Wednesday, December 30, 2015

Người dân bức xúc CSGT hay xe ôm 'núp lùm' bắn tốc độ?

Bị lập biên bản lỗi chạy quá tốc độ, người vi phạm yêu cầu xem băng ghi hình thì được chỉ lên chỗ một người mặc thường phục đang núp trong lùm… để xem camera. 



Công an hay dân thường núp lùm?
Theo phản ánh của anh N.H (ngụ Q.Tân Bình, TP.HCM) khoảng 9 giờ 50 ngày 26.12, anh chạy xe gắn máy trên đường TL764 thì bị Tổ CSGT Công an huyện Cẩm Mỹ (Đồng Nai) dừng phương tiện và báo lỗi vi phạm tốc độ cho phép.
Anh H. yêu cầu xem hình ảnh vi phạm, thì được một CSGT chỉ lên cách nơi xử lý vi phạm khoảng 800m để xem.
“Chạy tìm khắp ngoài đường không thấy, nhưng sau một hồi tìm kiếm, cuối cùng tôi nhìn vào lùm cây cà phê và thấy có người mặc thường phục đang ngồi ở trong. Tôi được người này cho xem hình ảnh vi phạm. Nhưng khi thắc mắc liệu anh có phải CSGT hay không thì người này không trả lời. Tôi tiếp tục hỏi bắn tốc độ sao không đứng ngoài đường mà phải núp trong lùm cây nhưng người này cũng không trả lời”, anh H. cho hay.

VIDEO: Người vi phạm phát hiện một người mặc thường phục bắn tốc độ trong lùm cây 
Khi thấy anh H. quay phim thì người này liền gom hết đồ đạc và lên xe máy biển số 38U1 - xxxx chạy về phía tổ công tác đang làm nhiệm vụ. Khi anh H. chạy đến nơi tổ công tác đang làm việc thì người bắn tốc độ không còn ở đó.
Kết quả, anh H. bị xử phạt vì vi phạm với tốc độ 63/50 km/giờ, bị giữ giấy tờ xe và hẹn ngày 4.1.2016 đến nộp phạt để lấy giấy tờ. Anh H. cho biết mức phạt được thông báo là 750 ngàn đồng. Anh H. cũng cho biết thêm đoạn đường bị bắn tốc độ rất vắng, gần lô cao su.
“Tôi chỉ thắc mắc là tại sao công an phải núp lùm? Người núp lùm là công an thì tại sao khi tôi hỏi anh ta không trả lời? Tôi vi phạm thì sẵn sàng đóng phạt nhưng CSGT làm việc cũng nên minh bạch, rõ ràng, chứ không phải chỉ canh núp lùm bắn tốc người vi phạm. Nếu CSGT kết hợp với người lạ để thi hành nhiệm vụ là điều mà người dân thật sự bất an”, anh H. nói.
Người dân bức xúc CSGT hay xe ôm 'núp lùm' bắn tốc độ? - ảnh 1
Người thanh niên trong lùm cây cho người vi phạm xem hình ảnh - Ảnh: Trích ra từ clip
Được phép hóa trang bắn tốc độ
Tiếp PV Thanh Niên ngày 29.12, trung tá Ngô Đức Khánh, Đội trưởng Đội CSGT huyện Cẩm Mỹ nói: “Tôi trả lời cũng được nhưng theo quy định của ngành để trả lời báo chí thì anh phải liên hệ với lãnh đạo huyện, nếu lãnh đạo cho phép thì tôi sẽ trả lời”.
Khi chúng tôi đề nghị được mở video (mà anh H. quay được) xem người bắn tốc độ mặc thường phục có phải là CSGT của đơn vị hay không nhưng ông Khánh từ chối.
“Về nguyên tắc, chứng cứ, video quay không phải chứng cứ. Video có thể quay, có thể ghép đủ thứ chuyện nên tôi không thể trả lời, không xác minh cho anh được. Tôi cũng không cần xem video, khi nào người ta đủ chứng cứ, chứng minh được lực lượng cảnh sát làm không đúng quy trình thì sẽ có cơ quan thanh tra người ta xử lý. Còn anh đưa video làm sao tôi dám nói đúng hay sai, tôi không biết video của anh làm bằng cách nào, quay ở đâu”, trung tá Khánh nói.
Người dân bức xúc CSGT hay xe ôm 'núp lùm' bắn tốc độ? - ảnh 2
Sau khi được hỏi có phải là CSGT hay không thì người thanh niên này lên xe bỏ đi mất - Ảnh: Trích ra từ clip
Liên hệ làm việc với lãnh đạo Công an huyện Cẩm Mỹ thì được báo lãnh đạo đi họp vắng. Trao đổi qua điện thoại, bà Trần Thị Ngọc Thuận, Trưởng Công an Huyện Cẩm Mỹ cho biết: “Tôi chưa nghe thông tin này. Tôi về sẽ cho kiểm tra lại và có thông tin trả lời sau”.
Người dân bức xúc CSGT hay xe ôm 'núp lùm' bắn tốc độ? - ảnh 3
Việc núp lùm báo chí cũng đã phản ánh rất nhiều. Làm như vậy có nhiều cái cũng phản cảm và người dân thì họ cảm thấy CSGT làm việc không rõ ràng.
Người dân bức xúc CSGT hay xe ôm 'núp lùm' bắn tốc độ? - ảnh 4
Đại tá Dương Thanh Hải
Trong khi đó, đại tá Dương Thanh Hải - Trưởng Phòng CSGT đường bộ, đường sắt Công an tỉnh Đồng Nai cho hay, theo điều 10 thông tư 65 quy định, cho phép lực lượng CSGT trong quá trình thực hiện các biện pháp nghiệp vụ như: ghi hình bắn tốc độ, dùng camera để quay vượt phải, lấn đường trên các tuyến giao thông được phép hóa trang. Không nhất thiết phải mặc đồ CSGT để đứng bắn tốc độ, mà có thể mặc đồ dân sự (thường phục), có thể mang theo thẻ ngành chứ không cần bảng tên.
Cũng theo đại tá Hải trong văn bản hướng dẫn không có quy định phải đứng như thế nào, đứng ở đâu để bắn tốc độ mà chỗ nào, khu vực giao thông phức tạp, khả năng tai nạn giao thông có thể xảy ra thì CSGT được phép hóa trang sử dụng máy đo tốc độ ghi hình tốc độ để xử lý, nhằm giảm thiểu tại nạn giao thông.
Tuy nhiên, đại tá Hải cũng thừa nhận: “Việc núp lùm báo chí cũng đã phản ánh rất nhiều. Làm như vậy có nhiều cái cũng phản cảm và người dân thì họ cảm thấy CSGT làm việc không rõ ràng”.
Vừa qua, tại kỳ họp HĐND TP.HCM nhiều đại biểu thay mặt cử tri cũng bức xúc việc CSGT hay "núp lùm" để xử phạt người vi phạm, gây nên hình ảnh phản cảm. 
Thanh Niên sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc trên đến bạn đọc. 
Theo Tiểu Thiên (Báo Thanh niên điện tử)

Tuesday, December 29, 2015

Vụ Number 1 có ruồi: Nhiều luật sư muốn bào chữa cho anh Minh

Luật sư Nguyễn Hữu Thế Trạch sẽ tham gia bào chữa cho anh Minh ở phiên tòa phúc thẩm. Có khoảng 10 luật sư khác sẵn sàng tham gia bào chữa cho anh Minh nếu có yêu cầu.

Chiều 29/12, trao đổi với VietNamNet, ông Võ Văn Kỹ cho biết vừa viết đơn yêu cầu luật sư Nguyễn Hữu Thế Trạch (Đoàn luật sư TP.HCM) bào chữa cho con trai là anh Võ Văn Minh (35 tuổi, ngụ huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang) - người vừa bị TAND tỉnh Tiền Giang tuyên phạt 7 năm tù giam vì tội “Cưỡng đoạt tài sản” trong vụ án xảy ra với công ty Tân Hiệp Phát.
Ông Kỹ cho biết đã tiếp xúc với luật sư Trạch vào lúc 10 giờ cùng ngày tại Tiền Giang.
“Tôi đã tự viết đơn yêu cầu luật sư Thế Trạch bào chữa cho con trai tại phiên toà phúc thẩm. Gia đình chỉ mong muốn phiên tòa sắp tới sẽ tuyên Minh không phạm tội. Hiện chúng tôi đang mong từng giờ, từng ngày tới ngày xét xử phúc thẩm” - ông Kỹ cho biết.


Anh Minh tại phiên xử sơ thẩm ngày 17/12. Ảnh: Mai Phượng
Còn luật sư Thế Trạch cho biết do gia đình của anh Minh yêu cầu và mời nên ông sẽ tham gia bào chữa miễn phí cho anh Minh trong phiên phúc thẩm tới đây.
“Tôi cũng đã xem xét và nắm rất rõ hồ sơ vụ án này. Tôi đang chuẩn bị tất cả hồ sơ và sẽ đem tất cả năng lực của mình để cố gắng bào chữa cho anh Minh” - ông Trạch nói.
Theo luật sư Thế Thạch thì phiên tòa phúc thẩm xét xử anh Minh có thể diễn ra sau Tết nguyên đán. Theo thủ tục thì hồ sơ vụ án sẽ nằm ở cấp sơ thẩm từ 30 - 45 ngày, sau đó mới được chuyển lên cấp phúc xem xét rồi lên lịch xử.
Trả lời trên báo chí về phiên tòa phúc thẩm sắp tới, luật sư Phạm Hoài Nam - một trong hai luật sư tham gia bào chữa cho anh Minh trong phiên tòa sơ thẩm vừa qua cho biết sẽ sẵn sàng tham gia bào chữa cho anh Minh khi có yêu cầu. Luật sư Hoài Nam cũng cho biết thêm, sẽ có khoảng 10 luật sư sẵn sàng tham gia bảo vệ cho anh Minh tại phiên tòa phúc thẩm.

Theo Hoài Thanh (báo Vietnamnet.vn)

Sunday, December 27, 2015

Phạt cắt điện nếu cô dâu mặc váy cưới trong ngày trọng đại

Cô dâu trong ngày trọng đại không được mặc váy cưới mà chỉ được mặc áo tân thời. Nếu vi phạm, gia đình sẽ bị cắt điện một tuần…



Cô dâu mặc váy cưới trong ngày trọng đại sẽ bị phạt cắt điện 1 tuần

Từ nhiều năm nay, thị trấn Yên Lạc (với tên gọi cũ là Minh Tân, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc) duy trì những quy ước riêng lạ lùng. Theo đó, đám cưới của thanh niên trong thị trấn chỉ được tổ chức vào 2 ngày mùng 2 hoặc 16 âm lịch hằng tháng.

Chính quyền nơi này đã quyết định làm một "cuộc cách mạng nhỏ" khi đưa ra quy ước cưới xin độc đáo, một "thương hiệu" và điểm nhấn không thể lẫn vào đâu được tại địa phương và các tỉnh, thành khác trong cả nước. Theo đó, đám cưới chỉ được tổ chức vào 2 ngày trong tháng âm lịch là mùng 2 và 16.

Cùng với quy định ngày cưới, thị trấn Yên Lạc cũng quy định cụ thể về cách thức tổ chức như: không làm sân khấu, không dùng loa nén, không làm cổng chào, không dùng lẵng hoa, dùng các loại bóng điện thường thắp sáng, tiết kiệm chi tiêu, không tổ chức ăn lại mặt sau khi cưới...

Đặc biệt hơn cả là cô dâu không được mặc váy cưới, mà chỉ được mặc áo tân thời. Nếu gia đình nào vi phạm quy ước đều phải chịu một hình phạt rất đặc biệt là bị... cắt điện trong một tuần.

Anh D. (một người dân thị trấn) kể lại: “Vợ tôi ở xã bên, trước đám cưới cô ấy rất háo hức đi ngắm váy cưới. Thế nhưng khi tôi bảo thị trấn chỗ anh không cho mặc váy đâu, nếu làm vợ anh, em phải chấp nhận điều kiện này đầu tiên. Cô ấy cũng chỉ còn biết thốt lên: “Úi trời, sao lại có chuyện kỳ lạ vậy"”.

Nói đúng hơn, mặc váy chỗ nào thì mặc, nhưng khi cô dâu đã vào địa phận thị trấn Yên Lạc phải lập tức cởi ra.

Trong những ngày được thị trấn cho phép tổ chức cưới xin, người dân thị trấn dành tất cả thời gian để đi dự đám cưới, chìm trong không khí chúc tụng, cỗ bàn.

“Chúng tôi gọi đó là những ngày hội của thị trấn - ngày hội đám cưới độc nhất vô nhị mà chẳng nơi đâu trên đất nước này có được”, ông Duyên, một vị cao niên hóm hỉnh thổ lộ.

Tất cả các quy định đều được mọi người trong thị trấn hoàn toàn nhất trí. Cái hơn thiệt của quy ước này được ông Duyên phân tích rạch ròi: “Thị trấn quy định thế này là để dân tiết kiệm thời gian, cũng như chi phí, chống lãng phí trong toàn dân. Đơn giản như trong hai ngày mùng 2 và 16, nhà anh có 4 người thì chia nhau mỗi người tới một đám, có 4 đám chỉ hết một hoặc nửa ngày là xong. Đấy là tiết kiệm về thời gian, những ngày sau không phải đi đám cưới nào nữa”.

Vui nhất có lẽ là những gia đình đông con như gia đình bà Nguyễn Thị Bàn, khu phố 3, thôn Đông, có 5 anh con trai đều đã tổ chức theo nếp sống mới của địa phương. Còn gia đình bà Dương Thị Hạnh có 6 anh con trai thì có 4 anh đã lập gia đình, cũng rất phấn khởi khi thực hiện nếp sống mới trong tục cưới xin ở địa phương.

Bà Bàn nở nụ cười tươi, giọng đầy hồ hởi: "Tiết kiệm lắm cháu ạ. Nếu tổ chức như xưa có khi giờ bác và các con vẫn phải làm mà trả nợ đám cưới cũng nên".

Xây mộ phần cho người sắp mất

Việc quy định ngày cưới có phần hạn chế việc tự do lựa chọn ngày cưới của mỗi gia đình, mỗi cặp uyên ương. Tuy vậy, nếu được lựa chọn, có lẽ đại đa số vẫn sẽ bỏ phiếu tán thành cho sự tồn tại của nó như một dấu ấn đặc biệt mà không ở nơi đâu có được.


                                                        Xây mộ phần cho người sống

Ngoài chuyện cưới xin lạ đời, thị trấn này còn dành quỹ đất và tiền giúp xây phần mộ chuẩn bị cho những người sắp mất. Tại một nghĩa trang của thị trấn, hàng chục ngôi mộ xây sẵn, nằm ngăn ngắn ngay lối vào. Đằng sau mỗi tấm bia mộ, đều được đánh số thứ tự, được thị trấn xây sẵn để chờ phục vụ… người chết. Có những ngôi mộ đã mồ yên mả đẹp, khói hương nghi ngút. Song không ít những ngôi mộ còn "chưa có người ở", vẫn đang trong tình trạng lộ thiên.

Ông Hoàng Văn Kha (người dân thị trấn Yên Lạc) cho biết, cách đây gần chục năm, thị trấn Yên Lạc đã đề xuất quy hoạch, rồi thiết kế và xây sẵn mộ ở nghĩa trang. Nghĩa là, mỗi làng sẽ có một nghĩa trang. Tại nghĩa trang của từng làng, luôn có 120 ngôi mộ xây sẵn. Mỗi ngôi có chiều dài 2 mét, chiều cao bằng nhau.

