho một cán bộ nghiên cứu kinh tế lên đến 20.000.000 đồng/tháng
(gấp 10 lần so với đơn vị sự nghiệp). Song, dưới góc độ nhà nước, cụ thể là
chính quyền Thành phố Hồ Chí Minh, với nguồn ngân sách được phân cấp hiện hành
cũng chỉ đủ để chi trả những phần cơ bản mang tính chất lương còn các phụ cấp
khác cũng rất khó khăn. Nếu để tăng thêm 100 nghìn đồng/người sẽ là bài toán
khó đối với Thành phố, bởi lẽ trên thực tế thì số tiền hàng ngàn tỷ đồng tăng
thêm/năm sẽ là gánh nặng “khó có thể kham nổi” đối với ngân sách nhà nước, ngân
sách thành phố.
Mặc dù
chế độ tiền lương của nước ta đã được cải tiến, mức lương tối thiểu đã được
nâng lên nhiều lần. Song có thể nói, cho đến nay, không một ai trong tổng số
khoảng 70 người hưởng lương và thu nhập chính từ ngân sách Nhà nước ở Viện
nghiên cứu kinh tế chỉ sống bằng lương chính nhận từ cơ quan hàng tháng. Hơn
nữa, tính cào bằng trong chế độ lương còn chưa khuyến khích công chức, viên
chức lao động nghiêm túc, có hiệu quả, nâng cao trình độ bản thân. Hiện mức
lương của 1 vị Tiến sĩ, Trưởng Phòng nghiên cứu khoa học, với thâm niên 25 năm
công tác trung bình vào khoảng 2,5 triệu đồng, tức cũng chỉ gấp đôi mức lương
tập sự của 1 đồng nghiệp, bằng 1,5 lần lương của 1 “ôsin” dù mới tốt nghiệp phổ
thông, thậm chí chỉ bằng ½ mức lương khởi điểm của 1 sinh viên tin học tại 1 Công
ty Tin học cỡ trung bình trong khu vực tư nhân ở Thành phố Hồ Chí Minh... Một
chuyên gia thực sự trong khu vực kinh tế - tài chính của Viện có thể được Cty
tư nhân mời chào với mức “lương cứng” gấp từ 5-10 lần mức lương trung bình mà
Nhà nước trả cho họ trong cùng thời điểm so sánh. Rất có lý khi 1 lãnh đạo Sở
của TP.Hồ Chí Minh cho rằng: “Về nguyên tắc, chúng tôi phải tôn trọng nguyện
vọng cá nhân. Không thể cố giữ chân họ. Anh em ở lại mà không yên tâm làm việc
thì cũng chẳng hiệu quả, thậm chí còn làm mất cơ hội tốt hơn của anh em!”.
Chính
vì lương cho các nhà khoa học quá thấp, nên họ không thể toàn tâm toàn ý cho
công việc nghiên cứu, mà phải lo chạy kinh tế. Việc này dẫn đến hậu quả là các sản phẩm nghiên cứu cũng
chỉ ở mức tạm được, chưa thực sự có tính đột phá và phát huy hiệu quả, nhiều
sản phẩm nghiên cứu làm ra phải để trong ngăn kéo. Chị M cho biết, tại Đức, các
nhà nghiên cứu không phải lo kiếm sống. Họ chỉ phải chú tâm vào công việc của
mình thôi. Đó là vì công việc của họ được đánh giá cao, phân cấp rất rõ ràng.
"Mỗi bậc khác nhau là có mức lương cũng như trách nhiệm khác hẳn nhau,
không đánh đồng như ở ta. Chẳng hạn cán bộ đại học có lương chỉ bằng 1/2 so với
một tiến sĩ nghiên cứu cơ bản". Chính vì chuyên môn hóa như vậy, nên
theo chị M "công tác nghiên cứu của họ rất chuyên nghiệp, bài bản, mỗi
chuyên gia chỉ làm một vấn đề nhất định, và hợp tác giữa họ rất sâu, trong khi
ở Việt Nam, một chuyên gia, có thể không giỏi chuyên môn lắm, nhưng lại làm từ
A đến Z, dẫn đến một kết quả nghiên cứu cũng 'làng nhàng'".
Công chức, viên chức cần được “đối xử” dưới góc độ thị trường, năm 2008
với con số 20 công chức, viên chức bỏ ra làm ngoài là con số kỷ lục của giai
đoạn 2003-2008. Đây là điều rất dễ hiểu bởi tài chính, ngân hàng là lĩnh vực
sôi động nhất trong thời gian qua, cũng là lĩnh vực “khát” nhân lực nhiều nhất
trong năm 2007-2008. Không chỉ ngành tài chính, ngân hàng, nhiều ngành khác như
y tế, giáo dục - đào tạo... với rất nhiều cơ sở mới thành lập cũng mời gọi công
chức, viên chức của Viện. Lỗ hổng nhân lực ở khu vực kinh tế tư nhân-khu vực
kinh tế năng động nhất hiện nay, đã tạo nên ngày càng nhiều sự lựa chọn cho
công chức, viên chức có trình độ, năng lực làm việc. “Nước chảy chỗ trũng”,
cũng chính là quy luật của thời buổi kinh tế thị trường.
