MỞ ĐẦU
Nhà nước với tư cách là chủ thể mang quyền lực xã hội, thực hiện chức
năng quản lý (cai trị) và đáp ứng dịch vụ cho xã hội công dân. Trong điều kiện
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu
rộng, đòi hỏi Nhà nước ta phải không ngừng cải cách và hoàn thiện toàn diện về
thể chế pháp luật, tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản
lý Nhà nước. Với chức năng và vai trò của mình, Nhà nước tiến hành các hoạt
động quản lý về mọi mặt nhằm giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã
hội; thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội; văn hóa; khoa học-công nghệ;
giáo dục;…
Để thực hiện các mục tiêu, chiến lược đó, Nhà nước tiến hành nhiều hình
thức, biện pháp nhằm duy trì sự ổn định và phát triển mọi mặt của đất nước theo
từng giai đoạn nhất định. Xu hướng tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế, đòi
hỏi các quốc gia phải không ngừng cải thiện mọi mặt, trong đó đặc biệt chú
trọng đến môi trường đầu tư; thủ tục hành chính; chính sách ưu đãi;… làm cơ sở
để thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong những năm qua, chủ trương, chính
sách của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội gắn với an ninh
quốc phòng được quan tâm xây dựng và khuyến khích phát triển trong phạm vi cả
nước, đặc biệt chú ý đến các trung tâm lớn; các vùng kinh tế trọng yếu và các
vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, đã đạt được nhiều thành quả đáng
khích lệ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó, các
cấp, ngành và địa phương trên cơ sở pháp luật và các chức năng được phân cấp,
chủ động, sáng tạo phát huy khả năng, thế mạnh của địa phương phát triển kinh
tế-xã hội, giữ vững an ninh và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
Thực tiễn thực hiện chính sách thu hồi đất của Nhà nước phục vụ cho sự
nghiệp quốc phòng, phát triển kinh tế-xã hội, trong thời gian qua là một chủ
trương đúng đắn và phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập
quốc tế của đất nước. Song, tỷ lệ các dự án hoàn thành có chất lượng còn ở một
chừng mực nhất định. Tình hình thu hồi đất của Nhà nước ở các tỉnh, thành phố
trực thuộc Trung ương còn chậm so với kế hoạch đặt ra. Điều này xuất phát từ
những hạn chế căn bản như: Thể chế pháp luật hiện hành về thực hiện thủ tục bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất còn nhiều mâu thuẫn,
chồng chéo cả về hình thức và nội dung quy phạm. Dẫn đến tình trạng các tỉnh,
thành phố thụ động, ỷ nại và khó tổ chức thực hiện trên địa bàn. Mặt khác, các chính sách của Nhà nước về bồi
thường, hỗ trợ và tái định cư luôn thay đổi, không nhất quán trong những khoảng
thời gian nhất định. Bên cạnh đó, tình trạng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm
quyền và đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư còn hạn chế về năng lực, thiếu tinh thần trách nhiệm và xuống cấp về phẩm
chất đạo đức, đã ra những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, độc đoán và quan
liêu trong cách xử lý và giải quyết các quyền, lợi ích liên quan đến tổ chức,
cá nhân bị thu hồi đất.
Tình trạng nhân dân khiếu kiện nhiều về đất đai gây mất ổn định về trật
tự xã hội, cho thấy thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu
nại tố cáo của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và cán bộ, công chức thực
hiện nhiệm vụ còn chưa “xứng tầm” với vị trí, vai trò được giao.
Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng khóa X, các Bộ, ngành, địa
phương và các cơ quan chức năng cần giải quyết dứt điểm tình trạng khiếu kiện
của dân, trong đó có khiếu kiện về đất đai; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành
chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước trong thời gian
tới, đã đòi hỏi:
Bất kỳ một quyết định hành chính nào cũng đều phải thoả mãn
các yêu cầu hợp pháp và hợp lý.
- Khi ra các quyết định hành chính chủ thể ban hành quyết
định phải dựa vào các căn cứ pháp luật, và phải có tính khả thi, hiện thực.
- Bất cứ một tình huống nào cũng đều chứa đựng những yếu tố
pháp lý, mà việc giải quyết nó cũng
đều dẫn đế một hệ quả pháp lý nhất định
và đều tác dộng đến đời sống xã hội.
- Các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai -
lĩnh vực rất nhạy cảm, là lĩnh vực thường gây nhiều khiếu nại ở nước ta hiện
nay. Vì vậy, khi ra quyết định các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đặc biệt
chú ý tới căn cứ pháp lý, phải điều tra tỉ mỉ cặn kẽ mọi tình tiết có liên quan
tới vụ việc tình huống.
I)
Tình huống
1.