Ông Kha cũng giải thích: "Thời gian từ lúc người mất đến lúc cải táng là 3 năm thì năm đầu địa phương xây 40 mộ, các năm còn lại, mỗi năm xây thêm 40 phần mộ nữa. Các phần mộ được đánh số từ 1 đến 40. Vậy là người quá cố cũng có vị trí, thứ tự của riêng mình.

Người nào "ra trước" thì ở nhà số trước, lần lượt cho đến hết các số thứ tự. Sau thời gian 3 năm, người nào được chôn cất ở hàng mộ đầu tiên sẽ được cải táng sang địa điểm khác. Nếu có người mất sau này, thì lại chôn vào mộ đó. Mọi việc tuần tự và rất quy củ".

"Những ngôi mộ đó được địa phương đứng ra xây, còn tiền thì do những nhà hảo tâm, công đức ủng hộ. Làm như vậy, vừa tiết kiệm đất, lại vừa sạch sẽ, gọn gàng, không ảnh hưởng đến môi trường". Ông Kha chia sẻ.

Ông Phạm Xuân Tân (một người dân thị trấn Yên Lạc) phân tích: "Nhiều nơi họ làm phân tán, phí ruộng, phí đất. Đang đường cày thẳng tắp, trâu chạy băng băng thì vướng vào phần mộ, lại phải lách sang mà làm, bất tiện lắm chứ. Địa phương chúng tôi quy hoạch thế này, không chỉ sạch đẹp, gọn gàng, mà lại rất khang trang”.

Theo Đào Tấn (báo Người đưa tin điện tử)

Khởi tố lái xe Sở GTVT Nghệ An dùng xe biển xanh “làm luật”

Với việc sử dụng xe công của Sở GTVT Nghệ An chạy sang Hà Tĩnh dùng gậy dừng phương tiện giao thông “làm luật”, tài xế Nguyễn Viết Hoàng bị khởi tố về hành vi cưỡng đoạt tài sản.

Tài xế Nguyễn Việt Hoàng bị khởi tố về hành vi cưỡng đoạt tài sản khi lái xe biển xanh sang Hà Tĩnh "làm luật" xe tải
Chiều ngày, 26/12, Trung tá Nguyễn Quang Thành, Trưởng Công an huyện Nghi Xuân, cho biết, đơn vị này vừa ra quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Viết Hoàng (SN 1980, là lái xe của Sở GTVT Nghệ An) về hành vi cưỡng đoạt tài sản.
Trước đó, chiều ngày 19/12, lái xe Nguyễn Việt Hoàng điều khiển xe ô tô biển xanh BKS 37A - 9569 của Sở GTVT Nghệ An chở theo một người bạn sang huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh) đi chơi. 
Trên đường đi, Hoàng dừng xe, sử dụng gậy dừng phương tiện giao thông đi trên đường để “làm luật”. Bị người đi đường phản ứng thì Hoàng cho rằng mình là thanh tra giao thông Nghệ An sang Hà Tĩnh “tăng cường”, rồi lái xe bỏ đi. 
Hành vi khuất tất của Thành đã bị người dân phát hiện ghi lại được hình ảnh, sau đó trình báo tới Công an huyện Nghi Xuân. 
Khoảng 16h cùng ngày, khi Hoàng đang lái xe qua trạm thu phí Cầu Bến Thủy để về Nghệ An thì bị lực lượng CSGT Công an huyện Nghi Xuân dừng phương tiện yêu cầu về trụ sở làm việc. Tuy nhiên, lái xe này vẫn không chịu chấp hành mà lái xe đâm vào các phương tiện, sau đó bị cảnh sát khống chế. 
Qua kiểm tra, lái xe đã sử dụng bia rượu khi điều khiển giao thông, nồng độ cồn vượt quá mức cho phép, CSGT Công an huyện Nghi Xuân đã có quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 13 triệu đồng đối với tài xế Nguyễn Viết Hoàng.
Sau khi nhận được thông báo, Sở GTVT Nghệ An cũng đã tiến hành đình chỉ công tác đối với lái xe Nguyễn Việt Hoàng. 
Theo ông Nguyễn Hồng Kỳ, Giám đốc Sở GTVT Nghệ An cho biết, Nguyễn Việt Hoàng là tài xế hợp đồng của cơ quan, sáng ngày 19/12, lái xe chính đã nhờ Hoàng giữ chìa khóa xe vì có việc gia đình, Hoàng đã điều khiển xe ô tô biển xanh trên sang Hà Tĩnh và gây ra sự việc trên. 
Sau khi xảy ra sự việc xảy ra, ba tài xế xe tải đã đến Cơ quan công an tố cáo hành vi của Hoàng. Tại CQĐT Hoàng đã thừa nhận hành vi dừng xe “làm luật” của mình./.
Theo Ngô Toàn (Báo Pháp luật Việt Nam điện tử)

Friday, December 25, 2015

Bắt một cán bộ Trung tâm Phát triển quỹ đất Tam Kỳ

 2 đối tượng phối hợp kê khống tài sản để hưởng tiền đền bù đã bị khởi tố, bắt tạm giam, trong đó có một cán bộ Trung tâm Phát triển quỹ đất Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam).

Chiều 25-12, nguồn tin từ Công an TP Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam) cho biết trưa cùng ngày Công an TP Tam Kỳ, đã tiến hành khám xét nhà ở và tống đạt các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam đối với ông Huỳnh Điệp, cán bộ Trung tâm Phát triển quỹ đất TP Tam Kỳ về hành vi “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ”.

Ông Huỳnh Điệp (ngồi chống tay) vừa bị khởi tố, bắt tạm giam
Ngoài ông Điệp, Công an TP Tam Kỳ còn bắt thêm ông Đoàn Nhơn (ngụ thôn Trà Lang, xã Tam Ngọc, TP Tam Kỳ).
Trong quá trình thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng tuyến đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi đi qua địa phận xã Tam Ngọc, Điệp đã được Nhơn giúp sức kê khống tài sản của người dân để chiếm đoạt tiền của Nhà nước. Số tiền 2 đối tượng này chiếm đoạt bao nhiêu hiện chưa được tiết lộ. Vụ việc đang được Công an TP Tam Kỳ tiếp tục điều tra làm rõ.
Người dân xã Tam Ngọc đưa quan tài lên đường cao tốc trước đó

Người dân xã Tam Ngọc đưa quan tài lên đường cao tốc trước đó
Trước đó, như Báo Người Lao Động đã thông tin, ngày 10-11, anh Đoàn Văn Tịnh (SN 1974, ngụ thôn Trà Lang, xã Tam Ngọc) và nhiều người dân cùng xã đã mang quan tài đặt trên công trường đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi để đòi quyền lợi. Sau đó, chính quyền TP Tam Kỳ đã tổ chức buổi đối thoại và nhận trách nhiệm trước người dân.
Đến nay, vụ việc của anh Tịnh vẫn chưa giải quyết xong do có nhiều hộ dân “nhảy vào” tranh chấp mảnh đất mà trước đó chính quyền xã Tam Ngọc xác nhận thuộc về gia đình anh Tịnh. Mới đây, lãnh đạo TP Tam Kỳ đã chỉ đạo thanh tra quá trình xác nhận nguồn gốc đất của cán bộ xã Tam Ngọc để có cơ sở giải quyết. Đến nay, kết luận thanh tra vẫn chưa được công bố.
Theo Tin-ảnh: Tr.Thường (Báo Người lao động điện tử)

Tuyển dụng sai 214 giáo viên, hàng loạt cán bộ bị đề nghị kỷ luật

Người đứng đầu cơ quan phải kiểm điểm trách nhiệm, tự nhận hình thức kỷ luật trong việc trực tiếp ký hợp đồng lao động; cán bộ phòng Nội vụ, Giáo dục, hiệu trưởng các trường phải làm rõ trách nhiệm tham mưu.

Sở Nội vụ Hà Tĩnh vừa có văn bản kiến nghị kỷ luật những cá nhân, tổ chức của thị xã Kỳ Anh và huyện Kỳ Anh liên quan tới sai phạm trong tuyển dụng 214 giáo viên, nhân viên hợp đồng. Ngoài việc kiểm điểm về mặt Đảng đối với tập thể UBND huyện Kỳ Anh (cũ), Sở Nội vụ đề nghị các cá nhân liên quan như lãnh đạo UBND huyện, lãnh đạo và công chức các phòng, hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường (kể cả người đang nghỉ chờ hưu, đã chuyển công tác) phải viết bản tự kiểm điểm trách nhiệm cá nhân trong lĩnh vực được phân công.
Các cá nhân, tổ chức được yêu cầu tự nhận hình thức kỷ luật. Người đứng đầu phải kiểm điểm trách nhiệm trong việc trực tiếp ký hợp đồng lao động. Các cán bộ công chức Phòng Nội vụ, Phòng Giáo dục, hiệu trưởng các trường có sử dụng lao động… phải kiểm điểm làm rõ trách nhiệm trong công tác phối hợp tham mưu ký hợp đồng, sử dụng lao động, thực hiện chế độ chính sách cho người lao động.
Sở yêu cầu các cá nhân liên quan gửi bản kiểm điểm đến Chủ tịch UBND huyện Kỳ Anh và UBND thị xã Kỳ Anh. Hồ sơ xử lý đối với cá nhân vi phạm gửi về tỉnh trước ngày 31/12.

Thứ trưởng Nội vụ Nguyễn Anh Tuấn nghe các giáo viên bày tỏ nguyện vọng trong buổi làm việc tại Hà Tĩnh cách đây hai tháng. Ảnh: Đức Hùng
Trước đó vào tháng 8, thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh Hà Tĩnh, UBND huyện Kỳ Anh và thị xã Kỳ Anh đã chấm dứt hợp đồng lao động đối với 214 giáo viên (gồm mầm non, tiểu học và trung học cơ sở). Lý do bởi trước đây khi chưa tách địa giới hành chính, huyện Kỳ Anh tuyển giáo viên hợp đồng, nhưng không qua xét tuyển. Nay tỉnh Hà Tĩnh yêu cầu tinh giảm biên chế, chỉ những trường hợp ký hợp đồng, qua xét tuyển từ tỉnh mới được giữ lại.
Việc phải nghỉ dạy đột ngột khiến nhiều giáo viên búc xúc, gửi đơn cầu cứu tới nhiều ban ngành của tỉnh và Trung ương bày tỏ nguyện vọng được tiếp tục đứng lớp. Ngày 26/10, đoàn công tác của Bộ Nội vụ do Thứ trưởng Trần Anh Tuấn dẫn đầu đã về Hà Tĩnh làm việc, tuy nhiên kết quả cũng không khả quan.
Thứ trưởng Tuấn đánh giá "về mặt pháp luật thì chấm dứt hợp đồng là thỏa thuận giữa người lao động và chủ sử dụng, khi có nhu cầu thì ký, không có nữa thì chấm dứt là đúng", đồng thời đề nghị Nghị Hà Tĩnh rút kinh nghiệm trong chỉ đạo các kỳ tuyển dụng sau. Cá nhân ông sẽ trao đổi với tỉnh để đánh giá, phân loại từng trường hợp để trong kỳ thi tới mọi người đều được đăng ký dự tuyển.
Đến nay trong số 214 giáo viên vừa bị chấm dứt hợp đồng thì huyện Kỳ Anh đã có 36 người nộp hồ sơ, 9 người không đủ điều kiện nộp vì bằng Trung cấp, 6 người đủ điều kiện nhưng chưa nộp. Thị xã Kỳ Anh có 21 người đã nộp hồ sơ, 5 người không đủ điều kiện nộp do bằng Trung cấp. Sở Nội vụ Hà Tĩnh đã có văn bản tham mưu cho UBND tỉnh Hà Tĩnh điều chỉnh điều kiện dự tuyển để cho phép những người trong diện 214 giáo viên ở Kỳ Anh bị cắt hợp đồng có bằng trung cấp, đại học hệ từ xa được nộp hồ sơ.
Theo Đức Hùng (vnexpress.net)

Tuesday, December 22, 2015

Những thượng đế ăn đòn của Tân Hiệp Phát cùng chung 1 kịch bản nào

Anh Võ Văn Minh không phải khách hàng đầu tiên của Tân Hiệp Phát vào tù khi phát hiện sản phẩm của công ty này có lỗi và đưa ra trao đổi. Điều đáng nói là con đường dẫn các “thượng đế” của Tân Hiệp Phát vào tù đều có chung một ‘kịch bản’.

“Thượng đế” và những “cú đòn”
Không phải đến phiên tòa xét xử anh Minh người ta mới biết “cú đòn” của Tân Hiệp Phát dành cho khách hàng khi phát hiện sản phẩm có lỗi và đưa ra trao đổi. Thế nhưng, với những người dân ít có điều kiện tiếp xúc với báo chí, mạng xã hội thì sự việc này vẫn còn mới. Nếu không có cách giải quyết khác, họ có thể rơi vào ‘kịch bản’ tương tự bất cứ lúc nào.
“Nếu không có vụ anh Minh, có khi tôi cũng phải đi tù”, chị chị Bùi Thị Tiên (ngụ ấp 1, xã Đô Thạnh, TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang) bức xúc khi nói về cách hành xử của Tân Hiệp Phát. Chị Tiên đã đến tham dự phiên tòa xử anh Minh ngày 17 và 18/12 vì quan tâm đến sự việc. Chị cho rằng mình may mắn vì đã biết thông tin vụ anh Minh nên mới không nghe Tân Hiệp Phát “dụ” để đi khiếu nại ở Ban bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thế nhưng không phải ai cũng may như chị Tiên.
Tân Hiệp Phát, Number 1, Number One, Dr Thanh, Number 1 có ruồi, Trà xanh không độ
Chai nước Number 1 của Tân Hiệp Phát bị tố "có ruồi bên trong"
Ngày 5/6/2012, anh N.Q.T. (thợ bạc, ngụ Q.Bình Thạnh, TP.HCM) mua chai Trà xanh không độ của Tân Hiệp Phát cũng phát hiện bên trong có con gián chết dù chai nước còn hạn sử dụng, nhãn mác còn nguyên và chưa khui nắp.
Anh T. đã điện thoại lên công ty phản ánh sau đó là những cuộc gặp gỡ. Anh đề nghị Tân Hiệp Phát giao 50 triệu đồng để đổi lấy chai trà trên và sự im lặng.
Cuộc gặp giữa anh và nhân viên Tân Hiệp Phát cũng được nhân viên công ty lập biên bản với nội dung: “Phía công ty yêu cầu xem sản phẩm, anh T. cung cấp sản phẩm (sản xuất ngày 14/11/2011, hạn sử dụng 14/11/2012). Công ty cảm ơn anh T., đề nghị anh cho đổi sản phẩm, tặng 2 - 4 thùng trà cảm ơn. Anh T. không chấp nhận đề nghị và giữ nguyên yêu cầu công ty trả 50 triệu đồng, nếu không sẽ công bố thông tin cho nhiều người biết...”.
Khi anh T. vừa nhận tiền, ghi biên bản, ký tên xong cũng bị công an ập vào bắt quả tang. Ngày 17/7/2013, anh T. bị TAND quận Bình Thạnh (TP.HCM) tuyên phạt 3 năm tù.
Theo thông tin trên báo chí, sau khi anh Minh bị bắt, một kỹ sư tên H. từng bị TAND quận Gò Vấp (TP.HCM) tuyên phạt 1 năm tù về tội “cưỡng đoạt tài sản” cũng lên tiếng.
Anh H. cho biết trong lần đi nghỉ mát, anh phát hiện một chai Dr Thanh mình mua để uống có lợn cợn bên trong. Giữ nguyên bao bì sản phẩm, anh yêu cầu phía Tân Hiệp Phát phải bồi thường 70 triệu đồng.
Như một “kịch bản” có sẵn, phía công ty đề nghị tặng anh 2 thùng nước ngọt và xin lại chai nước nhưng anh không đồng ý. Cuối cùng, công ty đồng ý giao cho anh 35 triệu đồng để đổi chai nước và sự im lặng. Rồi anh cũng bị công an bắt quả tang khi đang nhận tiền và vướng vòng lao lý.
Ngoài những trường hợp trên, ngày 16/12/2011, bà N.T.T.H. (chủ quán ăn, ngụ phường Trảng Dài, TP Biên Hòa, Đồng Nai) cũng đã bị công an còng tay khi “bắt quả tang” bà đang nhận từ Tân Hiệp Phát 49 triệu đồng. Khởi điểm sự việc là bà phát hiện 5 chai nước (1 chai nước Number 1, 4 chai sữa đậu nành Soya Number 1) của Tân Hiệp Phát có lỗi.
Qua các cuộc gặp gỡ, thương lượng, bà được nhận 49 triệu đồng từ Tân Hiệp Phát bồi thường thiệt hại về doanh thu do nghỉ bán hàng. Trưa 16/12/2011, khi bà H. đang nhận tiền phía công ty thì có nhóm người mặc thường phục tự xưng là Công an TP Biên Hòa ập vào bắt giữ, còng tay. Sau khi nhận thấy đây là giao dịch dân sự giữa hai bên, bà đã được công an thả ra trong ngày.
“Họ bảo ký gì thì bị cáo ký”
Với phiên tòa xử anh Minh ngày 17 và 18/12, trong phần trả lời thẩm vấn, anh Võ Văn Minh khai những cuộc gặp gỡ đều được nhân viên của Tân Hiệp Phát lập biên bản. Anh đã ký nhiều biên bản mà phía Tân Hiệp Phát yêu cầu. Tòa hỏi nội dung các biên bản là gì, người đàn ông chỉ quen với công việc bán bún riêu nhiều lần trả lời: “Không biết”.
“Không biết nội dung biên bản là gì mà bị cáo vẫn ký sao?” - “Bị cáo không hiểu biết pháp luật, người ta bảo ký gì thì bị cáo ký” – anh Minh nói và khai thêm rằng phía Tân Hiệp Phát trước đó đã chủ động đưa ra con số 100 triệu đồng để đổi lại chai nước và sự im lặng. Điều này có nghĩa là Tân Hiệp Phát đã chủ động thương lượng.
Thế nhưng những thông tin liên quan đến con số 100 triệu đồng trên lại không được ghi nhận trong biên bản làm việc giữa hai bên. Phía Tân Hiệp Phát phủ nhận điều này nên lời khai của anh Minh không được chấp nhận.
 