Hai là, môi trường làm việc ở Viện nghiên
cứu so với khu vực tư nhân. Do môi trường công tác tạo nhiều sức ép
tiêu cực về chuyên môn và tinh thần cho người lao động có tri thức và lòng tự
trọng. Môi trường làm việc chưa tạo cơ hội thuận lợi cho người có năng lực thanh
thản lao động cống hiến và thăng tiến. Những áp lực tiêu cực càng đè nặng lên
những người thực sự có tài, có tâm và lòng tự trọng cao. Sự giả hiệu khoa học
hoặc nhân danh những cái tốt đẹp và lợi ích tập thể để chèn ép và trục lợi của
một số đồng nghiệp trong công sở cũng làm xấu đi môi trường làm việc và buộc
người tâm huyết phải chịu nhiều ấm ức, thậm chí phải ra đi... Thực tế cho thấy,
với những người tâm huyết, muốn cống hiến, họ chỉ đòi hỏi được đối xử công
bằng, đánh giá đúng năng lực và bố trí đúng công việc. Nếu những điều này không
được đáp ứng thì họ sẵn sàng nghỉ việc để tìm chỗ làm khác phù hợp với tâm
nguyện và sở trường của mình.
Ngoài nguyên nhân về chính sách
đãi ngộ chưa thỏa đáng, còn do nền nếp, kỷ cương làm việc bị buông lỏng; việc
phân loại công chức, viên chức chưa bảo đảm tính khoa học, khách quan, còn dựa
trên cảm tình cá nhân, bè phái, dẫn đến hậu quả sai lệch trong việc bố trí, sử
dụng, quy hoạch và đề bạt cán bộ, không đáp ứng đúng yêu cầu, nhiệm vụ trong
từng giai đoạn. Đấy cũng là nguyên nhân gây ra tình trạng chán nản, bất bình
đối với những cán bộ có năng lực, từ đó họ xin nghỉ việc ra làm ngoài tự do
thoải mái hơn.
Thứ hai, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo của đội ngũ cán bộ, công
chức chính quyền Thành phố và Viện còn theo lối mòn “khép kín”. Điều này thể hiện trên các nguyên nhân chủ quan cơ
bản như:
Một là, công
tác bố trí cán bộ ở Viện còn nhiều bất cập. Thực tế cho thấy: Bố trí cán bộ
không khách quan, dân chủ, không tuân thủ qui định về thâm niên, nghiệp vụ
chuyên môn, nhất là không biết và không có cơ chế bảo đảm cho người có năng lực, chuyên môn, nghiệp vụ có tâm huyết với công
việc. Nhiều trường hợp có tính “phe cánh”, áp đặt quá rõ, khiến phát sinh tình
trạng không nể, không phục, mất đoàn kết, thậm chí tạo ra những nghịch lý cay
đắng, như người không biết nhận xét và chỉ đạo người biết, người không tốt phê
phán và o ép người tốt, người nói dối được trọng dụng hơn người nói thật.
Hai là, chính quyền Thành phố, cũng như lãnh đạo Viện chưa có xu hướng “mở”,
bằng cách tạo điều kiện để một đơn vị sự nghiệp có thể phát triển nguồn thu của
mình trên cơ sở khai thác và hợp đồng nghiên cứu cho các công trình, dự án kinh
tế của các tổ chức, cá nhân. Sự ngại va chạm, thiếu năng động, quyết đoán là cơ
sở làm nảy sinh tình trạng công chức, viên chức trong Viện không có nguồn thu nào
khác từ lương và chế độ đãi ngộ từ các công trình nghiên cứu của Nhà nước, của
Thành phố phân cấp.
Tình huống trên, cũng đã chỉ ra cho chúng
ta thấy một số các yếu tố ảnh hưởng đáng lưu ý như: Việc một số cán bộ, công chức, viên chức trong Viện xin ra
ngoài biên chế hoặc tự ý bỏ việc tuy chưa nhiều nhưng đã ảnh hưởng đến tâm lý
cán bộ và gây ra những khó khăn nhất định đến nhiệm vụ được giao. Nếu xu thế
này tiếp diễn thì sẽ dẫn tới tình trạng Viện ngày càng thiếu người có chuyên
môn giỏi, có kinh nghiệm,…Các cán bộ trẻ, hoặc năng lực yếu ở lại sẽ không đáp ứng
được yêu cầu của công cuộc đổi mới do nhiệm vụ nghiên cứu Thành phố đặt ra.