Hoàn cảnh ra đời
Chuyện xảy ra với tám hộ gia đình ở khu đường 6 thôn CK xã MT
thành phố H. Tám hộ gia đình đã sống trên mảnh đất từ lâu đời sau quá trình cải
tạo, khai hoang và phục hồi. Họ đang sinh sống ổn định thì UBND thành phố H ra
quyết định thu hồi. Hơn nữa, theo quyết định thu hồi họ không được đền bù và
không được xét duyệt vào trường hợp tái định cư. Tám hộ gia đình không biết
phải biết làm như thế nào? Lệnh trên đã ký, họ sẽ bị đuổi ra khỏi mảnh đất mà
gia đình họ đã gắn bó. Họ không biết rồi đây cuộc sống sẽ ra sao, con cái họ sẽ
sống như thế nào khi không có một “tấc đất cắm dùi”. Họ băn khoăn phải chăng
quyết định của UBND thành phố H là đúng còn bản thân họ thiếu hiểu biết về pháp
luật nên mới lâm vào hoàn cảnh này? Trăm điều lo lắng họ chẳng biết hỏi ai?
2.
Diễn biến tình huống
Tám hộ dân thuộc cụm dân cư khu đường 6, thôn CK xã MT Thành
phố H. Đất ở của họ có nguồn gốc từ rất lâu đời; trước đây từng là ao hồ, thùng
vũng; người dân đã san lấp, cải tạo và khai hoang phục hồi, làm nhà ở, xây dựng
cơ sở sản xuất kinh doanh, nó thuộc diện quy hoạch đất ở của khu dân cư nông
thôn. Về sau này, từ năm 1992 đến hết năm 2003, khu vực đất ở đây được xã đấu
thầu cho các hộ dân thuê theo từng năm.
Đến cuối năm 2005, UBND thành phố H ra quyết định thu hồi một
phần đất của tám hộ dân này để làm đường gom ven Quốc lộ 6 và họ đã chấp hành
nghiêm chỉnh, bàn giao mặt bằng cho nhà nước. Đến ngày 21/12/2006, tám hộ ở
điểm dân cư nông thôn này lại nhận được thông báo về việc thu hồi nốt phần đất
còn lại để tỉnh xây dựng khu tái định cư. Đồng thời UBND xã MT thông báo với
những hộ dân này rằng: Họ không thuộc diện được tái định cư ở đây. Vì không có
chỗ ở nên tám hộ dân này không bàn giao phần đất còn lại cho chính quyền.
Ngày 20/3/2007, Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản thông
báo ý kiến của chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng biện
pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương án
giải quyết chỗ ở tái định cư cho họ. UBND thành phố H lập luận rằng: Đất các hộ
dân ở hiện (nay thuộc diện giải phóng mặt bằng để xây dựng khu tái định cư
đường gom Quốc lộ 6) được UBND xã MT cho thuê hàng năm để kinh doanh là đất
công điền của xã và đất nông nghiệp giao lâu dài, không phải là đất ở. Việc xây
dựng nhà ở của các hộ dân trên đất thuê hàng năm là trái phép. UBND thành phố H
giao cho UBND xã MT ra thông báo hợp đồng đã hết hạn. Đồng thời UBND xã có
trách nhiệm tổng hợp tất cả các biên bản vi phạm hành chính về san lấp xây dựng
của từng hộ.
Đã hàng mấy chục năm nay rồi, khu vực đất tám hộ dân thôn CK
làm ăn, sinh sống không còn là đất công điền của xã và đất nông nghiệp giao lâu
dài nữa. Thực tế nó đã trở thành điểm dân cư nông thôn theo quy định của Luật
Xây dựng. Tại điểm dân cư nông
thôn này, người dân đã xây dựng nhà ở và sinh sống ổn định.
Trước hoàn
cảnh mất nhà, mất đất, các hộ gia đình đành khiếu nại lên UBND thành phố, đề
nghị được giải quyết quyền lợi của mình. Ngày 28/3/2007 Uỷ ban nhân dân huyện H
triệu tập 8 hộ gia đình có khiếu nại tới giải quyết và thông báo diện tích đất
họ đang sử dụng là không hợp pháp. UBND thành phố sẽ thu hồi và không đền bù
đất đai. Trước sự bất bình của các hộ, UBND thành phố đã thông báo sẽ xem xét
để hỗ trợ cho các hộ về hoa màu, cây cối trên đất của họ. Tám hộ gia đình vẫn
không đồng tình với kết luận của UBND, họ cho rằng UBND thành phố đã quyết định
sai pháp luật.
Ngày
29/3/2007 Uỷ ban nhân dân huyện H có công văn trả lời đơn khiếu nại của các hộ
gia đình nói trên với nội dung bồi thường về hoa màu, cây cối trên đất cho tám
hộ gia đình thuộc diện bị thu hồi. Các hộ gia đình đã quyết định khiếu nại lên
UBND tỉnh để giải quyết.