Bị cáo Võ Văn Minh tại phiên xử ngày 17/12. Ảnh: Mai Phượng
Cũng liên quan đến chữ ký, vị Hội thẩm nhân dân đặt câu hỏi “lúc gặp nhân viên công ty, bị cáo đề nghị Tân Hiệp Phát mua lại chai nước hay thế nào?” - “Bị cáo đã bảo họ mua lại chai nước đó”. “Tại cuộc gặp cuối cùng ở quán cà phê, khi bị cáo nhận tiền rồi bỏ vào cốp xe mà bị công an bắt thì lúc đó chai nước ai giữ?” - “Nhân viên Tân Hiệp Phát đã nhận lại chai nước này” - anh Minh trả lời.
“Vậy khi lập biên bản thu chai nước cơ quan điều tra có niêm phong không?” - “Không” - “Không niêm phong vậy sao lại có chữ ký của bị cáo ở bao bì niêm phong?” - “Về đến cơ quan điều tra rồi bị cáo mới ký”.
Vị Hội thẩm nói tiếp: “Chai nước đã thu giữ suốt thời gian dài rồi sao bị cáo biết là có đúng chai nước bị cáo mua không mà bị cáo ký niêm phong. Đó là chính bị cáo hại bị cáo. Niêm phong tang vật là phải niêm phong tại chỗ. Bị cáo nhớ lại đi có chắc chắn vậy không?” – “Dạ chắc”, anh Minh trả lời.

Theo Mai Phượng (Báo Vietnamnet)