PHẦN THỨ HAI: PHÂN TÍCH TÌNH HUỐNG
Hệ thống thể chế quy định về chế độ, chính sách đãi
ngộ; bố trí sử dụng công chức, viên chức ở các đơn vị sự nghiệp còn có quá nhiều
bất cập. Trong đó, các văn bản pháp quy có nhiều về số lượng nhưng không đáp ứng
được chất lượng (không phù hợp với điều kiện hiện nay); mâu thuẫn và chồng chéo;…
vẫn là những hạn chế mang tính “cố hữu” ở nước ta. Về cơ bản có thể phân tích
tình huống trên dưới góc độ của quản lý nhà nước theo các nội dung cơ bản sau:
Một là, chưa có sự phân định rành mạch giữa cán bộ, công
chức, viên chức,… ở trong các văn bản quy phạm pháp luật. Thực tế các cán bộ
nghiên cứu thuộc viện Nghiên cứu kinh tế-xã hội Thành phố chưa được xác định
đúng, đủ và rõ ràng về chức danh, chức vụ nên chế độ, chính sách mà Nhà nước áp
dụng mang tính dàn trải, bình quân chủ nghĩa. Điều 4, khoản 2 Luật cán bộ, công chức[1]
quy định: Công chức bao gồm “những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc giao
giữ một công vụ thường xuyên, được phân loại theo trình độ đào tạo, ngành
chuyên môn, được xếp vào một ngạch hành chính, sự nghiệp, trong biên chế và
hưởng lương từ ngân sách nhà nước…. Những người được tuyển dụng, bổ nhiệm hoặc
được giao nhiệm vụ thường xuyên làm việc trong các cơ quan, đơn vị thuộc quân đội nhân dân mà không phải là sỹ
quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; làm việc trong các cơ
quan, đơn vị thuộc công an nhân dân mà
không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên nghiệp”. Nhưng sự mâu thuẫn giữa Luật
cán bộ, công chức với các văn bản pháp quy khác lại có sự phân chia theo các
tên gọi khác nhau, không theo một quy chuẩn khoa học nào như: “Cán bộ, công chức
hành chính, công chức dự bị, hợp đồng lao
động không xác định thời hạn đang làm việc trong các cơ quan Đảng, Nhà nước,
các tổ chức chính trị - xã hội ở Trung ương, cấp tỉnh và cấp huyện; Cán bộ,
viên chức, hợp đồng lao động không xác định thời hạn trong đơn vị sự nghiệp
công lập;...”[2].
Như vậy, nếu theo Luật cán bộ, công chức, thì cán bộ nghiên cứu thuộc Viện là
công chức, nhưng ở các văn bản khác hiện hành lại gọi là cán bộ, viên chức. Sự
không đồng nhất về nội hàm khái niệm: “cán bộ”; “công chức”; “viên chức” trong
các văn bản pháp quy dẫn đến tình trạng áp dụng các chế độ, chính sách đãi ngộ
khác nhau, tạo ra sự so sánh, thiệt thòi đối với các cán bộ viện nghiên cứu.
Hai là, các quy định về chế độ, chính sách đãi ngộ đối với công
chức, viên chức làm việc ở Viện nghiên cứu còn quá thấp và chưa đảm bảo điều kiện
cho họ yên tâm công tác. Theo quy định tại Điều 5 Nghị định số 204/2004/NĐ-CP
của Chính phủ ngày 14/12/2004 về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức,
viên chức và lực lượng vũ trang: Xác định bảng lương; bảng phụ
cấp quân hàm hạ sĩ quan, chiến sĩ nghĩa vụ và bảng phụ cấp chức vụ lãnh đạo:
“(1) bảng 3 quy định bảng lương chuyên môn, nghiệp vụ đối với cán bộ, viên chức
trong các đơn vị sự nghiệp của Nhà nước đã phân loại thành viên chức loại a, viên
chức loại b và viên chức loại c”. Như vậy, với mức lương và các chế độ phụ cấp
nghiên cứu, phụ cấp trách nhiện hiện hành dù ở mức viên chức loại a vẫn không
thể vượt quá được 3 triệu đồng/tháng. Cũng theo Nghị định này việc phân loại cán
bộ nghiên cứu theo bằng cấp và thâm niên công tác vẫn chưa là cơ sở khoa học
thoả đáng để đánh giá mức hưởng lương theo ngạch, bậc và các phụ cấp khác. Điều
này dẫn đến tình trạng, coi trọng bằng cấp, chạy theo bằng cấp; thâm niên công tác
mà chưa chú ý đến năng lực, đặc biệt là hiệu quả công việc. Đồng thời, sự “cào
bằng” về bằng cấp mà không có sự phân định về hiệu quả là cơ sở để nạn “bỏ đi”
giữa những người có cùng bằng cấp nhưng năng lực khác nhau. Hạn chế này đã làm
nhiều cán bộ nghiên cứu có năng lực thực sự khi không được đánh giá đúng, bố
trí đúng, trả lương tương xứng có tâm lý chán nản công việc được giao và tìm
đến những nơi đánh giá đúng năng lực của họ.