Và chỉ sau
mấy hôm sau khi nhận được công văn trả lời đơn khiếu nại và trong khi chờ đợi
quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp tỉnh, các hộ đã thấy những xe ủi
tiến vào khu đất của họ. Hỏi ra mới biết UBND thành phố đã hợp đồng san ủi mặt
bằng chuẩn bị xây dựng cơ sở hạ tầng. UBND thành phố dự kién sẽ phân chia lô
đất và thông báo rộng rãi cho các hộ gia đình có nhu cầu xin cấp đất làm nhà ở.
Các hộ gia đình đã kiên quyết không cho máy ủi làm việc và họ thề sống chết với
mảnh đất của mình. Phó Chủ tịch UBND thành phố đã đến và cho rằng các hộ gia
đình đã vi phạm pháp luật và ra “tối hậu thư” nếu các hộ gia đình không sớm rời
khỏi khu đất, chính quyền sẽ cưỡng chế. Ông cho rằng phương án quy hoạch tái
định cư đã được UBND tỉnh phê duyệt, không có lý gì không thực hiện được. Thực
tế là UBND thành phố đã thu tiền của một số hộ có nhu cầu sử dụng đất đối với
diện tích đất mà UBND thành phố quyết định thu hồi từ tám hộ gia đình nói trên.
II) Phân tích, xử lý tình huống
1. Mục tiêu giải quyết tình huống
Đất đai là
tư liệu sản xuất đặc biệt. Việc thu hồi đất của người dân là thu hồi tư liệu
sản xuất của họ, ảnh hưởng không chỉ đến đời sống của gia đình họ mà còn tác động
đến cả tương lai, nghề nghiệp của bản thân các thành viên trong gia đình và
hiện tại. Việc thu hồi đất dù là đất thổ cư hay đất thổ canh đều phải tính toán
việc đền bù hợp lý để người dân có điều kiện đảm bảo cuộc sống cho hiện tại và
sau này. Nhận thức sâu sắc về vấn đề, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến
các vấn đề về thu hồi đất, giải phóng mặt bằng. Các chính sách về giải phóng
mặt bằng của Nhà nước đều hướng tới bảo đảm những quyền lợi của người dân, giúp
người dân sớm ổn định được đời sống.
Tình huống
về thu hồi đất của UBND thành phố H một lần nữa cho thấy hiện nay còn có những
biểu hiện sai phạm trong việc thực hiện các chính sách. Đúng như nhận định của
Đảng ta trong Văn kiện Đại hội Đảng IX: “Nhiều chính sách tốt đã bị bóp méo về
nền hành chính quan liêu”. Những sai phạm của chính quyền xã và huyện trong
tình huống trên cũng cho thấy còn tồn tại sự thiếu hiểu biết về chính sách,
pháp luật của một số cán bộ chính quyền cũng như tinh thần trách nhiệm của họ
trong việc bảo đảm các quyền lợi của người dân. Chính vì vậy, trong quá trình
giải quyết tình huống, chúng ta phải làm rõ được những hành vi vi phạm pháp
luật, chỉ ra những nguyên nhân và những hậu quả từ những sai phạm của chính
quyền thành phố từ đó lựa chọn các phương án giải quyết hợp lý, hợp tình.
2. Cơ sở lý luận
Đàng và Nhà
nước ta đang nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nơi mà Pháp
chế là yêu cầu, đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh
tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến
pháp và Pháp luật một cách thường xuyên, liên tục, không ngừng đấu tranh chống
tội phạm, các vi phạm Pháp luật khác, các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng… Pháp chế là một trong các nguyên tắc cơ
bản trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị- xã
hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, đồng thời là nguyên tắc trong
hành vi, xử sự của công dân.
Nhà nước pháp
quyền đòi hỏi sự bảo đảm sự thống nhất của pháp chế. Nội dung của yêu cầu này
thể hiện ở chỗ là Pháp luật phải được nhận thức và thực hiện thống nhất trong
cả nước và ở tất cả các ngành, các cấp, ở trung ương, địa phương. Văn bản của
cơ quan Nhà nước ở địa phương phải phù hợp, không mâu thuẫn với văn bản do cơ
quan Nhà nước cấp trên ban hành.
Tính
thống nhất của pháp chế không loại trừ việc cân nhắc những điều kiện của ngành,
của địa phương khi thực hiện pháp luật. Các cơ quan nhà nước ở các ngành, các
cấp một mặt phải thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã được quy định thống nhất
cho cả nước, mặt khác, trong thực hiện pháp luật cần phải tính đến những hoàn
cảnh, điều kiện, đặc thù của ngành, cấp, của địa phương để tìm kiếm những hình
thức thực hiện pháp luật một cách sáng tạo, năng động trong giới hạn pháp luật
cho phép.