Monday, December 21, 2015

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 23

TIN LIÊN QUAN



MỞ ĐẦU
Nhà nước với tư cách là chủ thể mang quyền lực xã hội, thực hiện chức năng quản lý (cai trị) và đáp ứng dịch vụ cho xã hội công dân. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng, đòi hỏi Nhà nước ta phải không ngừng cải cách và hoàn thiện toàn diện về thể chế pháp luật, tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước. Với chức năng và vai trò của mình, Nhà nước tiến hành các hoạt động quản lý về mọi mặt nhằm giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội; văn hóa; khoa học-công nghệ; giáo dục;…
Để thực hiện các mục tiêu, chiến lược đó, Nhà nước tiến hành nhiều hình thức, biện pháp nhằm duy trì sự ổn định và phát triển mọi mặt của đất nước theo từng giai đoạn nhất định. Xu hướng tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi các quốc gia phải không ngừng cải thiện mọi mặt, trong đó đặc biệt chú trọng đến môi trường đầu tư; thủ tục hành chính; chính sách ưu đãi;… làm cơ sở để thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong những năm qua, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội gắn với an ninh quốc phòng được quan tâm xây dựng và khuyến khích phát triển trong phạm vi cả nước, đặc biệt chú ý đến các trung tâm lớn; các vùng kinh tế trọng yếu và các vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, đã đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó, các cấp, ngành và địa phương trên cơ sở pháp luật và các chức năng được phân cấp, chủ động, sáng tạo phát huy khả năng, thế mạnh của địa phương phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
Thực tiễn thực hiện chính sách thu hồi đất của Nhà nước phục vụ cho sự nghiệp quốc phòng, phát triển kinh tế-xã hội, trong thời gian qua là một chủ trương đúng đắn và phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của đất nước. Song, tỷ lệ các dự án hoàn thành có chất lượng còn ở một chừng mực nhất định. Tình hình thu hồi đất của Nhà nước ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn chậm so với kế hoạch đặt ra. Điều này xuất phát từ những hạn chế căn bản như: Thể chế pháp luật hiện hành về thực hiện thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo cả về hình thức và nội dung quy phạm. Dẫn đến tình trạng các tỉnh, thành phố thụ động, ỷ nại và khó tổ chức thực hiện trên địa bàn.  Mặt khác, các chính sách của Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư luôn thay đổi, không nhất quán trong những khoảng thời gian nhất định. Bên cạnh đó, tình trạng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư còn hạn chế về năng lực, thiếu tinh thần trách nhiệm và xuống cấp về phẩm chất đạo đức, đã ra những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, độc đoán và quan liêu trong cách xử lý và giải quyết các quyền, lợi ích liên quan đến tổ chức, cá nhân bị thu hồi đất.
Tình trạng nhân dân khiếu kiện nhiều về đất đai gây mất ổn định về trật tự xã hội, cho thấy thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại tố cáo của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ còn chưa “xứng tầm” với vị trí, vai trò được giao.
Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng khóa X, các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan chức năng cần giải quyết dứt điểm tình trạng khiếu kiện của dân, trong đó có khiếu kiện về đất đai; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước trong thời gian tới, đã đòi hỏi:
Bất kỳ một quyết định hành chính nào cũng đều phải thoả mãn các yêu cầu hợp pháp và hợp lý.
- Khi ra các quyết định hành chính chủ thể ban hành quyết định phải dựa vào các căn cứ pháp luật, và phải có tính khả thi, hiện thực.
- Bất cứ một tình huống nào cũng đều chứa đựng những yếu tố pháp  lý, mà việc giải quyết nó cũng đều  dẫn đế một hệ quả pháp lý nhất định và đều tác dộng đến đời sống xã hội.
- Các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai - lĩnh vực rất nhạy cảm, là lĩnh vực thường gây nhiều khiếu nại ở nước ta hiện nay. Vì vậy, khi ra quyết định các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đặc biệt chú ý tới căn cứ pháp lý, phải điều tra tỉ mỉ cặn kẽ mọi tình tiết có liên quan tới vụ việc tình huống.
I) Tình huống
1. Hoàn cảnh ra đời
Chuyện xảy ra với tám hộ gia đình ở khu đường 6 thôn CK xã MT thành phố H. Tám hộ gia đình đã sống trên mảnh đất từ lâu đời sau quá trình cải tạo, khai hoang và phục hồi. Họ đang sinh sống ổn định thì UBND thành phố H ra quyết định thu hồi. Hơn nữa, theo quyết định thu hồi họ không được đền bù và không được xét duyệt vào trường hợp tái định cư. Tám hộ gia đình không biết phải biết làm như thế nào? Lệnh trên đã ký, họ sẽ bị đuổi ra khỏi mảnh đất mà gia đình họ đã gắn bó. Họ không biết rồi đây cuộc sống sẽ ra sao, con cái họ sẽ sống như thế nào khi không có một “tấc đất cắm dùi”. Họ băn khoăn phải chăng quyết định của UBND thành phố H là đúng còn bản thân họ thiếu hiểu biết về pháp luật nên mới lâm vào hoàn cảnh này? Trăm điều lo lắng họ chẳng biết hỏi ai?
2. Diễn biến tình huống
Tám hộ dân thuộc cụm dân cư khu đường 6, thôn CK xã MT Thành phố H. Đất ở của họ có nguồn gốc từ rất lâu đời; trước đây từng là ao hồ, thùng vũng; người dân đã san lấp, cải tạo và khai hoang phục hồi, làm nhà ở, xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh, nó thuộc diện quy hoạch đất ở của khu dân cư nông thôn. Về sau này, từ năm 1992 đến hết năm 2003, khu vực đất ở đây được xã đấu thầu cho các hộ dân thuê theo từng năm.
Đến cuối năm 2005, UBND thành phố H ra quyết định thu hồi một phần đất của tám hộ dân này để làm đường gom ven Quốc lộ 6 và họ đã chấp hành nghiêm chỉnh, bàn giao mặt bằng cho nhà nước. Đến ngày 21/12/2006, tám hộ ở điểm dân cư nông thôn này lại nhận được thông báo về việc thu hồi nốt phần đất còn lại để tỉnh xây dựng khu tái định cư. Đồng thời UBND xã MT thông báo với những hộ dân này rằng: Họ không thuộc diện được tái định cư ở đây. Vì không có chỗ ở nên tám hộ dân này không bàn giao phần đất còn lại cho chính quyền.
Ngày 20/3/2007, Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản thông báo ý kiến của chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương án giải quyết chỗ ở tái định cư cho họ. UBND thành phố H lập luận rằng: Đất các hộ dân ở hiện (nay thuộc diện giải phóng mặt bằng để xây dựng khu tái định cư đường gom Quốc lộ 6) được UBND xã MT cho thuê hàng năm để kinh doanh là đất công điền của xã và đất nông nghiệp giao lâu dài, không phải là đất ở. Việc xây dựng nhà ở của các hộ dân trên đất thuê hàng năm là trái phép. UBND thành phố H giao cho UBND xã MT ra thông báo hợp đồng đã hết hạn. Đồng thời UBND xã có trách nhiệm tổng hợp tất cả các biên bản vi phạm hành chính về san lấp xây dựng của từng hộ.
Đã hàng mấy chục năm nay rồi, khu vực đất tám hộ dân thôn CK làm ăn, sinh sống không còn là đất công điền của xã và đất nông nghiệp giao lâu dài nữa. Thực tế nó đã trở thành điểm dân cư nông thôn theo quy định của Luật Xây dựng. Tại điểm dân cư nông thôn này, người dân đã xây dựng nhà ở và sinh sống ổn định.
Trước hoàn cảnh mất nhà, mất đất, các hộ gia đình đành khiếu nại lên UBND thành phố, đề nghị được giải quyết quyền lợi của mình. Ngày 28/3/2007 Uỷ ban nhân dân huyện H triệu tập 8 hộ gia đình có khiếu nại tới giải quyết và thông báo diện tích đất họ đang sử dụng là không hợp pháp. UBND thành phố sẽ thu hồi và không đền bù đất đai. Trước sự bất bình của các hộ, UBND thành phố đã thông báo sẽ xem xét để hỗ trợ cho các hộ về hoa màu, cây cối trên đất của họ. Tám hộ gia đình vẫn không đồng tình với kết luận của UBND, họ cho rằng UBND thành phố đã quyết định sai pháp luật.
Ngày 29/3/2007 Uỷ ban nhân dân huyện H có công văn trả lời đơn khiếu nại của các hộ gia đình nói trên với nội dung bồi thường về hoa màu, cây cối trên đất cho tám hộ gia đình thuộc diện bị thu hồi. Các hộ gia đình đã quyết định khiếu nại lên UBND tỉnh để giải quyết.
Và chỉ sau mấy hôm sau khi nhận được công văn trả lời đơn khiếu nại và trong khi chờ đợi quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp tỉnh, các hộ đã thấy những xe ủi tiến vào khu đất của họ. Hỏi ra mới biết UBND thành phố đã hợp đồng san ủi mặt bằng chuẩn bị xây dựng cơ sở hạ tầng. UBND thành phố dự kién sẽ phân chia lô đất và thông báo rộng rãi cho các hộ gia đình có nhu cầu xin cấp đất làm nhà ở. Các hộ gia đình đã kiên quyết không cho máy ủi làm việc và họ thề sống chết với mảnh đất của mình. Phó Chủ tịch UBND thành phố đã đến và cho rằng các hộ gia đình đã vi phạm pháp luật và ra “tối hậu thư” nếu các hộ gia đình không sớm rời khỏi khu đất, chính quyền sẽ cưỡng chế. Ông cho rằng phương án quy hoạch tái định cư đã được UBND tỉnh phê duyệt, không có lý gì không thực hiện được. Thực tế là UBND thành phố đã thu tiền của một số hộ có nhu cầu sử dụng đất đối với diện tích đất mà UBND thành phố quyết định thu hồi từ tám hộ gia đình nói trên.
II) Phân tích, xử lý tình huống
1. Mục tiêu giải quyết tình huống
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt. Việc thu hồi đất của người dân là thu hồi tư liệu sản xuất của họ, ảnh hưởng không chỉ đến đời sống của gia đình họ mà còn tác động đến cả tương lai, nghề nghiệp của bản thân các thành viên trong gia đình và hiện tại. Việc thu hồi đất dù là đất thổ cư hay đất thổ canh đều phải tính toán việc đền bù hợp lý để người dân có điều kiện đảm bảo cuộc sống cho hiện tại và sau này. Nhận thức sâu sắc về vấn đề, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến các vấn đề về thu hồi đất, giải phóng mặt bằng. Các chính sách về giải phóng mặt bằng của Nhà nước đều hướng tới bảo đảm những quyền lợi của người dân, giúp người dân sớm ổn định được đời sống.
Tình huống về thu hồi đất của UBND thành phố H một lần nữa cho thấy hiện nay còn có những biểu hiện sai phạm trong việc thực hiện các chính sách. Đúng như nhận định của Đảng ta trong Văn kiện Đại hội Đảng IX: “Nhiều chính sách tốt đã bị bóp méo về nền hành chính quan liêu”. Những sai phạm của chính quyền xã và huyện trong tình huống trên cũng cho thấy còn tồn tại sự thiếu hiểu biết về chính sách, pháp luật của một số cán bộ chính quyền cũng như tinh thần trách nhiệm của họ trong việc bảo đảm các quyền lợi của người dân. Chính vì vậy, trong quá trình giải quyết tình huống, chúng ta phải làm rõ được những hành vi vi phạm pháp luật, chỉ ra những nguyên nhân và những hậu quả từ những sai phạm của chính quyền thành phố từ đó lựa chọn các phương án giải quyết hợp lý, hợp tình.
2.  Cơ sở lý luận
Đàng và Nhà nước ta đang nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nơi mà Pháp chế là yêu cầu, đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và Pháp luật một cách thường xuyên, liên tục, không ngừng đấu tranh chống tội phạm, các vi phạm Pháp luật khác, các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng… Pháp chế là một trong các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, đồng thời là nguyên tắc trong hành vi, xử sự của công dân.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi sự bảo đảm sự thống nhất của pháp chế. Nội dung của yêu cầu này thể hiện ở chỗ là Pháp luật phải được nhận thức và thực hiện thống nhất trong cả nước và ở tất cả các ngành, các cấp, ở trung ương, địa phương. Văn bản của cơ quan Nhà nước ở địa phương phải phù hợp, không mâu thuẫn với văn bản do cơ quan Nhà nước cấp trên ban hành.
       Tính thống nhất của pháp chế không loại trừ việc cân nhắc những điều kiện của ngành, của địa phương khi thực hiện pháp luật. Các cơ quan nhà nước ở các ngành, các cấp một mặt phải thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã được quy định thống nhất cho cả nước, mặt khác, trong thực hiện pháp luật cần phải tính đến những hoàn cảnh, điều kiện, đặc thù của ngành, cấp, của địa phương để tìm kiếm những hình thức thực hiện pháp luật một cách sáng tạo, năng động trong giới hạn pháp luật cho phép.
       Sự thống nhất của pháp chế được bảo đảm bằng hiệu lực tối cao của luật so với các văn bản dưới luật khác. Các văn bản dưới luật khác phải phù hợp với luật. Sự thống nhất của pháp chế phù hợp với việc sáng tạo, áp dụng pháp luật của từng địa phương, từng cơ sở, trên cơ sở thực hiện các văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương ban hành, không trái với những quy phạm pháp luật có tính đến điều kiện cụ thể những đặc thù của địa phương. Tuy nhiên, các văn bản do các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương ban hành không được trái với những điều luật đã quy định.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Bảo đảm và bảo vệ các quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân. Quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân được hiến pháp quy định và được cụ thể hoá trong các văn bản luật và  văn bản dưới luật, được các cơ quan nhà nước đề ra các biện pháp cụ thể để bảo đảm thực hiện và bảo vệ. Trong việc cụ thể hoá quyền lợi của công dân phải bảo đảm việc hạn chế quyền công dân ghi trong hiến pháp bằng các đạo luật, tránh sự hạn chế một cách tuỳ tiện.
       Bất kỳ vi phạm pháp luật nào cũng đều xâm phạm trực tiếp hay gián tiếp tới lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân. Vì vậy, các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải xử lý nhanh chóng, công minh và có hiệu quả đối với những vi phạm đó. Thực hiện điều đó cần phải kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động, thi hành các biện pháp có hiệu quả nhằm ngăn chặn và loại trừ tệ tham nhũng, hối lộ, cửa quyền. Trong các cơ quan công quyền nghiêm trị những phần tử thoái hoá, biến chất, làm sa sút lòng tin của nhân dân. Các cơ quan Toà án, kiểm sát, thanh tra, công an... phải dựa vào nhân dân, các tổ chức quần chúng, phát động phong trào đấu tranh, phòng chống tội phạm để phát hiện và xử lý kịp thời những vụ vi phạm pháp luật.
       Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hỏi mọi hoạt động của Nhà nước, xã hội đều phải tuân theo pháp luật. Quản lý hành chính nhà nước với ý nghĩa là hoạt động thực thi quyền hành pháp nhằm tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi của công dân do các cơ quan trong hệ thống hành chính từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện được chức năng, duy trì trật tự, an ninh, thỏa mãn nhu cầu hàng ngày của nhân dân cũng không nằm ngoài nguyên tắc pháp chế.
Hiệu quả của mỗi hoạt động quản lý nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó năng lực, kỹ năng góp phần quan trọng để khẳng định cái ”tôi” của mỗi cá nhân trong xã hội. Cùng được đào tạo chuyên môn, cùng một môi trường công tác như nhau nhưng họ khác nhau về phương pháp làm việc, về cách thức đạt được kết quả dẫn tới hiệu quả công việc của họ rất khác nhau. Mỗi nghề cần có những yêu cầu về năng lực, kỹ năng đặc thù để thích ứng. Việc xác định những năng lực, kỹ năng cần thiết cho một nghề để từ đó đặt ra mục tiêu rèn luyện, phấn đấu; mặt khác để các nhà quản lý có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức, những kỹ năng còn chưa đáp ứng yêu cầu công việc cho họ là một việc làm có ý nghĩa xã hội to lớn.
Kỹ năng là sự thành thạo trong thực hiện có kết quả một tác nghiệp; nó được hình thành qua quá trình học hỏi, đào tạo và tích luỹ kinh nghiệm. Các kỹ năng cơ bản của công chức (cả nhân viên và cán bộ quản lý) ở công sở đòi hỏi cần có kỹ năng nhận thức, chuyên môn, thu thập và xử lý thông tin, giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết), quan hệ (với cấp trên, cấp dưới, đồng nghiệp, với dân và tổ chức), ra quyết định, thực thi - quản lý và kiểm tra... Kỹ năng đối với công chức nói chung được hiểu là, khả năng vận dụng một cách thuần thục những kiến thức, kinh nghiệm thu nhận được trong một lĩnh vực (công vụ) nào đó vào thực tiễn nhằm tăng hiệu lực, hiệu qủa công việc.
       3. Phân tích tình huống
Có thể nói, tình huống trên có rất nhiều điều cần phải xem xét. Tám hộ gia đình tại thôn CK đã sinh sống ổn định trên mảnh đất của họ từ một thời gian dài. Mảnh đất của họ đang sinh sống theo quy định của pháp luật đã đủ điều kiện để được cấp giấy nhận quyền sử dụng đất chưa? Nếu những mảnh đất này có đủ điều kiện để được xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì quyền lợi của các hộ gia đình sẽ được đảm bảo như thế nào?
Cùng với vấn đề trên là một thời gian dài UBND xã MT đã cho tám hộ gia đình thuê đất từ năm 1992 đến năm 2003. Việc UBND xã MT cho thuê đất có đúng thẩm quyền của chính quyền cấp xã trong quản lý nhà nước về đất đai cũng là một điều cần được làm rõ.
Việc UBND xã MT thông báo tám hộ gia đình không thuộc diện tái định cư có phải là một việc tùy tiện, thiếu cơ sở pháp luật hay không cũng cần được giải đáp.
Vấn đề cuối cùng là việc Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản thông báo ý kiến của chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương án giải quyết chỗ ở tái định cư cho họ. Điều này phải chăng là một sự bất hợp lý và cũng chẳng hợp tình.
Có thể nói tình huống trên đặt ra hàng loạt những câu hỏi cần có lời giải đáp:
a. Dịên tích đất tám hộ dân đang sinh sống tại thôn CK, xã MT, thành phố H có thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không?
b. Ý kiến về việc uỷ ban nhân dân xã MT cho tám hộ dân thuộc thôn CK, xã MT thuê đất trong suốt quá trình từ năm 1992 đến hết năm 2003?
c. UBND xã MT thông báo cho tám hộ dân trên rằng họ không thuộc diện được tái định cư ở đây là đúng hay sai?
d. Có nhận xét gì về việc: Ngày 21/12/2006, Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản thông báo ý kiến của chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương án giải quyết chỗ ở tái định cư cho họ.
đ. Việc UBNF thành phố cho san ủi mặt bằng khi Công văn trả lời khiếu nại “chưa ráo mực”, người dân chưa kê khai hoa màu, cây cối có đúng quy định của pháp luật?
e. Việc UBND thành phố thu tiền sử dụng đất của các hộ có nhu cầu sử dụng đất đối với mảnh đất sắp được thu hồi có đúng quy định của pháp luật?
Từ những câu hỏi trên chúng ta cần tìm là biện pháp để giải quyết tình huống trên theo đúng quy định của pháp luật.
4. Giải quyết tình huống
a. Diện tích đất tám hộ dân đang sinh sống tại thôn CK, xã MT, thành phố H thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì, theo quy định tại khoản 6, điều 50 Luật Đất đai được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003 thì: "Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành (tức trước ngày 01/7/2004), nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ". Như vậy, diện tích đất tám hộ dân trên đang sử dụng thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất. Trên thực tế, họ đã sinh sống ổn định tại điểm dân cư nông thôn này từ trước năm 2004, không có tranh chấp và hiện nay lại phù hợp với quy hoạch xây dựng khu tái định cư. Điều này cũng có nghĩa quyền lợi của người dân về đất đai ở đây phải được bảo đảm, tôn trọng.
b. Ý kiến về việc UBND xã MT cho tám hộ dân thuộc thôn CK, xã MT thuê đất trong suốt quá trình từ năm 1992 đến hết năm 2003.
Thứ nhất, theo quy định của luật đất đai năm 2003, tại khoản 3 Điều 37: "UBND xã, phường, thị trấn cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã". Tuy nhiên trong tình huống trên, đất mà tám hộ dân đang ở thuộc đất khu dân cư nông thôn chứ không phải là quỹ đất nông nghiệp vì vậy UBND xã MT không có thẩm quyền cho thuê loại đất này. Thẩm quyền cho thuê loại đất này (nếu được) thuộc về UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (khoản 2, Điều 37, Luật Đất đai năm 2003).
Thứ hai, trong hơn mười năm (từ năm 1992 đến hết năm 2003), chính quyền xã MT đã thu từ hợp đồng cho thuê đất bao nhiêu tiền, hạch toán ra sao là điều phải làm rõ để xử lý những người vi phạm. Tại khoản 1, Điều 71 Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 16/12/2002 quy định: "Những khoản thu không đúng quy định của pháp luật phải được hoàn trả tổ chức, cá nhân đã nộp".
c. UBND xã MT thông báo cho tám hộ dân trên rằng họ không thuộc diện được tái định cư ở đây là trái với quy định tại khoản 2, Điều34, Nghị định 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất: "Ưu tiên tái định cư tại chỗ cho người bị thu hồi đất tại nơi có dự án tái định cư, ưu tiên vị trí thuận lợi cho các hộ sớm thực hiện giải phóng mặt bằng, hộ có vị trí thuận lợi tại nơi ở cũ, gia đình chính sách". Đối chiếu với tình huống đặt ra, tám hộ dân thôn CK xã MT thuộc diện người bị thu hồi đất tại nơi có dự án tái định cư. Mặt khác, họ lại là những người nghiêm chỉnh chấp hành quyết định thu hồi một phần đất của họ của UBND thành phố H khi có kế hoạch làm đường gom ven Quốc lộ 6. Do vậy, về nguyên tắc họ phải là những người được ưu tiên bố trí tái định cư. Việc UBND xã MT lại thông báo tám hộ dân này không thuộc diện tái định cư là hoàn toàn vô căn cứ.
d. Ngày 21/12/2006, Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản thông báo ý kiến của Chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương án giải quyết chỗ ở tái định cư cho họ.
Văn bản thông báo ý kiến của chủ tịch UBND thành phố H như trên là trái quy định của pháp luật.   
Việc cưỡng chế thi hành quyết định thu hồi đất được quy đinh tại điều 47, Nghị định 197/2004/NĐ-CP (đã dẫn ở trên) chỉ được thực hiện khi chính quyền đã thực hiện đúng các quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư mà "người bị thu hồi đất cố tình không thực hiện quyết định thu hồi đất thì cơ quan quyết định thu hồi đất ra quyết định cưỡng chế và tổ chức thực hiện cưỡng chế theo quy định của pháp luật". Theo tình huống đặt ra, UBND tỉnh H chưa thực hiện đúng các quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư mà đã có văn bản yêu cầu thực hiện biện pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà của tám hộ dân xã MT. Đây là việc làm không hợp pháp và bất chấp chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ: "Từ nay, các địa phương không được cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở khi người bị thu hồi đất chưa được giải quyết chỗ tái định cư’’ (Chỉ thị số 05/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/02/2006 về việc khắc phục yếu kém, sai phạm, tiếp tục đẩy mạnh tổ chức thi hành Luật Đất đai).
đ. Khi công dân đang khiếu nại hành vi Uỷ ban nhân dân huyện đã cho san ủi để xây dựng cơ sở hạ tầng và phân lô để cấp cho các gia đình có nhu cầu làm nhà ở đây là hành vi hành chính vừa không hợp pháp, hợp lý. Vì số đất tuy Uỷ ban nhân dân thành phố H đã có quyết định thu hồi nhưng còn đang tranh chấp giữa Uỷ ban nhân dân với các công dân. Quyết định giải quyết khiếu nại của Uỷ ban nhân dân thành phố H chưa phải là quyết định giải quyết cuối cùng theo quy định điều 23 Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 2/12/1998 . Vì vậy, Uỷ ban nhân dân chưa có quyền định đoạt về mặt pháp lý số phận đất đai nói trên.
Việc làm của UBND thành phố H là trái với quy đinh tại Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25-5-2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện (Điều 63). Khoản 1 quy định “Trong thời hạn không quá chín mươi ngày, kể từ ngày Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện có quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý đất đai quy định tại Điều 162 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không đồng ý với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó thì có quyền nộp đơn khiếu nại đến ủy ban nhân dân cấp huyện”.
Theo quy định này thời hiệu khiếu nại là 90 ngày (Điều 163 Nghị định 181/2004/NĐ-CP quy định là 30 ngày), quy định này mở rộng quyền của người khiếu nại và phù hợp với quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp huyện thì có quyền khởi kiện ra Toà án nhân dân hoặc khiếu nại đến ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Nếu khiếu nại đến ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thời hạn quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh là quyết định giải quyết lần hai, phải được công bố công khai và gửi cho người khiếu nại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai không thuộc trường hợp quy định tại Điều 63 và Điều 64 Nghị định 84/2007/NĐ-CP. Trước đây nếu Nghị định 181/2004/NĐ-CP quy định chỉ có Chủ tịch UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết khiếu nại đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình thì Điều 65, Nghị định quy định “Việc giải quyết khiếu nại đối với hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường; hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Văn phòng ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Văn phòng ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quyết định hành chính của Sở Tài nguyên và Môi trường và quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh không thuộc trường hợp quy định tại Điều 63 và Điều 64 Nghị định 84/2007/NĐ-CP được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo”.
Từ những phân tích, luận giải ở trên, chúng ta có thể đưa ra các phương án giải quyết cho tình huống trên:
1) Đối với các hộ gia đình có đất bị thu hồi
Thứ nhất, Đối với khoản tiền thu được từ việc cho thuê của UBND xã MT, Chủ tịch UBND thành phố chỉ đạo việc kiểm tra, xem xét và kết luận về thu và sử dụng các khoản thu này. Theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước "Những khoản thu không đúng quy định của pháp luật phải được hoàn trả tổ chức, cá nhân đã nộp". Vì vậy, Chủ tịch UBND thành phố cần chỉ đạo UBND xã MT có phương án hoàn trả tiền thuê đất cho các hộ gia đình.
Thứ hai, UBND thành phố phải ban hành Quyết định hủy bỏ Thông báo của Văn phòng UBND thành phố về việc cưỡng chế buộc tháo dỡ các công trình xây dựng của tám hộ gia đình.
Sau khi thực hiện các công tác trên, UBND thành phố có thể lựa chọn một trong các phương án sau đây:
- Phương án 1: Căn cứ vào hiện trạng đất của 8 hộ gia đình trên, Chủ tịch UBND thành H xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho họ và thu tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào quy hoạch khu vực tái định cư của tỉnh để xác định diện tích của các hộ gia đình trong khu vực được nhận. Diện tích đất của các hộ nếu còn thừa ra thì thực hiện thu hồi song phải có đền bù theo quy định của pháp luật. Phương án này có ưu điểm là cuộc sống của tám hộ gia đình ít biến động. Tuy nhiên, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thu tiền cũng tùy thuộc vào khả năng kinh tế của các hộ. Hơn nữa, nếu thực hiện theo phương án này có thể ít nhiều ảnh hưởng đến quy hoạch tổng thể khu vực tái định cư.
- Phương án 2: Xây dựng phương án tái định cư cho tám hộ gia đình trong khu vực. Sau đó, thu hồi toàn bộ diện tích đất của các hộ gia đình có đền bù theo quy định của Chính phủ và Quyết định của UBND tỉnh. Phương án này giúp UBND thành phố chủ động thực hiện quy hoạch tái định cư. Người dân vẫn đảm bảo quyền lợi của mình đồng thời chính quyền có thể thực hiện được phương án quy hoạch đã được phê duyệt. Xét một cách tổng thể, phương án này nên được triển khai.
Từ phía người dân trong trường hợp UBND thành phố H không giải quyết quyền lợi của họ thì các hộ dân có thể có hai hướng để bảo vệ quyền lợi của mình.
Thứ nhất, các hộ gia đình khởi kiện quyết định của UBND thành phố H đến Tòa hành chính thành phố H.
Thứ hai, các hộ gia đình khiếu nại lên Chủ tịch UBND cấp tỉnh để Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết.
2) Đối với các hộ gia đình đã nộp tiền để nhận được quyền sử dụng đất
Uỷ ban nhân dân thành phố H, tuy chưa có quyết định bằng văn bản cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất cho các hộ đăng ký xin được cấp đất. Nhưng việc thông báo của Uỷ ban nhân dân thành phố H và việc đăng ký, nộp tiền đầy đủ của các hộ dân cư thực chất là đã ký kết "hợp đồng hành chính". Trong đó, những người xin cấp đất đã  thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. Vì vậy, Uỷ ban nhân dân thành phố H cũng phải thực hiện nghĩa vụ đối với dân cư. Nhưng trong hợp đồng này, cơ quan hành chính nhà nước có đặc quyền hành chính là thay đổi điều kiện "hợp đồng hành chính" ở những nội dung không căn bản. Từ vấn đề lý luận có tính nguyên tắc như vậy, phương án đặt ra để giải quyết sự kiện này là:
- Uỷ ban nhân dân thành phố H cần phải họp mặt các hộ gia đình đã nộp tiền sử dụng đất để thống nhất lại với họ về địa điểm, mặt bằng, ra quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ đã đăng ký và nộp tiền đầy đủ và rút bớt diện tích của từng lô đất xuống một cách hợp lý sao cho phù hợp quy hoạch;
- Hoàn trả lại cho các hộ đăng ký và đã nộp đủ tiền đất số tiền chênh lệch (nếu có) sau khi đã điều chỉnh lại diện tích sử dụng của họ.
Việc thực hiện phương án này chừng mực nhất định sẽ gây phản ứng của những người sẽ đăng ký và đã nộp tiền sử dụng đất. Để thực hiện phương án này Uỷ ban nhân dân thành phố H chỉ còn mỗi biện pháp dựa vào công tác vận động, thuyết phục, không thể dùng mệnh lệnh hành chính. Điều quan trọng hơn cả là nhận khuyết điểm trước nhân dân về những quyết định sai trái của mình, kiểm điểm và thông báo cho đân biết kết quả xử lý những người trực tiếp có khuyết điểm dẫn đến quyết định sai trái của Uỷ ban nhân dân thành phố H. Với cách làm như vậy sẽ giải quyết được tình huống một cách hợp lý, hợp pháp, có tính khả thi.
III) Kiến nghị
       Trong số những yếu tố chủ quan làm suy giảm pháp chế phải kể đến sự kém hiểu biết về pháp luật của cán bộ, công chức nhà nước trong các cơ quan nhà nước, tính quan liêu còn tồn tại trong các bộ máy nhà nước, sự lạm dụng quyền lực nhà nước của những người có chức, có quyền, lạm quyền dẫn đến sự phá hoại pháp chế. Những sự vi phạm như trên dẫn đến sự rệu rã bộ máy nhà nước, làm giảm sự tôn trọng pháp luật, làm suy yếu tính quyền lực của nhà nước, làm giảm tính đấu tranh của cán bộ, nhân viên trong việc xây dựng bộ máy nhà nước. Có thể nói đó là một trong những khâu quan trọng nhất trong việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và mở rộng quyền dân chủ trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Tình huống trên một lần nữa cho thấy những sai phạm trong quản lý nhà nước về đất đai ở địa phương. Sai phạm trong quản lý nhà nước về đất đai không chỉ ở cấp chính quyền cơ sở mà ở cấp chính quyền cao hơn cũng có những sai phạm. Những sai phạm này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân song một nguyên nhân căn bản là cán bộ chính quyền không nắm vững các quy định của pháp luật, chính sách quản lý của nhà nước. Từ đó dẫn đến tình trạng ban hành các quyết định hành chính trái pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Những sai phạm của chính quyền xã MT và thành phố H thực sự là một bài học đối với những người làm công tác quản lý nhà nước về đất đai. Thiết nghĩ để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, UBND tỉnh cần phải xem xét và những quyết định xử lý đúng người, đúng pháp luật trong các sai phạm nói trên. Việc xử lý nghiêm minh sẽ giúp cho các cán bộ, công chức ngày càng ý thức đầy đủ hơn về trách nhiệm của mình trong quản lý, nâng cao trách nhiệm của cá nhân, tổ chức đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Cùng với việc áp dụng các biện pháp xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức có sai phạm, một điều cũng cần được chú ý ở đây là cần phải nâng cao năng lực quản lý của chính quyền các cấp bằng việc tạo điều kiện cho cán bộ, công chức học tập, nâng cao trình độ, cập nhật các quy định của pháp luật, chính sách của Nhà nước tránh những sai phạm do thiếu hiểu biết về chính sách pháp luật. Những sai phạm tiếp nối sai phạm sẽ ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với chính quyền.
KẾT LUẬN
Với tất cả những nguyên nhân nói trên từ quyết định, hành vi không hợp pháp và hợp lý của Uỷ ban nhân dân thành phố H đã dẫn tới tình trạng khiếu kiện của dân, và đặt Uỷ ban nhân dân thành phố H phải giải quyết tình huống do chính mình gây nên. Đây là bài học cần rút kinh nghiệm cho các cấp quản lý.
Để sửa chữa những sai phạm của mình, Chủ tịch UBND thành phố H cần sớm triển khai phương án giải quyết về quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Biết nhận ra sai lầm và sửa chữa với sự công tâm, tinh thần trách nhiệm, tinh thần cầu thị sẽ giúp chính quyền thành phố H nhận được sự tin cậy của nhân dân. Chính quyền quản lý tốt tất yếu sẽ có được uy tín, lòng tin của nhân dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- Luật Đất đai được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003
2- Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 16/12/2002
3- Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 2/12/1998
3- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25-5-2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai
4- Nghị định 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
5-Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 197,...
6- Chỉ thị số 05/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/02/2006 về việc khắc phục yếu kém, sai phạm, tiếp tục đẩy mạnh tổ chức thi hành Luật Đất đai.
7-Báo điện tử Việt Nam nét.