Ba là, bản thân viện nghiên cứu kinh tế-xã hội thành phố về tuổi
đời còn quá trẻ vì mới được thành lập (sát nhập) theo Quyết định số 58/2008/QĐ-UBND
của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ngày 27/6/2008 về hợp nhất Viện kinh
tế, Viện nghiên cứu xã hội và Viện quy hoạch xây dựng thành viện nghiên cứu phát
triển kinh tế-xã hội Thành phố Hồ Chí Minh. Việc sát nhập này sẽ tạo ra những
khó khăn trong bố trí, cơ cấu tổ chức về các chức danh lãnh đạo Viện; văn phòng,
các phòng chuyên môn nghiệp vụ,... Đồng thời, tạo ra những lý do, những kẽ hở
cho việc “ra đi” của một số cán bộ có kinh nghiệm thuộc Viện trước khi sát nhập.
PHẦN THỨ BA: XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN VÀ LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN
I. XÂY DỰNG PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Tình huống trên đã chỉ
ra nhiều cách thức khác nhau, có thể có những phương án ở tầm vĩ mô và vi mô
hoặc cũng có thể được giải quyết theo tiêu chí và góc độ tiếp cận khác nhau. Về
cơ bản, việc đưa ra phương án xử lý phải vừa đảm bảo được được sự ổn định lâu
dài ở phạm vi rộng (toàn quốc) và vừa giải quyết triệt để vấn đề mà tình huống
nêu ra. Dưới góc độ quản lý nhà nước và kỹ năng thực tế trong xử lý các vấn đề
nảy sinh, tiểu luận xác định một số các phương án giải quyết cụ thể như sau:
1. Phương án 1: Xây dựng hệ thống bảng
lương riêng cho cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong hệ thống các đơn vị
sự nghiệp, viện nghiên cứu
* Mục tiêu của phương án:
Phương án này đặt ra
mục tiêu cơ bản là xây dựng được một hệ thống các thang, bảng lương riêng theo
từng hoạt động đặc thù nhằm tách bạch giữa cán bộ, công chức, viên chức hoạt
động ở trong những lĩnh vực khác nhau, mức độ hoàn thành nhiệm vụ khác nhau sẽ
được hưởng thành quả lao động một cách tương xứng.
* Nội dung chính của phương án: Phương án này đặt ra các hoạt động cơ
bản cần phải tiến hành như sau:
- Tiến hành làm đề nghị
cấp có thẩm quyền ra quyết định phê duyệt đề án về xây dựng bảng lương mới cho
cán bộ, công chức, viên chức làm công tác nghiên cứu trong các đơn vị sự nghiệp
và các viện nghiên cứu
- Tiến hành khảo sát
thực tế. Khi tiến hành khảo sát cần tham khảo các điều kiện hoạt động nghiên
cứu trong nước và quốc tế để xây dựng căn cứ xác định bảng lương.
- Đề nghị và thông qua
cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết định áp dụng bảng lương mới.
- Tiến hành tổ chức
thực hiện bảng lương mới trong phạm vi toàn quốc.
* Nguồn lực và cơ quan thực hiện phương án: Đây là một phương án khó
do vậy đòi hỏi phải có chi phí lớn. Chẳng hạn như, chi phí làm đề án, chi phí
khảo sát trong nước và quốc tế;... Nguồn chi phí này sẽ do cơ quan có thẩm
quyền quyết định sẽ quyết định chi phí toàn bộ. Mặt khác, khi được áp dụng cũng
cần một nguồn ngân sách lớn để chi trả.
Cơ quan tiến hành các
bước tiến hành phương án như: Bộ Tài chính tiến
hành làm tờ trình để báo cáo Chính phủ về thực trạng của tình trạng chảy máu
chất xám, làm việc chân trong, chân ngoài, chất lượng và hiệu quả của các dự án
thấp,... Trên cơ sở đó, Chính phủ ra quyết định phê duyệt đề án, giao cho Bộ
Giáo dục và Bộ Tài chính tiến hành khảo sát và xây dựng bảng lương mới trình
Chính phủ trong thời gian ngắn nhất. Sau khi có bảng lương mới (được Chính phủ
quyết định) thì sẽ áp dụng, tổ chức thực hiện trong thực tế.
2. Phương án 2: Xây dựng chế độ trả thù
lao đặc thù cho lao động trí tuệ và và chế độ đối với cộng tác viên làm việc
cho các viện nghiên cứu
* Mục tiêu của phương án:
Bên cạnh mức lương được
trả theo hoạt động đặc thù kể trên, việc xây dựng chế độ đãi ngộ đặc thù cho
cán bộ, công chức, viên chức và cộng tác viên nhằm mục tiêu khuyến khích các
nhà nghiên cứu, chuyên gia có năng lực thực sự cống hiến sức lực của mình cho
các công trình, dự án do Chính phủ hoặc chính quyền địa phương giao.