Sự
thống nhất của pháp chế được bảo đảm bằng hiệu lực tối cao của luật so với các
văn bản dưới luật khác. Các văn bản dưới luật khác phải phù hợp với luật. Sự
thống nhất của pháp chế phù hợp với việc sáng tạo, áp dụng pháp luật của từng
địa phương, từng cơ sở, trên cơ sở thực hiện các văn bản pháp luật do cơ quan
quyền lực nhà nước ở địa phương ban hành, không trái với những quy phạm pháp
luật có tính đến điều kiện cụ thể những đặc thù của địa phương. Tuy nhiên, các
văn bản do các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương ban hành không được trái
với những điều luật đã quy định.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Bảo đảm và bảo vệ các quyền tự do,
lợi ích hợp pháp của công dân. Quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân được
hiến pháp quy định và được cụ thể hoá trong các văn bản luật và văn bản dưới luật, được các cơ quan nhà nước
đề ra các biện pháp cụ thể để bảo đảm thực hiện và bảo vệ. Trong việc cụ thể
hoá quyền lợi của công dân phải bảo đảm việc hạn chế quyền công dân ghi trong
hiến pháp bằng các đạo luật, tránh sự hạn chế một cách tuỳ tiện.
Bất kỳ vi phạm pháp luật nào cũng
đều xâm phạm trực tiếp hay gián tiếp tới lợi ích của nhà nước, xã hội và công
dân. Vì vậy, các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải xử lý nhanh chóng,
công minh và có hiệu quả đối với những vi phạm đó. Thực hiện điều đó cần phải
kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động, thi hành các biện pháp có
hiệu quả nhằm ngăn chặn và loại trừ tệ tham nhũng, hối lộ, cửa quyền. Trong các
cơ quan công quyền nghiêm trị những phần tử thoái hoá, biến chất, làm sa sút
lòng tin của nhân dân. Các cơ quan Toà án, kiểm sát, thanh tra, công an... phải
dựa vào nhân dân, các tổ chức quần chúng, phát động phong trào đấu tranh, phòng
chống tội phạm để phát hiện và xử lý kịp thời những vụ vi phạm pháp luật.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hỏi
mọi hoạt động của Nhà nước, xã hội đều phải tuân theo pháp luật. Quản lý hành
chính nhà nước với ý nghĩa là hoạt động thực thi quyền hành pháp nhằm tác động
có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội
và hành vi của công dân do các cơ quan trong hệ thống hành chính từ trung ương
đến cơ sở tiến hành để thực hiện được chức năng, duy trì trật tự, an ninh, thỏa
mãn nhu cầu hàng ngày của nhân dân cũng không nằm ngoài nguyên tắc pháp chế.
Hiệu quả của mỗi hoạt động quản lý nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố,
trong đó năng lực, kỹ năng góp phần quan trọng để khẳng định cái ”tôi” của mỗi
cá nhân trong xã hội. Cùng được đào tạo chuyên môn, cùng một môi trường công
tác như nhau nhưng họ khác nhau về phương pháp làm việc, về cách thức đạt được
kết quả dẫn tới hiệu quả công việc của họ rất khác nhau. Mỗi nghề cần có những
yêu cầu về năng lực, kỹ năng đặc thù để thích ứng. Việc xác định những năng
lực, kỹ năng cần thiết cho một nghề để từ đó đặt ra mục tiêu rèn luyện, phấn
đấu; mặt khác để các nhà quản lý có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng những kiến
thức, những kỹ năng còn chưa đáp ứng yêu cầu công việc cho họ là một việc làm
có ý nghĩa xã hội to lớn.
Kỹ
năng là sự thành thạo trong thực hiện có kết quả một tác nghiệp; nó được hình
thành qua quá trình học hỏi, đào tạo và tích luỹ kinh nghiệm. Các kỹ năng cơ
bản của công chức (cả nhân viên và cán bộ quản lý) ở công sở đòi hỏi cần có kỹ
năng nhận thức, chuyên môn, thu thập và xử lý thông tin, giao tiếp (nghe, nói,
đọc, viết), quan hệ (với cấp trên, cấp dưới, đồng nghiệp, với dân và tổ chức),
ra quyết định, thực thi - quản lý và kiểm tra... Kỹ năng đối với công chức nói
chung được hiểu là, khả năng vận dụng một cách thuần thục những kiến thức,
kinh nghiệm thu nhận được trong một lĩnh vực (công vụ) nào đó vào thực tiễn
nhằm tăng hiệu lực, hiệu qủa công việc.
3.
Phân tích tình huống
Có thể nói, tình huống trên có rất
nhiều điều cần phải xem xét. Tám hộ gia đình tại thôn CK đã sinh sống ổn định
trên mảnh đất của họ từ một thời gian dài. Mảnh đất của họ đang sinh sống theo
quy định của pháp luật đã đủ điều kiện để được cấp giấy nhận quyền sử dụng đất
chưa? Nếu những mảnh đất này có đủ điều kiện để được xét cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất thì quyền lợi của các hộ gia đình sẽ được đảm bảo như thế
nào?
Cùng với vấn đề trên là một thời
gian dài UBND xã MT đã cho tám hộ gia đình thuê đất từ năm 1992 đến năm 2003.