Wednesday, December 30, 2015

Người dân bức xúc CSGT hay xe ôm 'núp lùm' bắn tốc độ?

Bị lập biên bản lỗi chạy quá tốc độ, người vi phạm yêu cầu xem băng ghi hình thì được chỉ lên chỗ một người mặc thường phục đang núp trong lùm… để xem camera. 



Công an hay dân thường núp lùm?
Theo phản ánh của anh N.H (ngụ Q.Tân Bình, TP.HCM) khoảng 9 giờ 50 ngày 26.12, anh chạy xe gắn máy trên đường TL764 thì bị Tổ CSGT Công an huyện Cẩm Mỹ (Đồng Nai) dừng phương tiện và báo lỗi vi phạm tốc độ cho phép.
Anh H. yêu cầu xem hình ảnh vi phạm, thì được một CSGT chỉ lên cách nơi xử lý vi phạm khoảng 800m để xem.
“Chạy tìm khắp ngoài đường không thấy, nhưng sau một hồi tìm kiếm, cuối cùng tôi nhìn vào lùm cây cà phê và thấy có người mặc thường phục đang ngồi ở trong. Tôi được người này cho xem hình ảnh vi phạm. Nhưng khi thắc mắc liệu anh có phải CSGT hay không thì người này không trả lời. Tôi tiếp tục hỏi bắn tốc độ sao không đứng ngoài đường mà phải núp trong lùm cây nhưng người này cũng không trả lời”, anh H. cho hay.

VIDEO: Người vi phạm phát hiện một người mặc thường phục bắn tốc độ trong lùm cây 
Khi thấy anh H. quay phim thì người này liền gom hết đồ đạc và lên xe máy biển số 38U1 - xxxx chạy về phía tổ công tác đang làm nhiệm vụ. Khi anh H. chạy đến nơi tổ công tác đang làm việc thì người bắn tốc độ không còn ở đó.
Kết quả, anh H. bị xử phạt vì vi phạm với tốc độ 63/50 km/giờ, bị giữ giấy tờ xe và hẹn ngày 4.1.2016 đến nộp phạt để lấy giấy tờ. Anh H. cho biết mức phạt được thông báo là 750 ngàn đồng. Anh H. cũng cho biết thêm đoạn đường bị bắn tốc độ rất vắng, gần lô cao su.
“Tôi chỉ thắc mắc là tại sao công an phải núp lùm? Người núp lùm là công an thì tại sao khi tôi hỏi anh ta không trả lời? Tôi vi phạm thì sẵn sàng đóng phạt nhưng CSGT làm việc cũng nên minh bạch, rõ ràng, chứ không phải chỉ canh núp lùm bắn tốc người vi phạm. Nếu CSGT kết hợp với người lạ để thi hành nhiệm vụ là điều mà người dân thật sự bất an”, anh H. nói.
Người dân bức xúc CSGT hay xe ôm 'núp lùm' bắn tốc độ? - ảnh 1
Người thanh niên trong lùm cây cho người vi phạm xem hình ảnh - Ảnh: Trích ra từ clip
Được phép hóa trang bắn tốc độ
Tiếp PV Thanh Niên ngày 29.12, trung tá Ngô Đức Khánh, Đội trưởng Đội CSGT huyện Cẩm Mỹ nói: “Tôi trả lời cũng được nhưng theo quy định của ngành để trả lời báo chí thì anh phải liên hệ với lãnh đạo huyện, nếu lãnh đạo cho phép thì tôi sẽ trả lời”.
Khi chúng tôi đề nghị được mở video (mà anh H. quay được) xem người bắn tốc độ mặc thường phục có phải là CSGT của đơn vị hay không nhưng ông Khánh từ chối.
“Về nguyên tắc, chứng cứ, video quay không phải chứng cứ. Video có thể quay, có thể ghép đủ thứ chuyện nên tôi không thể trả lời, không xác minh cho anh được. Tôi cũng không cần xem video, khi nào người ta đủ chứng cứ, chứng minh được lực lượng cảnh sát làm không đúng quy trình thì sẽ có cơ quan thanh tra người ta xử lý. Còn anh đưa video làm sao tôi dám nói đúng hay sai, tôi không biết video của anh làm bằng cách nào, quay ở đâu”, trung tá Khánh nói.
Người dân bức xúc CSGT hay xe ôm 'núp lùm' bắn tốc độ? - ảnh 2
Sau khi được hỏi có phải là CSGT hay không thì người thanh niên này lên xe bỏ đi mất - Ảnh: Trích ra từ clip
Liên hệ làm việc với lãnh đạo Công an huyện Cẩm Mỹ thì được báo lãnh đạo đi họp vắng. Trao đổi qua điện thoại, bà Trần Thị Ngọc Thuận, Trưởng Công an Huyện Cẩm Mỹ cho biết: “Tôi chưa nghe thông tin này. Tôi về sẽ cho kiểm tra lại và có thông tin trả lời sau”.
Người dân bức xúc CSGT hay xe ôm 'núp lùm' bắn tốc độ? - ảnh 3
Việc núp lùm báo chí cũng đã phản ánh rất nhiều. Làm như vậy có nhiều cái cũng phản cảm và người dân thì họ cảm thấy CSGT làm việc không rõ ràng.
Người dân bức xúc CSGT hay xe ôm 'núp lùm' bắn tốc độ? - ảnh 4
Đại tá Dương Thanh Hải
Trong khi đó, đại tá Dương Thanh Hải - Trưởng Phòng CSGT đường bộ, đường sắt Công an tỉnh Đồng Nai cho hay, theo điều 10 thông tư 65 quy định, cho phép lực lượng CSGT trong quá trình thực hiện các biện pháp nghiệp vụ như: ghi hình bắn tốc độ, dùng camera để quay vượt phải, lấn đường trên các tuyến giao thông được phép hóa trang. Không nhất thiết phải mặc đồ CSGT để đứng bắn tốc độ, mà có thể mặc đồ dân sự (thường phục), có thể mang theo thẻ ngành chứ không cần bảng tên.
Cũng theo đại tá Hải trong văn bản hướng dẫn không có quy định phải đứng như thế nào, đứng ở đâu để bắn tốc độ mà chỗ nào, khu vực giao thông phức tạp, khả năng tai nạn giao thông có thể xảy ra thì CSGT được phép hóa trang sử dụng máy đo tốc độ ghi hình tốc độ để xử lý, nhằm giảm thiểu tại nạn giao thông.
Tuy nhiên, đại tá Hải cũng thừa nhận: “Việc núp lùm báo chí cũng đã phản ánh rất nhiều. Làm như vậy có nhiều cái cũng phản cảm và người dân thì họ cảm thấy CSGT làm việc không rõ ràng”.
Vừa qua, tại kỳ họp HĐND TP.HCM nhiều đại biểu thay mặt cử tri cũng bức xúc việc CSGT hay "núp lùm" để xử phạt người vi phạm, gây nên hình ảnh phản cảm. 
Thanh Niên sẽ tiếp tục thông tin về vụ việc trên đến bạn đọc. 
Theo Tiểu Thiên (Báo Thanh niên điện tử)

Tuesday, December 29, 2015

Vụ Number 1 có ruồi: Nhiều luật sư muốn bào chữa cho anh Minh

Luật sư Nguyễn Hữu Thế Trạch sẽ tham gia bào chữa cho anh Minh ở phiên tòa phúc thẩm. Có khoảng 10 luật sư khác sẵn sàng tham gia bào chữa cho anh Minh nếu có yêu cầu.