* Nội dung chính của phương án: Để thực hiện phương án này cần tiến
hành các hoạt động cụ thể sau:
- Làm tờ trình báo cáo
Chính phủ
- Khảo xát về tính đặc
thù theo từng dự án, công trình nghiên cứu theo cấp (Chính phủ giao hay Ủy ban
nhân dân cấp tỉnh giao) và theo lĩnh vực kinh tế; xã hội; khoa học; công
nghệ;... từ đó dự kiến xây dựng mức trả chi phí thù lao đặc thù cho từng phần
công việc của dự án được giao.
- Tổng hợp kết quả, xây
dựng danh mục chế độ phụ cấp đặc thù cho từng loại dự án cụ thể trên.
- Trình Chính phủ quyết
định.
* Nguồn lực và cơ quan
thực hiện phương án: Phương án này cũng như phương án trên cần nguồn kinh phí
lớn để chi phí cho hoạt động khảo sát thực tế. Song, mức chi phí để chi trả là
hợp lý nếu so sánh giữa hiệu quả công việc và nguồn chi phí thù lao từ ngân
sách nhà nước bỏ ra. Cơ quan tiến hành vẫn do Bộ Tài chính chủ trì và phối hợp.
3. Phương án 3: Ủy ban nhân dân Thành phố,
cân đối ngân sách xác định mức chi trả hợp lý cho cán bộ, công chức, viên chức
và cộng tác viên tham gia làm việc ở Viện nghiên cứu kinh tế-xã hội Thành phố
* Mục tiêu của phương án:
Mục tiêu của phương án
này nhăm giải quyết ngay những bất bình đẳng về thu nhập mà các cán bộ, công
chức, viên chức, các cộng tác viên ở Viện nghiên cứu kinh tế-xã hội Thành phố
Hồ Chí Minh. Đồng thời, vừa tạo điều kiện về vật chất vừa động viên về tinh
thần để các cán bộ, công chức, viên chức và cộng tác viên yên tâm công tác và
cống hiến cho các dự án, chương trình của Viện được Chính phủ và Ủy ban nhân
dân Thành phố giao.
* Nội dung chính của phương án: Thực hiện phương án này cần tiến hành
các hoạt động cơ bản sau:
- Viện
nghiên cứu kinh tế làm tờ trình báo cáo Ủy ban nhân dân Thành phố về thực trạng
và đề án giải quyết những vướng mắc hiện tại về chế độ đãi ngộ cho cán bộ và
cộng tác viên trực tiếp thực hiện dự án, công trình nghiên cứu;
- Ủy ban nhân dân thành
phố xem xét và quyết định phê duyệt kế hoạch xây dựng đề án, giao cho Sở Tài
chính và Viện nghiên cứu thành phố tiến hành khảo sát, xây dựng mức chi trả tạm
thời cho các cán bộ, công chức, viên chức và các cộng tác viên khi tham gia
trực tiếp các dự án. Từ đó, xây dựng danh mục các dự án và mức chi trả cho từng
cán bộ, công chức, cộng tác viên tham gia theo từng phần, từng hạng mục,...
- Tổng hợp báo cáo Ủy ban nhân dân Thành phố quyết định
danh mục và thực hiện mức chi trả phụ cấp, bồi dưỡng.
* Nguồn lực và cơ quan thực hiện phương án: Nguồn lực chi phí cho
khảo sát, xây dựng đề án ít. Do chi phí khảo sát trong phạm vi hẹp (không cần
thiết phải tham khảo ở nước ngoài). Mặt khác, có thể tận dụng các nguồn thông
tin sẵn có để tham khảo trong quá trình xây dựng. Khi đề án được thông qua nguồn
ngân sách thành phố trước đây chi đều cho số cán bộ, công chức, viên chức sẽ
được cân đối lại để chi trả cho những cán bộ, công chức, viên chức tham gia dự
án, và mức độ hoàn thành các dự án. Do vậy, không mất thêm nhiều hơn số tiền
phải chi hiện có mà đạt hiệu quả cao có thể được gọi là chi tiêu hợp lý và hiệu
quả.
Cơ
quan tiến hành bao gồm: các cơ quan xây dựng: Sở Tài chính và Viện nghiên cứu
thành phố. Cơ quan tổ chức thực hiện: Ủy ban nhân dân ra quyết định và các cơ
quan có liên quan tổ chức triển khai.
II. LỰA CHỌN PHƯƠNG ÁN XỬ LÝ TÌNH HUỐNG
Như vậy, có thể có
nhiều phương án giải quyết, mỗi phương án sẽ chỉ ra những mục tiêu nhất định.