Việc UBND xã MT cho thuê đất có đúng thẩm quyền của chính quyền cấp xã trong
quản lý nhà nước về đất đai cũng là một điều cần được làm rõ.
Việc UBND xã MT
thông báo tám hộ gia đình không thuộc diện tái định cư có phải là một việc tùy
tiện, thiếu cơ sở pháp luật hay không cũng cần được giải đáp.
Vấn
đề cuối cùng là việc Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản thông báo ý kiến của
chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế
buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương án giải quyết chỗ ở
tái định cư cho họ. Điều này phải chăng là một sự bất hợp lý và cũng chẳng hợp
tình.
Có
thể nói tình huống trên đặt ra hàng loạt những câu hỏi cần có lời giải đáp:
a. Dịên
tích đất tám hộ dân đang sinh sống tại thôn CK, xã MT, thành phố H có thuộc
diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không?
b.
Ý kiến về việc uỷ ban nhân dân xã MT cho tám hộ dân thuộc thôn CK, xã MT thuê
đất trong suốt quá trình từ năm 1992 đến hết năm 2003?
c.
UBND xã MT thông báo cho tám hộ dân trên rằng họ không thuộc diện được tái định
cư ở đây là đúng hay sai?
d.
Có nhận xét gì về việc: Ngày 21/12/2006, Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản
thông báo ý kiến của chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng
biện pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương
án giải quyết chỗ ở tái định cư cho họ.
đ.
Việc UBNF thành phố cho san ủi mặt bằng khi Công văn trả lời khiếu nại “chưa
ráo mực”, người dân chưa kê khai hoa màu, cây cối có đúng quy định của pháp
luật?
e.
Việc UBND thành phố thu tiền sử dụng đất của các hộ có nhu cầu sử dụng đất đối
với mảnh đất sắp được thu hồi có đúng quy định của pháp luật?
Từ
những câu hỏi trên chúng ta cần tìm là biện pháp để giải quyết tình huống trên
theo đúng quy định của pháp luật.
4. Giải quyết tình huống
a. Diện tích đất tám hộ dân đang sinh sống tại thôn
CK, xã MT, thành phố H thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Vì, theo quy định tại khoản 6, điều 50 Luật Đất đai được Quốc hội thông qua
ngày 26/11/2003 thì: "Hộ gia đình, cá nhân
đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng
đất đã được sử dụng từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi
hành (tức trước ngày 01/7/2004), nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là
đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt
đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ". Như
vậy, diện tích đất tám hộ dân trên đang sử dụng thuộc diện được cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất. Trên thực tế, họ đã sinh
sống ổn định tại điểm dân cư nông thôn này từ trước năm 2004, không có tranh
chấp và hiện nay lại phù hợp với quy hoạch xây dựng khu tái định cư. Điều này
cũng có nghĩa quyền lợi của người dân về đất đai ở đây phải được bảo đảm, tôn
trọng.
b.
Ý kiến về việc UBND xã MT cho tám hộ dân thuộc thôn CK, xã MT thuê đất trong
suốt quá trình từ năm 1992 đến hết năm 2003.
Thứ nhất,
theo quy định của luật đất đai năm 2003, tại khoản 3 Điều 37: "UBND xã, phường, thị trấn cho
thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã".
Tuy nhiên trong tình huống trên, đất mà tám hộ dân đang ở thuộc đất khu dân cư
nông thôn chứ không phải là quỹ đất nông nghiệp vì vậy UBND xã MT không có thẩm
quyền cho thuê loại đất này. Thẩm quyền cho thuê loại đất này (nếu được) thuộc
về UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (khoản 2, Điều 37, Luật Đất
đai năm 2003).
Thứ hai,
trong hơn mười năm (từ năm 1992 đến hết năm 2003), chính quyền xã MT đã thu từ
hợp đồng cho thuê đất bao nhiêu tiền, hạch toán ra sao là điều phải làm rõ để
xử lý những người vi phạm. Tại khoản 1, Điều 71 Luật Ngân sách Nhà nước được
Quốc hội thông qua ngày 16/12/2002 quy định: "Những khoản thu không đúng quy
định của pháp luật phải được hoàn trả tổ chức, cá nhân đã nộp".
c.
UBND xã MT thông báo cho tám hộ dân trên rằng họ không thuộc diện được tái định
cư ở đây là trái với quy định tại khoản 2, Điều34, Nghị định 197/2004/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu
hồi đất: "Ưu tiên tái định cư tại chỗ cho người bị thu hồi đất tại nơi có dự
án tái định cư, ưu tiên vị trí thuận lợi cho các hộ sớm thực hiện giải phóng
mặt bằng, hộ có vị trí thuận lợi tại nơi ở cũ, gia đình chính sách". Đối
chiếu với tình huống đặt ra, tám hộ dân thôn CK xã MT thuộc diện người bị thu
hồi đất tại nơi có dự án tái định cư. Mặt khác, họ lại là những người nghiêm
chỉnh chấp hành quyết định thu hồi một phần đất của họ của UBND thành phố H khi
có kế hoạch làm đường gom ven Quốc lộ 6. Do vậy, về nguyên tắc họ phải là những
người được ưu tiên bố trí tái định cư. Việc UBND xã MT lại thông báo tám hộ dân
này không thuộc diện tái định cư là hoàn toàn vô căn cứ.
d.