Chiều 29/12, trao đổi với VietNamNet, ông Võ Văn Kỹ cho biết vừa viết đơn yêu cầu luật sư Nguyễn Hữu Thế Trạch (Đoàn luật sư TP.HCM) bào chữa cho con trai là anh Võ Văn Minh (35 tuổi, ngụ huyện Cái Bè, tỉnh Tiền Giang) - người vừa bị TAND tỉnh Tiền Giang tuyên phạt 7 năm tù giam vì tội “Cưỡng đoạt tài sản” trong vụ án xảy ra với công ty Tân Hiệp Phát.
Ông Kỹ cho biết đã tiếp xúc với luật sư Trạch vào lúc 10 giờ cùng ngày tại Tiền Giang.
“Tôi đã tự viết đơn yêu cầu luật sư Thế Trạch bào chữa cho con trai tại phiên toà phúc thẩm. Gia đình chỉ mong muốn phiên tòa sắp tới sẽ tuyên Minh không phạm tội. Hiện chúng tôi đang mong từng giờ, từng ngày tới ngày xét xử phúc thẩm” - ông Kỹ cho biết.


Anh Minh tại phiên xử sơ thẩm ngày 17/12. Ảnh: Mai Phượng
Còn luật sư Thế Trạch cho biết do gia đình của anh Minh yêu cầu và mời nên ông sẽ tham gia bào chữa miễn phí cho anh Minh trong phiên phúc thẩm tới đây.
“Tôi cũng đã xem xét và nắm rất rõ hồ sơ vụ án này. Tôi đang chuẩn bị tất cả hồ sơ và sẽ đem tất cả năng lực của mình để cố gắng bào chữa cho anh Minh” - ông Trạch nói.
Theo luật sư Thế Thạch thì phiên tòa phúc thẩm xét xử anh Minh có thể diễn ra sau Tết nguyên đán. Theo thủ tục thì hồ sơ vụ án sẽ nằm ở cấp sơ thẩm từ 30 - 45 ngày, sau đó mới được chuyển lên cấp phúc xem xét rồi lên lịch xử.
Trả lời trên báo chí về phiên tòa phúc thẩm sắp tới, luật sư Phạm Hoài Nam - một trong hai luật sư tham gia bào chữa cho anh Minh trong phiên tòa sơ thẩm vừa qua cho biết sẽ sẵn sàng tham gia bào chữa cho anh Minh khi có yêu cầu. Luật sư Hoài Nam cũng cho biết thêm, sẽ có khoảng 10 luật sư sẵn sàng tham gia bảo vệ cho anh Minh tại phiên tòa phúc thẩm.

Theo Hoài Thanh (báo Vietnamnet.vn)

Sunday, December 27, 2015

Phạt cắt điện nếu cô dâu mặc váy cưới trong ngày trọng đại

Cô dâu trong ngày trọng đại không được mặc váy cưới mà chỉ được mặc áo tân thời. Nếu vi phạm, gia đình sẽ bị cắt điện một tuần…



Cô dâu mặc váy cưới trong ngày trọng đại sẽ bị phạt cắt điện 1 tuần

Từ nhiều năm nay, thị trấn Yên Lạc (với tên gọi cũ là Minh Tân, huyện Yên Lạc, tỉnh Vĩnh Phúc) duy trì những quy ước riêng lạ lùng. Theo đó, đám cưới của thanh niên trong thị trấn chỉ được tổ chức vào 2 ngày mùng 2 hoặc 16 âm lịch hằng tháng.

Chính quyền nơi này đã quyết định làm một "cuộc cách mạng nhỏ" khi đưa ra quy ước cưới xin độc đáo, một "thương hiệu" và điểm nhấn không thể lẫn vào đâu được tại địa phương và các tỉnh, thành khác trong cả nước. Theo đó, đám cưới chỉ được tổ chức vào 2 ngày trong tháng âm lịch là mùng 2 và 16.

Cùng với quy định ngày cưới, thị trấn Yên Lạc cũng quy định cụ thể về cách thức tổ chức như: không làm sân khấu, không dùng loa nén, không làm cổng chào, không dùng lẵng hoa, dùng các loại bóng điện thường thắp sáng, tiết kiệm chi tiêu, không tổ chức ăn lại mặt sau khi cưới...

Đặc biệt hơn cả là cô dâu không được mặc váy cưới, mà chỉ được mặc áo tân thời. Nếu gia đình nào vi phạm quy ước đều phải chịu một hình phạt rất đặc biệt là bị... cắt điện trong một tuần.

Anh D. (một người dân thị trấn) kể lại: “Vợ tôi ở xã bên, trước đám cưới cô ấy rất háo hức đi ngắm váy cưới. Thế nhưng khi tôi bảo thị trấn chỗ anh không cho mặc váy đâu, nếu làm vợ anh, em phải chấp nhận điều kiện này đầu tiên. Cô ấy cũng chỉ còn biết thốt lên: “Úi trời, sao lại có chuyện kỳ lạ vậy"”.

Nói đúng hơn, mặc váy chỗ nào thì mặc, nhưng khi cô dâu đã vào địa phận thị trấn Yên Lạc phải lập tức cởi ra.

Trong những ngày được thị trấn cho phép tổ chức cưới xin, người dân thị trấn dành tất cả thời gian để đi dự đám cưới, chìm trong không khí chúc tụng, cỗ bàn.

“Chúng tôi gọi đó là những ngày hội của thị trấn - ngày hội đám cưới độc nhất vô nhị mà chẳng nơi đâu trên đất nước này có được”, ông Duyên, một vị cao niên hóm hỉnh thổ lộ.

Tất cả các quy định đều được mọi người trong thị trấn hoàn toàn nhất trí. Cái hơn thiệt của quy ước này được ông Duyên phân tích rạch ròi: “Thị trấn quy định thế này là để dân tiết kiệm thời gian, cũng như chi phí, chống lãng phí trong toàn dân. Đơn giản như trong hai ngày mùng 2 và 16, nhà anh có 4 người thì chia nhau mỗi người tới một đám, có 4 đám chỉ hết một hoặc nửa ngày là xong. Đấy là tiết kiệm về thời gian, những ngày sau không phải đi đám cưới nào nữa”.

Vui nhất có lẽ là những gia đình đông con như gia đình bà Nguyễn Thị Bàn, khu phố 3, thôn Đông, có 5 anh con trai đều đã tổ chức theo nếp sống mới của địa phương. Còn gia đình bà Dương Thị Hạnh có 6 anh con trai thì có 4 anh đã lập gia đình, cũng rất phấn khởi khi thực hiện nếp sống mới trong tục cưới xin ở địa phương.

Bà Bàn nở nụ cười tươi, giọng đầy hồ hởi: "Tiết kiệm lắm cháu ạ. Nếu tổ chức như xưa có khi giờ bác và các con vẫn phải làm mà trả nợ đám cưới cũng nên".

Xây mộ phần cho người sắp mất

Việc quy định ngày cưới có phần hạn chế việc tự do lựa chọn ngày cưới của mỗi gia đình, mỗi cặp uyên ương. Tuy vậy, nếu được lựa chọn, có lẽ đại đa số vẫn sẽ bỏ phiếu tán thành cho sự tồn tại của nó như một dấu ấn đặc biệt mà không ở nơi đâu có được.


                                                        Xây mộ phần cho người sống

Ngoài chuyện cưới xin lạ đời, thị trấn này còn dành quỹ đất và tiền giúp xây phần mộ chuẩn bị cho những người sắp mất. Tại một nghĩa trang của thị trấn, hàng chục ngôi mộ xây sẵn, nằm ngăn ngắn ngay lối vào. Đằng sau mỗi tấm bia mộ, đều được đánh số thứ tự, được thị trấn xây sẵn để chờ phục vụ… người chết. Có những ngôi mộ đã mồ yên mả đẹp, khói hương nghi ngút. Song không ít những ngôi mộ còn "chưa có người ở", vẫn đang trong tình trạng lộ thiên.

Ông Hoàng Văn Kha (người dân thị trấn Yên Lạc) cho biết, cách đây gần chục năm, thị trấn Yên Lạc đã đề xuất quy hoạch, rồi thiết kế và xây sẵn mộ ở nghĩa trang. Nghĩa là, mỗi làng sẽ có một nghĩa trang. Tại nghĩa trang của từng làng, luôn có 120 ngôi mộ xây sẵn. Mỗi ngôi có chiều dài 2 mét, chiều cao bằng nhau.

Ông Kha cũng giải thích: "Thời gian từ lúc người mất đến lúc cải táng là 3 năm thì năm đầu địa phương xây 40 mộ, các năm còn lại, mỗi năm xây thêm 40 phần mộ nữa. Các phần mộ được đánh số từ 1 đến 40. Vậy là người quá cố cũng có vị trí, thứ tự của riêng mình.

Người nào "ra trước" thì ở nhà số trước, lần lượt cho đến hết các số thứ tự. Sau thời gian 3 năm, người nào được chôn cất ở hàng mộ đầu tiên sẽ được cải táng sang địa điểm khác. Nếu có người mất sau này, thì lại chôn vào mộ đó. Mọi việc tuần tự và rất quy củ".

"Những ngôi mộ đó được địa phương đứng ra xây, còn tiền thì do những nhà hảo tâm, công đức ủng hộ. Làm như vậy, vừa tiết kiệm đất, lại vừa sạch sẽ, gọn gàng, không ảnh hưởng đến môi trường". Ông Kha chia sẻ.

Ông Phạm Xuân Tân (một người dân thị trấn Yên Lạc) phân tích: "Nhiều nơi họ làm phân tán, phí ruộng, phí đất. Đang đường cày thẳng tắp, trâu chạy băng băng thì vướng vào phần mộ, lại phải lách sang mà làm, bất tiện lắm chứ. Địa phương chúng tôi quy hoạch thế này, không chỉ sạch đẹp, gọn gàng, mà lại rất khang trang”.

Theo Đào Tấn (báo Người đưa tin điện tử)

Khởi tố lái xe Sở GTVT Nghệ An dùng xe biển xanh “làm luật”

Với việc sử dụng xe công của Sở GTVT Nghệ An chạy sang Hà Tĩnh dùng gậy dừng phương tiện giao thông “làm luật”, tài xế Nguyễn Viết Hoàng bị khởi tố về hành vi cưỡng đoạt tài sản.

Tài xế Nguyễn Việt Hoàng bị khởi tố về hành vi cưỡng đoạt tài sản khi lái xe biển xanh sang Hà Tĩnh "làm luật" xe tải
Chiều ngày, 26/12, Trung tá Nguyễn Quang Thành, Trưởng Công an huyện Nghi Xuân, cho biết, đơn vị này vừa ra quyết định khởi tố bị can đối với Nguyễn Viết Hoàng (SN 1980, là lái xe của Sở GTVT Nghệ An) về hành vi cưỡng đoạt tài sản.
Trước đó, chiều ngày 19/12, lái xe Nguyễn Việt Hoàng điều khiển xe ô tô biển xanh BKS 37A - 9569 của Sở GTVT Nghệ An chở theo một người bạn sang huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh) đi chơi. 
Trên đường đi, Hoàng dừng xe, sử dụng gậy dừng phương tiện giao thông đi trên đường để “làm luật”. Bị người đi đường phản ứng thì Hoàng cho rằng mình là thanh tra giao thông Nghệ An sang Hà Tĩnh “tăng cường”, rồi lái xe bỏ đi. 
Hành vi khuất tất của Thành đã bị người dân phát hiện ghi lại được hình ảnh, sau đó trình báo tới Công an huyện Nghi Xuân. 
Khoảng 16h cùng ngày, khi Hoàng đang lái xe qua trạm thu phí Cầu Bến Thủy để về Nghệ An thì bị lực lượng CSGT Công an huyện Nghi Xuân dừng phương tiện yêu cầu về trụ sở làm việc. Tuy nhiên, lái xe này vẫn không chịu chấp hành mà lái xe đâm vào các phương tiện, sau đó bị cảnh sát khống chế. 
Qua kiểm tra, lái xe đã sử dụng bia rượu khi điều khiển giao thông, nồng độ cồn vượt quá mức cho phép, CSGT Công an huyện Nghi Xuân đã có quyết định xử phạt vi phạm hành chính số tiền 13 triệu đồng đối với tài xế Nguyễn Viết Hoàng.
Sau khi nhận được thông báo, Sở GTVT Nghệ An cũng đã tiến hành đình chỉ công tác đối với lái xe Nguyễn Việt Hoàng. 
Theo ông Nguyễn Hồng Kỳ, Giám đốc Sở GTVT Nghệ An cho biết, Nguyễn Việt Hoàng là tài xế hợp đồng của cơ quan, sáng ngày 19/12, lái xe chính đã nhờ Hoàng giữ chìa khóa xe vì có việc gia đình, Hoàng đã điều khiển xe ô tô biển xanh trên sang Hà Tĩnh và gây ra sự việc trên. 
Sau khi xảy ra sự việc xảy ra, ba tài xế xe tải đã đến Cơ quan công an tố cáo hành vi của Hoàng. Tại CQĐT Hoàng đã thừa nhận hành vi dừng xe “làm luật” của mình./.
Theo Ngô Toàn (Báo Pháp luật Việt Nam điện tử)

Friday, December 25, 2015

Bắt một cán bộ Trung tâm Phát triển quỹ đất Tam Kỳ

 2 đối tượng phối hợp kê khống tài sản để hưởng tiền đền bù đã bị khởi tố, bắt tạm giam, trong đó có một cán bộ Trung tâm Phát triển quỹ đất Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam).

Chiều 25-12, nguồn tin từ Công an TP Tam Kỳ (tỉnh Quảng Nam) cho biết trưa cùng ngày Công an TP Tam Kỳ, đã tiến hành khám xét nhà ở và tống đạt các quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam đối với ông Huỳnh Điệp, cán bộ Trung tâm Phát triển quỹ đất TP Tam Kỳ về hành vi “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong thi hành công vụ”.

Ông Huỳnh Điệp (ngồi chống tay) vừa bị khởi tố, bắt tạm giam
Ngoài ông Điệp, Công an TP Tam Kỳ còn bắt thêm ông Đoàn Nhơn (ngụ thôn Trà Lang, xã Tam Ngọc, TP Tam Kỳ).
Trong quá trình thực hiện bồi thường, giải phóng mặt bằng tuyến đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi đi qua địa phận xã Tam Ngọc, Điệp đã được Nhơn giúp sức kê khống tài sản của người dân để chiếm đoạt tiền của Nhà nước. Số tiền 2 đối tượng này chiếm đoạt bao nhiêu hiện chưa được tiết lộ. Vụ việc đang được Công an TP Tam Kỳ tiếp tục điều tra làm rõ.
Người dân xã Tam Ngọc đưa quan tài lên đường cao tốc trước đó

Người dân xã Tam Ngọc đưa quan tài lên đường cao tốc trước đó
Trước đó, như Báo Người Lao Động đã thông tin, ngày 10-11, anh Đoàn Văn Tịnh (SN 1974, ngụ thôn Trà Lang, xã Tam Ngọc) và nhiều người dân cùng xã đã mang quan tài đặt trên công trường đường cao tốc Đà Nẵng – Quảng Ngãi để đòi quyền lợi. Sau đó, chính quyền TP Tam Kỳ đã tổ chức buổi đối thoại và nhận trách nhiệm trước người dân.
Đến nay, vụ việc của anh Tịnh vẫn chưa giải quyết xong do có nhiều hộ dân “nhảy vào” tranh chấp mảnh đất mà trước đó chính quyền xã Tam Ngọc xác nhận thuộc về gia đình anh Tịnh. Mới đây, lãnh đạo TP Tam Kỳ đã chỉ đạo thanh tra quá trình xác nhận nguồn gốc đất của cán bộ xã Tam Ngọc để có cơ sở giải quyết. Đến nay, kết luận thanh tra vẫn chưa được công bố.
Theo Tin-ảnh: Tr.Thường (Báo Người lao động điện tử)

Tuyển dụng sai 214 giáo viên, hàng loạt cán bộ bị đề nghị kỷ luật

Người đứng đầu cơ quan phải kiểm điểm trách nhiệm, tự nhận hình thức kỷ luật trong việc trực tiếp ký hợp đồng lao động; cán bộ phòng Nội vụ, Giáo dục, hiệu trưởng các trường phải làm rõ trách nhiệm tham mưu.