Tuy nhiên, trong điều kiện thực tiễn tổ chức thực hiện phương án ở nước ta hiện
nay, có những phương có nhiều ưu điểm, ưu thế nổi trội nhưng có những phương án
sẽ tồn tại nhiều hạn chế. Do vậy, việc lựa chọn phương án xử lý có thể được so sánh
theo bảng sau:
Phương
án 1
|
Phương
án 2
|
Phương
án 3
|
|
Ưu điểm
|
Là cơ sở pháp lý để tổ chức
thực hiện việc trả lương theo hoạt động và mức độ hoàn thành công việc nhất
định; Tạo ra cơ chế sử dụng và quản lý cán bộ theo hiệu quả công việc cho các
lĩnh vực khác của hoạt động quản lý nhà nước;...
|
Là nguồn bù đắp tạo ra sự
công bằng trong hoạt động nghiên cứu với các hoạt động khác; Tạo ra nguồn
động viên khuyến khích các cán bộ, cộng tác viên tham gia vào nghiên cứu
những lĩnh vực khó, phức tạp và chất lượng hoàn thành các dự án ở mức cao
nhất;...
|
Trực tiếp động viên, khuyến
khích các cán bộ, công chức, viên chức, cộng tác viên tích cực tham gia và
hoàn thành với chất lượng cao trong từng dự án cụ thể; Mức chi phí để chi trả
trợ cấp phù hợp với ngân sách thành phố và yêu cầu của chất lượng nghiên cứu;
động viên được các cán bộ trẻ có tâm huyết với nghề nghiệp;....
|
Nhược điểm
|
Nhược điểm lớn nhất là việc
xây dựng các tiêu chí để đánh giá mức độ hoàn thành đề án, công trình nghiên
cứu thuộc lĩnh vực khoa học xã hội, nhân văn; tốn kém vật chất, tiền của và
thời gian khảo sát xây dựng;...
|
Nhược điểm cố hữu vẫn là việc
xác định được tiêu chí về tính đặc thù, các điều kiện khó khăn trong từng
hoạt động nghiên cứu; chi phí lớn cho khảo sát và xây dựng và thời gian khảo
sát, xây dựng lâu...
|
Mặc dù chi phí cho khảo sát
và xây dựng đề án ít nhưng nhiều thời gian để xây dựng đề án.
|
Với cách so sánh trên, tiểu
luận lựa chọn phương án 3 làm phương án tối ưu để giải quyết tình huống trên.
Bởi lẽ, việc lựa chọn phương án 3 cho phép Ủy ban nhân dân Thành phố Hồ Chí
Minh thực hiện và giải quyết ngay được vấn đề “chân trong, chân ngoài”, “chảy
máu chất xám” từ đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức và cộng tác viên của Viện
Nghiên cứu thành phố. Chính sách mà Ủy ban nhân dân thành phố ban hành ra tạo
điều kiện để cán bộ, công chức nhận thấy sức lực, trí lực của mình được đánh
giá đúng mức, tương xứng. Đồng thời, có tác dụng động viên kịp thời cán bộ,
công chức và công tác viên trong nhiệm vụ nghiên cứu các đề án được giao. Nếu
lựa chọn phương án 1 hay phương án 2 thì mất rất nhiều thời gian để khảo sát,
xây dựng và áp dụng bảng lương, chế độ phụ cấp đặc thù như vậy sẽ không có tác
dụng ngay để tác động đến tinh thần và sự yên tâm của những người làm công tác
nghiên cứu. Song, về lâu dài chúng ta cũng cần phải có kế hoạch xây dựng hệ
thống bảng lương riêng để đánh giá đúng mức mức độ của từng hoạt động công vụ
nhằm đảm bảo hiệu quả và chất lượng hoạt động quản lý nhà nước nói chung và
hoạt động công vụ nói riêng. Đặc biệt, việc tính toán chế độ phụ cấp (ngoài
lương hiện tại) sẽ giải quyết được hai vấn đề cơ bản là:
Thứ nhất, đánh giá đúng người, đúng việc và chế độ đãi ngộ hợp
lý. Qua đó sẽ kiện toàn được đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức ở viện về cơ
cấu tổ chức, cách bố trí. Điều này đồng nghĩa với việc cán bộ có năng lực sẽ
được trọng dụng, đãi ngộ xứng đáng, tránh được tình trạng cao bằng, bình quân
chủ nghĩa về chính sách, chế độ đãi ngộ hiện hành của Nhà nước ta.
Thứ hai, động viên được cán bộ, công chức, viên chức nỗ lực và
có trách nhiệm khi nhận và hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Xây dựng được
môi trường công tác cho cán bộ ở Viện nghiên cứu.
PHẦN THỨ TƯ: GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ
I. VỀ GIẢI PHÁP
Để có được một đội ngũ công
chức, viên chức có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng với yêu cầu chức
năng, nhiệm vụ của Viện nghiên cứu phát triển kinh tế-xã hội Thành phố Hồ Chí
Minh; phục vụ đắc lực những nhu cầu đổi mới phát triển kinh tế-xã hội của Thành
phố trong thời gian tới; xây dựng đội ngũ cán bộ nghiên cứu có bản lĩnh, tâm
huyết phục vụ cho sự nghiệp của Viện, theo tôi cần tập trung nghiên cứu, giải
quyết đồng bộ một số khâu công việc quan trọng:
Thứ nhất, cần sớm ban hành Luật riêng về công chức,
viên chức sự nghiệp
Đây là vấn đề cơ bản nhằm giải quyết vấn đề xác định nội hàm
các quan niệm về cán bộ, công chức, viên chức,… do các văn bản hiện hành tạo
ra. Với cơ chế ban hành văn bản quy phạm pháp luật hiện hành, việc ban hành Luật
cần phải được tiến hành theo đúng trình tự, thủ tục do Luật ban hành văn bản
quy phạm pháp luật năm 1986 (sửa đổi năm 2001) quy định, nên mất nhiều thời
gian để tiến hành trình tự, xây dựng dự thảo, thông qua, cụ thể hoá,… Để đảm bảo
yêu cầu trước mắt có thể tiến hành theo các bước sau:
Một là, Chính phủ,
báo cáo Uỷ ban thường vụ Quốc quốc để đưa vào chương trình dự kiến ban hành luật
hoặc Nghị quyết tại kỳ họp gần nhất.