Ngày 21/12/2006, Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản thông báo ý kiến của Chủ
tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc
tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương án giải quyết chỗ ở tái
định cư cho họ.
Văn
bản thông báo ý kiến của chủ tịch UBND thành phố H như trên là trái quy định
của pháp luật.
Việc cưỡng chế thi hành quyết định thu hồi đất được
quy đinh tại điều 47, Nghị định 197/2004/NĐ-CP (đã dẫn ở trên) chỉ được thực
hiện khi chính quyền đã thực hiện đúng các quy định về bồi thường, hỗ trợ tái
định cư mà "người bị thu hồi đất cố tình không thực hiện quyết định thu
hồi đất thì cơ quan quyết định thu hồi đất ra quyết định cưỡng chế và tổ chức
thực hiện cưỡng chế theo quy định của pháp luật". Theo tình huống đặt ra,
UBND tỉnh H chưa thực hiện đúng các quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư
mà đã có văn bản yêu cầu thực hiện biện pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà của tám
hộ dân xã MT. Đây là việc làm không hợp pháp và bất chấp chỉ thị của Thủ tướng
Chính phủ: "Từ nay, các địa phương không được cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở
khi người bị thu hồi đất chưa được giải quyết chỗ tái định cư’’ (Chỉ thị số 05/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính
phủ ngày 22/02/2006 về việc khắc phục yếu kém, sai phạm, tiếp tục đẩy mạnh tổ
chức thi hành Luật Đất đai).
đ. Khi công
dân đang khiếu nại hành vi Uỷ ban nhân dân huyện đã cho san ủi để xây dựng cơ
sở hạ tầng và phân lô để cấp cho các gia đình có nhu cầu làm nhà ở đây là hành
vi hành chính vừa không hợp pháp, hợp lý. Vì số đất tuy Uỷ ban nhân dân thành
phố H đã có quyết định thu hồi nhưng còn đang tranh chấp giữa Uỷ ban nhân dân
với các công dân. Quyết định giải quyết khiếu nại của Uỷ ban nhân dân thành phố
H chưa phải là quyết định giải quyết cuối cùng theo quy định điều 23 Luật Khiếu
nại, tố cáo ngày 2/12/1998 . Vì vậy, Uỷ ban nhân dân chưa có quyền định đoạt về
mặt pháp lý số phận đất đai nói trên.
Việc làm của
UBND thành phố H là trái với quy đinh tại Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày
25-5-2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử
dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi
thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về
đất đai. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện (Điều 63). Khoản 1 quy định “Trong
thời hạn không quá chín mươi ngày, kể từ ngày Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp
huyện có quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý đất đai quy
định tại Điều 162 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP mà người có quyền lợi và nghĩa vụ
liên quan không đồng ý với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó thì
có quyền nộp đơn khiếu nại đến ủy ban nhân dân cấp huyện”.
Theo quy định này thời hiệu khiếu
nại là 90 ngày (Điều 163 Nghị định 181/2004/NĐ-CP quy định là 30 ngày), quy
định này mở rộng quyền của người khiếu nại và phù hợp với quy định của Luật
Khiếu nại, tố cáo. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải
quyết của Chủ tịch UBND cấp huyện thì có quyền khởi kiện ra Toà án nhân dân
hoặc khiếu nại đến ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Nếu khiếu nại đến ủy ban nhân dân
cấp tỉnh thì Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm giải quyết khiếu
nại theo thời hạn quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Quyết định giải quyết
khiếu nại của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh là quyết định giải quyết lần
hai, phải được công bố công khai và gửi cho người khiếu nại, người có quyền lợi
và nghĩa vụ liên quan.
Việc giải
quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh
vực đất đai không thuộc trường hợp quy định tại Điều 63 và Điều 64 Nghị định
84/2007/NĐ-CP. Trước đây nếu Nghị định 181/2004/NĐ-CP quy định chỉ có Chủ tịch
UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết khiếu nại đối với cán bộ,
công chức thuộc quyền quản lý của mình thì Điều 65, Nghị định quy định “Việc
giải quyết khiếu nại đối với hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Ủy
ban nhân dân xã, phường, thị trấn; hành vi hành chính của cán bộ, công chức
thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường; hành vi hành chính của cán bộ, công chức
thuộc Văn phòng ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; hành
vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, hành vi
hành chính của cán bộ, công chức thuộc Văn phòng ủy ban nhân dân tỉnh, thành
phố trực thuộc Trung ương; quyết định hành chính của Sở Tài nguyên và Môi
trường và quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai của Chủ
tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh không thuộc
trường hợp quy định tại Điều 63 và Điều 64 Nghị định 84/2007/NĐ-CP được thực
hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo”.