Sở Nội vụ Hà Tĩnh vừa có văn bản kiến nghị kỷ luật những cá nhân, tổ chức của thị xã Kỳ Anh và huyện Kỳ Anh liên quan tới sai phạm trong tuyển dụng 214 giáo viên, nhân viên hợp đồng. Ngoài việc kiểm điểm về mặt Đảng đối với tập thể UBND huyện Kỳ Anh (cũ), Sở Nội vụ đề nghị các cá nhân liên quan như lãnh đạo UBND huyện, lãnh đạo và công chức các phòng, hiệu trưởng, phó hiệu trưởng các trường (kể cả người đang nghỉ chờ hưu, đã chuyển công tác) phải viết bản tự kiểm điểm trách nhiệm cá nhân trong lĩnh vực được phân công.
Các cá nhân, tổ chức được yêu cầu tự nhận hình thức kỷ luật. Người đứng đầu phải kiểm điểm trách nhiệm trong việc trực tiếp ký hợp đồng lao động. Các cán bộ công chức Phòng Nội vụ, Phòng Giáo dục, hiệu trưởng các trường có sử dụng lao động… phải kiểm điểm làm rõ trách nhiệm trong công tác phối hợp tham mưu ký hợp đồng, sử dụng lao động, thực hiện chế độ chính sách cho người lao động.
Sở yêu cầu các cá nhân liên quan gửi bản kiểm điểm đến Chủ tịch UBND huyện Kỳ Anh và UBND thị xã Kỳ Anh. Hồ sơ xử lý đối với cá nhân vi phạm gửi về tỉnh trước ngày 31/12.

Thứ trưởng Nội vụ Nguyễn Anh Tuấn nghe các giáo viên bày tỏ nguyện vọng trong buổi làm việc tại Hà Tĩnh cách đây hai tháng. Ảnh: Đức Hùng
Trước đó vào tháng 8, thực hiện chỉ đạo của UBND tỉnh Hà Tĩnh, UBND huyện Kỳ Anh và thị xã Kỳ Anh đã chấm dứt hợp đồng lao động đối với 214 giáo viên (gồm mầm non, tiểu học và trung học cơ sở). Lý do bởi trước đây khi chưa tách địa giới hành chính, huyện Kỳ Anh tuyển giáo viên hợp đồng, nhưng không qua xét tuyển. Nay tỉnh Hà Tĩnh yêu cầu tinh giảm biên chế, chỉ những trường hợp ký hợp đồng, qua xét tuyển từ tỉnh mới được giữ lại.
Việc phải nghỉ dạy đột ngột khiến nhiều giáo viên búc xúc, gửi đơn cầu cứu tới nhiều ban ngành của tỉnh và Trung ương bày tỏ nguyện vọng được tiếp tục đứng lớp. Ngày 26/10, đoàn công tác của Bộ Nội vụ do Thứ trưởng Trần Anh Tuấn dẫn đầu đã về Hà Tĩnh làm việc, tuy nhiên kết quả cũng không khả quan.
Thứ trưởng Tuấn đánh giá "về mặt pháp luật thì chấm dứt hợp đồng là thỏa thuận giữa người lao động và chủ sử dụng, khi có nhu cầu thì ký, không có nữa thì chấm dứt là đúng", đồng thời đề nghị Nghị Hà Tĩnh rút kinh nghiệm trong chỉ đạo các kỳ tuyển dụng sau. Cá nhân ông sẽ trao đổi với tỉnh để đánh giá, phân loại từng trường hợp để trong kỳ thi tới mọi người đều được đăng ký dự tuyển.
Đến nay trong số 214 giáo viên vừa bị chấm dứt hợp đồng thì huyện Kỳ Anh đã có 36 người nộp hồ sơ, 9 người không đủ điều kiện nộp vì bằng Trung cấp, 6 người đủ điều kiện nhưng chưa nộp. Thị xã Kỳ Anh có 21 người đã nộp hồ sơ, 5 người không đủ điều kiện nộp do bằng Trung cấp. Sở Nội vụ Hà Tĩnh đã có văn bản tham mưu cho UBND tỉnh Hà Tĩnh điều chỉnh điều kiện dự tuyển để cho phép những người trong diện 214 giáo viên ở Kỳ Anh bị cắt hợp đồng có bằng trung cấp, đại học hệ từ xa được nộp hồ sơ.
Theo Đức Hùng (vnexpress.net)

Tuesday, December 22, 2015

Những thượng đế ăn đòn của Tân Hiệp Phát cùng chung 1 kịch bản nào

Anh Võ Văn Minh không phải khách hàng đầu tiên của Tân Hiệp Phát vào tù khi phát hiện sản phẩm của công ty này có lỗi và đưa ra trao đổi. Điều đáng nói là con đường dẫn các “thượng đế” của Tân Hiệp Phát vào tù đều có chung một ‘kịch bản’.

“Thượng đế” và những “cú đòn”
Không phải đến phiên tòa xét xử anh Minh người ta mới biết “cú đòn” của Tân Hiệp Phát dành cho khách hàng khi phát hiện sản phẩm có lỗi và đưa ra trao đổi. Thế nhưng, với những người dân ít có điều kiện tiếp xúc với báo chí, mạng xã hội thì sự việc này vẫn còn mới. Nếu không có cách giải quyết khác, họ có thể rơi vào ‘kịch bản’ tương tự bất cứ lúc nào.
“Nếu không có vụ anh Minh, có khi tôi cũng phải đi tù”, chị chị Bùi Thị Tiên (ngụ ấp 1, xã Đô Thạnh, TP Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang) bức xúc khi nói về cách hành xử của Tân Hiệp Phát. Chị Tiên đã đến tham dự phiên tòa xử anh Minh ngày 17 và 18/12 vì quan tâm đến sự việc. Chị cho rằng mình may mắn vì đã biết thông tin vụ anh Minh nên mới không nghe Tân Hiệp Phát “dụ” để đi khiếu nại ở Ban bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng.
Thế nhưng không phải ai cũng may như chị Tiên.
Tân Hiệp Phát, Number 1, Number One, Dr Thanh, Number 1 có ruồi, Trà xanh không độ
Chai nước Number 1 của Tân Hiệp Phát bị tố "có ruồi bên trong"
Ngày 5/6/2012, anh N.Q.T. (thợ bạc, ngụ Q.Bình Thạnh, TP.HCM) mua chai Trà xanh không độ của Tân Hiệp Phát cũng phát hiện bên trong có con gián chết dù chai nước còn hạn sử dụng, nhãn mác còn nguyên và chưa khui nắp.
Anh T. đã điện thoại lên công ty phản ánh sau đó là những cuộc gặp gỡ. Anh đề nghị Tân Hiệp Phát giao 50 triệu đồng để đổi lấy chai trà trên và sự im lặng.
Cuộc gặp giữa anh và nhân viên Tân Hiệp Phát cũng được nhân viên công ty lập biên bản với nội dung: “Phía công ty yêu cầu xem sản phẩm, anh T. cung cấp sản phẩm (sản xuất ngày 14/11/2011, hạn sử dụng 14/11/2012). Công ty cảm ơn anh T., đề nghị anh cho đổi sản phẩm, tặng 2 - 4 thùng trà cảm ơn. Anh T. không chấp nhận đề nghị và giữ nguyên yêu cầu công ty trả 50 triệu đồng, nếu không sẽ công bố thông tin cho nhiều người biết...”.
Khi anh T. vừa nhận tiền, ghi biên bản, ký tên xong cũng bị công an ập vào bắt quả tang. Ngày 17/7/2013, anh T. bị TAND quận Bình Thạnh (TP.HCM) tuyên phạt 3 năm tù.
Theo thông tin trên báo chí, sau khi anh Minh bị bắt, một kỹ sư tên H. từng bị TAND quận Gò Vấp (TP.HCM) tuyên phạt 1 năm tù về tội “cưỡng đoạt tài sản” cũng lên tiếng.
Anh H. cho biết trong lần đi nghỉ mát, anh phát hiện một chai Dr Thanh mình mua để uống có lợn cợn bên trong. Giữ nguyên bao bì sản phẩm, anh yêu cầu phía Tân Hiệp Phát phải bồi thường 70 triệu đồng.
Như một “kịch bản” có sẵn, phía công ty đề nghị tặng anh 2 thùng nước ngọt và xin lại chai nước nhưng anh không đồng ý. Cuối cùng, công ty đồng ý giao cho anh 35 triệu đồng để đổi chai nước và sự im lặng. Rồi anh cũng bị công an bắt quả tang khi đang nhận tiền và vướng vòng lao lý.
Ngoài những trường hợp trên, ngày 16/12/2011, bà N.T.T.H. (chủ quán ăn, ngụ phường Trảng Dài, TP Biên Hòa, Đồng Nai) cũng đã bị công an còng tay khi “bắt quả tang” bà đang nhận từ Tân Hiệp Phát 49 triệu đồng. Khởi điểm sự việc là bà phát hiện 5 chai nước (1 chai nước Number 1, 4 chai sữa đậu nành Soya Number 1) của Tân Hiệp Phát có lỗi.
Qua các cuộc gặp gỡ, thương lượng, bà được nhận 49 triệu đồng từ Tân Hiệp Phát bồi thường thiệt hại về doanh thu do nghỉ bán hàng. Trưa 16/12/2011, khi bà H. đang nhận tiền phía công ty thì có nhóm người mặc thường phục tự xưng là Công an TP Biên Hòa ập vào bắt giữ, còng tay. Sau khi nhận thấy đây là giao dịch dân sự giữa hai bên, bà đã được công an thả ra trong ngày.
“Họ bảo ký gì thì bị cáo ký”
Với phiên tòa xử anh Minh ngày 17 và 18/12, trong phần trả lời thẩm vấn, anh Võ Văn Minh khai những cuộc gặp gỡ đều được nhân viên của Tân Hiệp Phát lập biên bản. Anh đã ký nhiều biên bản mà phía Tân Hiệp Phát yêu cầu. Tòa hỏi nội dung các biên bản là gì, người đàn ông chỉ quen với công việc bán bún riêu nhiều lần trả lời: “Không biết”.
“Không biết nội dung biên bản là gì mà bị cáo vẫn ký sao?” - “Bị cáo không hiểu biết pháp luật, người ta bảo ký gì thì bị cáo ký” – anh Minh nói và khai thêm rằng phía Tân Hiệp Phát trước đó đã chủ động đưa ra con số 100 triệu đồng để đổi lại chai nước và sự im lặng. Điều này có nghĩa là Tân Hiệp Phát đã chủ động thương lượng.
Thế nhưng những thông tin liên quan đến con số 100 triệu đồng trên lại không được ghi nhận trong biên bản làm việc giữa hai bên. Phía Tân Hiệp Phát phủ nhận điều này nên lời khai của anh Minh không được chấp nhận.
 
Bị cáo Võ Văn Minh tại phiên xử ngày 17/12. Ảnh: Mai Phượng
Cũng liên quan đến chữ ký, vị Hội thẩm nhân dân đặt câu hỏi “lúc gặp nhân viên công ty, bị cáo đề nghị Tân Hiệp Phát mua lại chai nước hay thế nào?” - “Bị cáo đã bảo họ mua lại chai nước đó”. “Tại cuộc gặp cuối cùng ở quán cà phê, khi bị cáo nhận tiền rồi bỏ vào cốp xe mà bị công an bắt thì lúc đó chai nước ai giữ?” - “Nhân viên Tân Hiệp Phát đã nhận lại chai nước này” - anh Minh trả lời.
“Vậy khi lập biên bản thu chai nước cơ quan điều tra có niêm phong không?” - “Không” - “Không niêm phong vậy sao lại có chữ ký của bị cáo ở bao bì niêm phong?” - “Về đến cơ quan điều tra rồi bị cáo mới ký”.
Vị Hội thẩm nói tiếp: “Chai nước đã thu giữ suốt thời gian dài rồi sao bị cáo biết là có đúng chai nước bị cáo mua không mà bị cáo ký niêm phong. Đó là chính bị cáo hại bị cáo. Niêm phong tang vật là phải niêm phong tại chỗ. Bị cáo nhớ lại đi có chắc chắn vậy không?” – “Dạ chắc”, anh Minh trả lời.

Theo Mai Phượng (Báo Vietnamnet)