Hai là, tại kỳ
họp gần nhất, Quốc hội có thể tiến hành giao cho Chính phủ nghiên cứu xây dựng đề
án thí điểm (Quốc hội ban hành Nghị quyết) hoặc xây dựng dự thảo Luật. Thông thường,
phương án tối ưu và an toàn nhất hiện nay là xây dựng đề án thí điểm làm cơ sở
cho việc xây dựng Luật.
Xây dựng Luật công chức, viên chức các đơn vị sự nghiệp phải
đảm bảo theo hướng chỉ quy định các quy định chung, các điều kiện tiêu chuẩn
khung làm cơ sở pháp lý để các đơn vị sự nghiệp chủ động xác định, hoạch toán và
đảm bảo các chế độ, chính sách, đãi ngộ cho chính công chức, viên chức của mình.
Như vậy, sẽ tránh được các hiện tượng sau khi Luật ban hành ra (hoặc có Nghị
quyết của Quốc hội) lại do các cấp, các ngành cụ thể hoá, mất nhiều thời gian và
không đảm bảo tính phù hợp với yêu cầu riêng của các đơn vị sự nghiệp có thu và
không có thu.
Thứ hai, đối với Uỷ ban nhân dân Thành phố cần bảo
đảm các yêu cầu sau:
Một là, xây
dựng và hoàn thiện Quy chế làm việc của Viện; Quy chế quản lý công chức, viên
chức; Quy chế công vụ công chức, viên chức hiện tại phải phù hợp với các nội
dung của Luật cán bộ, công chức. Rà soát, tổ chức, sắp xếp và kiện toàn đội ngũ
công chức, viên chức theo đúng chức danh, tiêu chuẩn. Có kế hoạch thường xuyên
bồi dưỡng, nâng cao trình độ; kịp thời bổ
sung, thay thế những công chức, viên chức yếu kém và thoái hoá. Để làm được
điều này, cần phải tiến hành xác định và xây dựng Quy chế hoạt động công vụ
trong đó xác định giữa tiêu chuẩn và điều kiện theo từng chuyên môn, nhiệm vụ
nhất định để làm cơ sở đánh giá hiệu quả công việc cho công chức, viên chức
nghiên cứu ở Viện. Uỷ ban nhân dân Thành phố cần giao cho Viện kết hợp với Sở
Tư pháp Thành phố chịu trách nhiệm soạn thảo và xây dựng các quy chế cụ thể. Có
những Quy chế do Viện ban hành, có những Quy chế phải trình Uỷ ban nhân dân ra
Quyết định ban hành kèm theo Quy chế. Xây dựng quy chế công vụ phù hợp, chính
xác là cơ sở để thực hiện tốt chế độ, chính sách đãi ngộ đúng theo “năng lực”
của từng công chức, viên chức ở đơn vị sự nghiệp trong điều kiện hiện nay.
Hai là,
thực hiện đúng chính sách tiền lương: Đối với đội ngũ công chức,
viên chức trong Viện phải bảo đảm “đủ phẩm chất và năng lực gắn với chế độ
hưởng thụ thoả đáng và công bằng”. Qui định về bậc lương và xét nâng lương
thiếu cơ sở khoa học làm nản lòng nhiều công chức, viên chức tốt. Chế độ tiền
lương của nước ta đã được cải tiến nhưng so với yêu cầu cuộc sống thì chưa giải
quyết được căn bản đời sống của người cán bộ, công chức, viên chức trong khi
các doanh nghiệp ở khu vực ngoài nhà nước sẵn sàng trả lương
xứng đáng cho những người làm việc có hiệu quả. Nếu không quyết liệt cải cách
chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức thì tình trạng bỏ việc
ngày càng nhiều, nhất là đối với những người có năng lực. Cùng với quy chế công
vụ, việc xây dựng kế hoạch để trả lương và phụ cấp nghiên cứu “thoả đáng”.