Từ
những phân tích, luận giải ở trên, chúng ta có thể đưa ra các phương án giải
quyết cho tình huống trên:
1) Đối với các hộ gia đình có đất bị thu hồi
Thứ
nhất, Đối với khoản tiền thu được từ việc cho thuê của UBND xã MT, Chủ tịch
UBND thành phố chỉ đạo việc kiểm tra, xem xét và kết luận về thu và sử dụng các
khoản thu này. Theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước "Những khoản thu
không đúng quy định của pháp luật phải được hoàn trả tổ chức, cá nhân đã
nộp". Vì vậy, Chủ tịch UBND thành phố cần chỉ đạo UBND xã MT có phương án
hoàn trả tiền thuê đất cho các hộ gia đình.
Thứ
hai, UBND thành phố phải ban hành Quyết định hủy bỏ Thông báo của Văn phòng
UBND thành phố về việc cưỡng chế buộc tháo dỡ các công trình xây dựng của tám
hộ gia đình.
Sau
khi thực hiện các công tác trên, UBND thành phố có thể lựa chọn một trong các
phương án sau đây:
- Phương án 1: Căn cứ vào hiện trạng đất của 8 hộ gia
đình trên, Chủ tịch UBND thành H xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất
cho họ và thu tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào quy
hoạch khu vực tái định cư của tỉnh để xác định diện tích của các hộ gia đình
trong khu vực được nhận. Diện tích đất của các hộ nếu còn thừa ra thì thực hiện
thu hồi song phải có đền bù theo quy định của pháp luật. Phương án này có ưu
điểm là cuộc sống của tám hộ gia đình ít biến động. Tuy nhiên, việc cấp giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất có thu tiền cũng tùy thuộc vào khả năng kinh tế
của các hộ. Hơn nữa, nếu thực hiện theo phương án này có thể ít nhiều ảnh hưởng
đến quy hoạch tổng thể khu vực tái định cư.
-
Phương án 2: Xây dựng phương án tái định cư cho tám hộ gia đình trong khu vực.
Sau đó, thu hồi toàn bộ diện tích đất của các hộ gia đình có đền bù theo quy
định của Chính phủ và Quyết định của UBND tỉnh. Phương án này giúp UBND thành
phố chủ động thực hiện quy hoạch tái định cư. Người dân vẫn đảm bảo quyền lợi
của mình đồng thời chính quyền có thể thực hiện được phương án quy hoạch đã
được phê duyệt. Xét một cách tổng thể, phương án này nên được triển khai.
Từ
phía người dân trong trường hợp UBND thành phố H không giải quyết quyền lợi của
họ thì các hộ dân có thể có hai hướng để bảo vệ quyền lợi của mình.
Thứ
nhất, các hộ gia đình khởi kiện quyết định của UBND thành phố H đến Tòa hành
chính thành phố H.
Thứ
hai, các hộ gia đình khiếu nại lên Chủ tịch UBND cấp tỉnh để Chủ tịch UBND tỉnh
giải quyết.
2) Đối với các hộ gia đình đã nộp tiền để nhận được quyền sử dụng đất
Uỷ ban nhân
dân thành phố H, tuy chưa có quyết định bằng văn bản cấp giấy chứng nhân quyền
sử dụng đất cho các hộ đăng ký xin được cấp đất. Nhưng việc thông báo của Uỷ
ban nhân dân thành phố H và việc đăng ký, nộp tiền đầy đủ của các hộ dân cư
thực chất là đã ký kết "hợp đồng hành chính". Trong đó, những người
xin cấp đất đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ
của mình đối với nhà nước. Vì vậy, Uỷ ban nhân dân thành phố H cũng phải thực
hiện nghĩa vụ đối với dân cư. Nhưng trong hợp đồng này, cơ quan hành chính nhà
nước có đặc quyền hành chính là thay đổi điều kiện "hợp đồng hành
chính" ở những nội dung không căn bản. Từ vấn đề lý luận có tính nguyên
tắc như vậy, phương án đặt ra để giải quyết sự kiện này là:
- Uỷ ban
nhân dân thành phố H cần phải họp mặt các hộ gia đình đã nộp tiền sử dụng đất
để thống nhất lại với họ về địa điểm, mặt bằng, ra quyết định cấp giấy chứng
nhận quyền sử dụng đất cho các hộ đã đăng ký và nộp tiền đầy đủ và rút bớt diện
tích của từng lô đất xuống một cách hợp lý sao cho phù hợp quy hoạch;
- Hoàn trả
lại cho các hộ đăng ký và đã nộp đủ tiền đất số tiền chênh lệch (nếu có) sau
khi đã điều chỉnh lại diện tích sử dụng của họ.