Trong đó Uỷ ban nhân dân tiến hành giao giao cho Ban giám đốc Viện, Sở Tài
chính nghiên cứu xây dựng nguồn lực để chi trả cho các công trình, dự án mà các
cán bộ, viên chức tham gia như: xác định nguồn ngân sách Nhà nước; ngân sách
Thành phố và khả năng thu của Viện;… từ đó xây dựng các tiêu chuẩn, chế độ,
chính sách cho các cán bộ, viên chức tham gia nghiên cứu. Sau đó, trình lên Uỷ
ban nhân dân ra Quyết định để tổ chức thực hiện.
II. KIẾN NGHỊ ĐỀ XUẤT
Từ những
phân tích trên, tiểu luận nêu lên một số kiến nghị cơ bản sau:
Một là, Viện nghiên cứu
cần tạo môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến: Ngoài
thu nhập, môi trường làm việc và cơ hội thăng tiến cũng là điều rất quan trọng
đối với công chức, viên chức. Bất kỳ ai, dù làm cho cơ quan nào cũng đều cần
lương, phản ánh đúng năng lực của mỗi người. Song đối với những người có
năng lực, tâm huyết thì đồng lương không phải là tất cả. Với năng lực thật sự
của mình, họ hoàn toàn có những cách khác để kiếm tiền một cách minh bạch và
lương thiện, do vậy lương không phải là chuyện lớn. Sự thăng tiến của bản thân,
sự phát triển của cơ quan là một ước mơ cháy bỏng đối với người có tài năng và
tâm huyết.
Hai là, Viện nghiên cứu cần năng động kết hợp giữa
nhiệm vụ được giao và làm dịch vụ để đáp ứng nhu cầu của xã hội. Với thế mạnh là một Viện nghiên cứu kinh tế-xã
hội, Viện có thể thực hiện ký kết các hợp đồng nghiên cứu cho các tổ chức kinh
tế, doanh nghiệp, công ty,... nhằm tạo ra thu nhập, cải thiện đời sống cán bộ,
công chức, viên chức và các cộng tác viên. Trong đó, khuyến khích các cán bộ,
công chức, viên chức tìm kiếm các hợp đồng cho Viện. Như vậy, Viện vẫn đảm bảo
được nhiệm vụ, nâng cao được trình độ cọ sát thực tiễn của cán bộ, công chức và
đặc biệt là tạo ra thu nhập ổn định cho cán bộ, công chức, viên chức gắn bó với
Viện.
Ba là, Viện cần chủ động có kế hoạch xây
dựng và quy hoạch đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức hợp lý để làm cơ sở đáp
ứng các nhiệm vụ đặt ra. Đây là nội dung cơ bản để tránh lãng phí về sử
dụng nguồn nhân lực không đáp ứng được nhiệm vụ, bố trí không hợp lý,... Từ đó,
có kế hoạch chiến lược đề nghị sự giúp đỡ, tạo điều kiện của Ủy ban nhân dân
Thành phố, các cấp, các ngành và các đoàn thể cùng tham gia.
KẾT LUẬN
Qua phân tích, đánh
giá thực trạng công chức, viên chức Viện nghiên cứu kinh tế-xã hội Thành phố Hồ
Chí Minh “bỏ việc” hoặc “làm việc chân trong, chân ngoài”;… đã phản ánh khá rõ thực
trạng sử dụng và bố trí cán bộ, công chức, viên chức trong các cơ quan nhà nước,
đơn vị sự nghiệp ở nước ta hiện nay. Để đáp ứng những đòi hỏi mới của cơ quan, đơn
vị sự nghiệp, cần phải thực hiện một cách đồng bộ những giải pháp được nêu trên
cùng với những đổi mới chính sách của Đảng, Nhà nước về công tác cán bộ, nhất
định chúng ta sẽ xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ
trình độ chuyên môn nghiệp vụ đáp ứng với yêu cầu của công cuộc đổi mới, có bản
lĩnh, tâm huyết, phục vụ hết mình vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.
|
Báo cáo tổng kết 10 năm Viện nghiên cứu
kinh tế 1999-2008.
|
2.
|
§¶ng Céng s¶n ViÖt Nam (2002), V¨n kiÖn Héi nghÞ lÇn thø 5 Ban chÊp
hµnh Trung ¬ng kho¸ IX, Nxb. ChÝnh trÞ Quèc gia, Hµ Néi.
|
3.
|
Luật cán bộ, công chức, của Quốc hội số
22/2008/QH12 ngày 13/11/2008.
|
4.
|
Nghị định số 204/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 14/12/2004
về chế độ tiền lương đối với cán bộ, công chức, viên chức và lực lượng vũ
trang.
|
5.
|
Quyết định số 58/2008/QĐ-UBND
của Uỷ ban nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh ngày 27/6/2008 về hợp nhất Viện
kinh tế, Viện nghiên cứu xã hội và Viện quy hoạch xây dựng thành viện nghiên
cứu phát triển kinh tế-xã hội Thành phố Hồ Chí Minh.
|
6.
|
Thông tư số 51/2008/TT-BTC của Bộ Tài
chính “Hướng dẫn quản lý và sử dụng
kinh phí đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức Nhà nước” Ngày 16/6/2008.
|
No comments:
Post a Comment