Việc thực hiện
phương án này chừng mực nhất định sẽ gây phản ứng của những người sẽ đăng ký và
đã nộp tiền sử dụng đất. Để thực hiện phương án này Uỷ ban nhân dân thành phố H
chỉ còn mỗi biện pháp dựa vào công tác vận động, thuyết phục, không thể dùng
mệnh lệnh hành chính. Điều quan trọng hơn cả là nhận khuyết điểm trước nhân dân
về những quyết định sai trái của mình, kiểm điểm và thông báo cho đân biết kết
quả xử lý những người trực tiếp có khuyết điểm dẫn đến quyết định sai trái của
Uỷ ban nhân dân thành phố H. Với cách làm như vậy sẽ giải quyết được tình huống
một cách hợp lý, hợp pháp, có tính khả thi.
III) Kiến nghị
Trong
số những yếu tố chủ quan làm suy giảm pháp chế phải kể đến sự kém hiểu biết về
pháp luật của cán bộ, công chức nhà nước trong các cơ quan nhà nước, tính quan
liêu còn tồn tại trong các bộ máy nhà nước, sự lạm dụng quyền lực nhà nước của những
người có chức, có quyền, lạm quyền dẫn đến sự phá hoại pháp chế. Những sự vi
phạm như trên dẫn đến sự rệu rã bộ máy nhà nước, làm giảm sự tôn trọng pháp luật,
làm suy yếu tính quyền lực của nhà nước, làm giảm tính đấu tranh của cán bộ,
nhân viên trong việc xây dựng bộ máy nhà nước. Có thể nói đó là một trong những
khâu quan trọng nhất trong việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và mở rộng
quyền dân chủ trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Tình huống trên một lần nữa cho thấy những
sai phạm trong quản lý nhà nước về đất đai ở địa phương. Sai phạm trong quản lý
nhà nước về đất đai không chỉ ở cấp chính quyền cơ sở mà ở cấp chính quyền cao
hơn cũng có những sai phạm. Những sai phạm này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân
song một nguyên nhân căn bản là cán bộ chính quyền không nắm vững các quy định
của pháp luật, chính sách quản lý của nhà nước. Từ đó dẫn đến tình trạng ban
hành các quyết định hành chính trái pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của nhân dân.
Những sai phạm của chính quyền xã MT và
thành phố H thực sự là một bài học đối với những người làm công tác quản lý nhà
nước về đất đai. Thiết nghĩ để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, UBND
tỉnh cần phải xem xét và những quyết định xử lý đúng người, đúng pháp luật
trong các sai phạm nói trên. Việc xử lý nghiêm minh sẽ giúp cho các cán bộ,
công chức ngày càng ý thức đầy đủ hơn về trách nhiệm của mình trong quản lý,
nâng cao trách nhiệm của cá nhân, tổ chức đối với các quyết định hành chính,
hành vi hành chính.
Cùng với việc áp dụng
các biện pháp xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức có sai phạm, một điều
cũng cần được chú ý ở đây là cần phải nâng cao năng lực quản lý của chính quyền
các cấp bằng việc tạo điều kiện cho cán bộ, công chức học tập, nâng cao trình
độ, cập nhật các quy định của pháp luật, chính sách của Nhà nước tránh những
sai phạm do thiếu hiểu biết về chính sách pháp luật. Những sai phạm tiếp nối
sai phạm sẽ ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với chính quyền.
KẾT LUẬN
Với tất cả
những nguyên nhân nói trên từ quyết định, hành vi không hợp pháp và hợp lý của
Uỷ ban nhân dân thành phố H đã dẫn tới tình trạng khiếu kiện của dân, và đặt Uỷ
ban nhân dân thành phố H phải giải quyết tình huống do chính mình gây nên. Đây là bài học cần rút kinh nghiệm cho các
cấp quản lý.
Để sửa chữa những
sai phạm của mình, Chủ tịch UBND thành phố H cần sớm triển khai phương án giải
quyết về quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Biết nhận ra sai lầm và sửa
chữa với sự công tâm, tinh thần trách nhiệm, tinh thần cầu thị sẽ giúp chính
quyền thành phố H nhận được sự tin cậy của nhân dân. Chính quyền quản lý tốt
tất yếu sẽ có được uy tín, lòng tin của nhân dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1- Luật Đất đai được
Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003
2- Luật Ngân sách Nhà
nước được Quốc hội thông qua ngày 16/12/2002
3- Luật Khiếu nại, tố
cáo ngày 2/12/1998
3- Nghị định số
84/2007/NĐ-CP ngày 25-5-2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình
tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải
quyết khiếu nại về đất đai
4- Nghị định
197/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định
cư khi Nhà nước thu hồi đất.
5-Nghị định số
17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của
Nghị định 197,...
6- Chỉ
thị số 05/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/02/2006 về việc khắc phục
yếu kém, sai phạm, tiếp tục đẩy mạnh tổ chức thi hành Luật Đất đai.
7-Báo
điện tử Việt Nam nét.