Monday, December 21, 2015

Tiểu luận tình huống quản lý nhà nước tham khảo số 23

TIN LIÊN QUAN



MỞ ĐẦU
Nhà nước với tư cách là chủ thể mang quyền lực xã hội, thực hiện chức năng quản lý (cai trị) và đáp ứng dịch vụ cho xã hội công dân. Trong điều kiện của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng, đòi hỏi Nhà nước ta phải không ngừng cải cách và hoàn thiện toàn diện về thể chế pháp luật, tổ chức bộ máy và nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước. Với chức năng và vai trò của mình, Nhà nước tiến hành các hoạt động quản lý về mọi mặt nhằm giữ vững an ninh chính trị và trật tự, an toàn xã hội; thúc đẩy sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội; văn hóa; khoa học-công nghệ; giáo dục;…
Để thực hiện các mục tiêu, chiến lược đó, Nhà nước tiến hành nhiều hình thức, biện pháp nhằm duy trì sự ổn định và phát triển mọi mặt của đất nước theo từng giai đoạn nhất định. Xu hướng tất yếu của hội nhập kinh tế quốc tế, đòi hỏi các quốc gia phải không ngừng cải thiện mọi mặt, trong đó đặc biệt chú trọng đến môi trường đầu tư; thủ tục hành chính; chính sách ưu đãi;… làm cơ sở để thu hút đầu tư nước ngoài.
Trong những năm qua, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội gắn với an ninh quốc phòng được quan tâm xây dựng và khuyến khích phát triển trong phạm vi cả nước, đặc biệt chú ý đến các trung tâm lớn; các vùng kinh tế trọng yếu và các vùng có điều kiện kinh tế đặc biệt khó khăn, đã đạt được nhiều thành quả đáng khích lệ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong đó, các cấp, ngành và địa phương trên cơ sở pháp luật và các chức năng được phân cấp, chủ động, sáng tạo phát huy khả năng, thế mạnh của địa phương phát triển kinh tế-xã hội, giữ vững an ninh và trật tự, an toàn xã hội trên địa bàn.
Thực tiễn thực hiện chính sách thu hồi đất của Nhà nước phục vụ cho sự nghiệp quốc phòng, phát triển kinh tế-xã hội, trong thời gian qua là một chủ trương đúng đắn và phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế của đất nước. Song, tỷ lệ các dự án hoàn thành có chất lượng còn ở một chừng mực nhất định. Tình hình thu hồi đất của Nhà nước ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương còn chậm so với kế hoạch đặt ra. Điều này xuất phát từ những hạn chế căn bản như: Thể chế pháp luật hiện hành về thực hiện thủ tục bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất còn nhiều mâu thuẫn, chồng chéo cả về hình thức và nội dung quy phạm. Dẫn đến tình trạng các tỉnh, thành phố thụ động, ỷ nại và khó tổ chức thực hiện trên địa bàn.  Mặt khác, các chính sách của Nhà nước về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư luôn thay đổi, không nhất quán trong những khoảng thời gian nhất định. Bên cạnh đó, tình trạng cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền và đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư còn hạn chế về năng lực, thiếu tinh thần trách nhiệm và xuống cấp về phẩm chất đạo đức, đã ra những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, độc đoán và quan liêu trong cách xử lý và giải quyết các quyền, lợi ích liên quan đến tổ chức, cá nhân bị thu hồi đất.
Tình trạng nhân dân khiếu kiện nhiều về đất đai gây mất ổn định về trật tự xã hội, cho thấy thực trạng công tác thanh tra, kiểm tra và giải quyết khiếu nại tố cáo của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và cán bộ, công chức thực hiện nhiệm vụ còn chưa “xứng tầm” với vị trí, vai trò được giao.
Theo tinh thần của Nghị quyết Đại hội Đảng khóa X, các Bộ, ngành, địa phương và các cơ quan chức năng cần giải quyết dứt điểm tình trạng khiếu kiện của dân, trong đó có khiếu kiện về đất đai; tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động quản lý Nhà nước trong thời gian tới, đã đòi hỏi:
Bất kỳ một quyết định hành chính nào cũng đều phải thoả mãn các yêu cầu hợp pháp và hợp lý.
- Khi ra các quyết định hành chính chủ thể ban hành quyết định phải dựa vào các căn cứ pháp luật, và phải có tính khả thi, hiện thực.
- Bất cứ một tình huống nào cũng đều chứa đựng những yếu tố pháp  lý, mà việc giải quyết nó cũng đều  dẫn đế một hệ quả pháp lý nhất định và đều tác dộng đến đời sống xã hội.
- Các quyết định hành chính trong lĩnh vực quản lý đất đai - lĩnh vực rất nhạy cảm, là lĩnh vực thường gây nhiều khiếu nại ở nước ta hiện nay. Vì vậy, khi ra quyết định các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải đặc biệt chú ý tới căn cứ pháp lý, phải điều tra tỉ mỉ cặn kẽ mọi tình tiết có liên quan tới vụ việc tình huống.
I) Tình huống
1. Hoàn cảnh ra đời
Chuyện xảy ra với tám hộ gia đình ở khu đường 6 thôn CK xã MT thành phố H. Tám hộ gia đình đã sống trên mảnh đất từ lâu đời sau quá trình cải tạo, khai hoang và phục hồi. Họ đang sinh sống ổn định thì UBND thành phố H ra quyết định thu hồi. Hơn nữa, theo quyết định thu hồi họ không được đền bù và không được xét duyệt vào trường hợp tái định cư. Tám hộ gia đình không biết phải biết làm như thế nào? Lệnh trên đã ký, họ sẽ bị đuổi ra khỏi mảnh đất mà gia đình họ đã gắn bó. Họ không biết rồi đây cuộc sống sẽ ra sao, con cái họ sẽ sống như thế nào khi không có một “tấc đất cắm dùi”. Họ băn khoăn phải chăng quyết định của UBND thành phố H là đúng còn bản thân họ thiếu hiểu biết về pháp luật nên mới lâm vào hoàn cảnh này? Trăm điều lo lắng họ chẳng biết hỏi ai?
2. Diễn biến tình huống
Tám hộ dân thuộc cụm dân cư khu đường 6, thôn CK xã MT Thành phố H. Đất ở của họ có nguồn gốc từ rất lâu đời; trước đây từng là ao hồ, thùng vũng; người dân đã san lấp, cải tạo và khai hoang phục hồi, làm nhà ở, xây dựng cơ sở sản xuất kinh doanh, nó thuộc diện quy hoạch đất ở của khu dân cư nông thôn. Về sau này, từ năm 1992 đến hết năm 2003, khu vực đất ở đây được xã đấu thầu cho các hộ dân thuê theo từng năm.
Đến cuối năm 2005, UBND thành phố H ra quyết định thu hồi một phần đất của tám hộ dân này để làm đường gom ven Quốc lộ 6 và họ đã chấp hành nghiêm chỉnh, bàn giao mặt bằng cho nhà nước. Đến ngày 21/12/2006, tám hộ ở điểm dân cư nông thôn này lại nhận được thông báo về việc thu hồi nốt phần đất còn lại để tỉnh xây dựng khu tái định cư. Đồng thời UBND xã MT thông báo với những hộ dân này rằng: Họ không thuộc diện được tái định cư ở đây. Vì không có chỗ ở nên tám hộ dân này không bàn giao phần đất còn lại cho chính quyền.
Ngày 20/3/2007, Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản thông báo ý kiến của chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương án giải quyết chỗ ở tái định cư cho họ. UBND thành phố H lập luận rằng: Đất các hộ dân ở hiện (nay thuộc diện giải phóng mặt bằng để xây dựng khu tái định cư đường gom Quốc lộ 6) được UBND xã MT cho thuê hàng năm để kinh doanh là đất công điền của xã và đất nông nghiệp giao lâu dài, không phải là đất ở. Việc xây dựng nhà ở của các hộ dân trên đất thuê hàng năm là trái phép. UBND thành phố H giao cho UBND xã MT ra thông báo hợp đồng đã hết hạn. Đồng thời UBND xã có trách nhiệm tổng hợp tất cả các biên bản vi phạm hành chính về san lấp xây dựng của từng hộ.
Đã hàng mấy chục năm nay rồi, khu vực đất tám hộ dân thôn CK làm ăn, sinh sống không còn là đất công điền của xã và đất nông nghiệp giao lâu dài nữa. Thực tế nó đã trở thành điểm dân cư nông thôn theo quy định của Luật Xây dựng. Tại điểm dân cư nông thôn này, người dân đã xây dựng nhà ở và sinh sống ổn định.
Trước hoàn cảnh mất nhà, mất đất, các hộ gia đình đành khiếu nại lên UBND thành phố, đề nghị được giải quyết quyền lợi của mình. Ngày 28/3/2007 Uỷ ban nhân dân huyện H triệu tập 8 hộ gia đình có khiếu nại tới giải quyết và thông báo diện tích đất họ đang sử dụng là không hợp pháp. UBND thành phố sẽ thu hồi và không đền bù đất đai. Trước sự bất bình của các hộ, UBND thành phố đã thông báo sẽ xem xét để hỗ trợ cho các hộ về hoa màu, cây cối trên đất của họ. Tám hộ gia đình vẫn không đồng tình với kết luận của UBND, họ cho rằng UBND thành phố đã quyết định sai pháp luật.
Ngày 29/3/2007 Uỷ ban nhân dân huyện H có công văn trả lời đơn khiếu nại của các hộ gia đình nói trên với nội dung bồi thường về hoa màu, cây cối trên đất cho tám hộ gia đình thuộc diện bị thu hồi. Các hộ gia đình đã quyết định khiếu nại lên UBND tỉnh để giải quyết.
Và chỉ sau mấy hôm sau khi nhận được công văn trả lời đơn khiếu nại và trong khi chờ đợi quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp tỉnh, các hộ đã thấy những xe ủi tiến vào khu đất của họ. Hỏi ra mới biết UBND thành phố đã hợp đồng san ủi mặt bằng chuẩn bị xây dựng cơ sở hạ tầng. UBND thành phố dự kién sẽ phân chia lô đất và thông báo rộng rãi cho các hộ gia đình có nhu cầu xin cấp đất làm nhà ở. Các hộ gia đình đã kiên quyết không cho máy ủi làm việc và họ thề sống chết với mảnh đất của mình. Phó Chủ tịch UBND thành phố đã đến và cho rằng các hộ gia đình đã vi phạm pháp luật và ra “tối hậu thư” nếu các hộ gia đình không sớm rời khỏi khu đất, chính quyền sẽ cưỡng chế. Ông cho rằng phương án quy hoạch tái định cư đã được UBND tỉnh phê duyệt, không có lý gì không thực hiện được. Thực tế là UBND thành phố đã thu tiền của một số hộ có nhu cầu sử dụng đất đối với diện tích đất mà UBND thành phố quyết định thu hồi từ tám hộ gia đình nói trên.
II) Phân tích, xử lý tình huống
1. Mục tiêu giải quyết tình huống
Đất đai là tư liệu sản xuất đặc biệt. Việc thu hồi đất của người dân là thu hồi tư liệu sản xuất của họ, ảnh hưởng không chỉ đến đời sống của gia đình họ mà còn tác động đến cả tương lai, nghề nghiệp của bản thân các thành viên trong gia đình và hiện tại. Việc thu hồi đất dù là đất thổ cư hay đất thổ canh đều phải tính toán việc đền bù hợp lý để người dân có điều kiện đảm bảo cuộc sống cho hiện tại và sau này. Nhận thức sâu sắc về vấn đề, Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm đến các vấn đề về thu hồi đất, giải phóng mặt bằng. Các chính sách về giải phóng mặt bằng của Nhà nước đều hướng tới bảo đảm những quyền lợi của người dân, giúp người dân sớm ổn định được đời sống.
Tình huống về thu hồi đất của UBND thành phố H một lần nữa cho thấy hiện nay còn có những biểu hiện sai phạm trong việc thực hiện các chính sách. Đúng như nhận định của Đảng ta trong Văn kiện Đại hội Đảng IX: “Nhiều chính sách tốt đã bị bóp méo về nền hành chính quan liêu”. Những sai phạm của chính quyền xã và huyện trong tình huống trên cũng cho thấy còn tồn tại sự thiếu hiểu biết về chính sách, pháp luật của một số cán bộ chính quyền cũng như tinh thần trách nhiệm của họ trong việc bảo đảm các quyền lợi của người dân. Chính vì vậy, trong quá trình giải quyết tình huống, chúng ta phải làm rõ được những hành vi vi phạm pháp luật, chỉ ra những nguyên nhân và những hậu quả từ những sai phạm của chính quyền thành phố từ đó lựa chọn các phương án giải quyết hợp lý, hợp tình.
2.  Cơ sở lý luận
Đàng và Nhà nước ta đang nỗ lực xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa nơi mà Pháp chế là yêu cầu, đòi hỏi các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp và Pháp luật một cách thường xuyên, liên tục, không ngừng đấu tranh chống tội phạm, các vi phạm Pháp luật khác, các hiện tượng tiêu cực, tham nhũng… Pháp chế là một trong các nguyên tắc cơ bản trong tổ chức, hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tổ chức chính trị- xã hội, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân, đồng thời là nguyên tắc trong hành vi, xử sự của công dân.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi sự bảo đảm sự thống nhất của pháp chế. Nội dung của yêu cầu này thể hiện ở chỗ là Pháp luật phải được nhận thức và thực hiện thống nhất trong cả nước và ở tất cả các ngành, các cấp, ở trung ương, địa phương. Văn bản của cơ quan Nhà nước ở địa phương phải phù hợp, không mâu thuẫn với văn bản do cơ quan Nhà nước cấp trên ban hành.
       Tính thống nhất của pháp chế không loại trừ việc cân nhắc những điều kiện của ngành, của địa phương khi thực hiện pháp luật. Các cơ quan nhà nước ở các ngành, các cấp một mặt phải thực hiện nghiêm chỉnh pháp luật đã được quy định thống nhất cho cả nước, mặt khác, trong thực hiện pháp luật cần phải tính đến những hoàn cảnh, điều kiện, đặc thù của ngành, cấp, của địa phương để tìm kiếm những hình thức thực hiện pháp luật một cách sáng tạo, năng động trong giới hạn pháp luật cho phép.
       Sự thống nhất của pháp chế được bảo đảm bằng hiệu lực tối cao của luật so với các văn bản dưới luật khác. Các văn bản dưới luật khác phải phù hợp với luật. Sự thống nhất của pháp chế phù hợp với việc sáng tạo, áp dụng pháp luật của từng địa phương, từng cơ sở, trên cơ sở thực hiện các văn bản pháp luật do cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương ban hành, không trái với những quy phạm pháp luật có tính đến điều kiện cụ thể những đặc thù của địa phương. Tuy nhiên, các văn bản do các cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương ban hành không được trái với những điều luật đã quy định.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Bảo đảm và bảo vệ các quyền tự do, lợi ích hợp pháp của công dân. Quyền, tự do, lợi ích hợp pháp của công dân được hiến pháp quy định và được cụ thể hoá trong các văn bản luật và  văn bản dưới luật, được các cơ quan nhà nước đề ra các biện pháp cụ thể để bảo đảm thực hiện và bảo vệ. Trong việc cụ thể hoá quyền lợi của công dân phải bảo đảm việc hạn chế quyền công dân ghi trong hiến pháp bằng các đạo luật, tránh sự hạn chế một cách tuỳ tiện.
       Bất kỳ vi phạm pháp luật nào cũng đều xâm phạm trực tiếp hay gián tiếp tới lợi ích của nhà nước, xã hội và công dân. Vì vậy, các cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền phải xử lý nhanh chóng, công minh và có hiệu quả đối với những vi phạm đó. Thực hiện điều đó cần phải kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức hoạt động, thi hành các biện pháp có hiệu quả nhằm ngăn chặn và loại trừ tệ tham nhũng, hối lộ, cửa quyền. Trong các cơ quan công quyền nghiêm trị những phần tử thoái hoá, biến chất, làm sa sút lòng tin của nhân dân. Các cơ quan Toà án, kiểm sát, thanh tra, công an... phải dựa vào nhân dân, các tổ chức quần chúng, phát động phong trào đấu tranh, phòng chống tội phạm để phát hiện và xử lý kịp thời những vụ vi phạm pháp luật.
       Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa hỏi mọi hoạt động của Nhà nước, xã hội đều phải tuân theo pháp luật. Quản lý hành chính nhà nước với ý nghĩa là hoạt động thực thi quyền hành pháp nhằm tác động có tổ chức và điều chỉnh bằng quyền lực nhà nước đối với các quá trình xã hội và hành vi của công dân do các cơ quan trong hệ thống hành chính từ trung ương đến cơ sở tiến hành để thực hiện được chức năng, duy trì trật tự, an ninh, thỏa mãn nhu cầu hàng ngày của nhân dân cũng không nằm ngoài nguyên tắc pháp chế.
Hiệu quả của mỗi hoạt động quản lý nhà nước phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó năng lực, kỹ năng góp phần quan trọng để khẳng định cái ”tôi” của mỗi cá nhân trong xã hội. Cùng được đào tạo chuyên môn, cùng một môi trường công tác như nhau nhưng họ khác nhau về phương pháp làm việc, về cách thức đạt được kết quả dẫn tới hiệu quả công việc của họ rất khác nhau. Mỗi nghề cần có những yêu cầu về năng lực, kỹ năng đặc thù để thích ứng. Việc xác định những năng lực, kỹ năng cần thiết cho một nghề để từ đó đặt ra mục tiêu rèn luyện, phấn đấu; mặt khác để các nhà quản lý có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng những kiến thức, những kỹ năng còn chưa đáp ứng yêu cầu công việc cho họ là một việc làm có ý nghĩa xã hội to lớn.
Kỹ năng là sự thành thạo trong thực hiện có kết quả một tác nghiệp; nó được hình thành qua quá trình học hỏi, đào tạo và tích luỹ kinh nghiệm. Các kỹ năng cơ bản của công chức (cả nhân viên và cán bộ quản lý) ở công sở đòi hỏi cần có kỹ năng nhận thức, chuyên môn, thu thập và xử lý thông tin, giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết), quan hệ (với cấp trên, cấp dưới, đồng nghiệp, với dân và tổ chức), ra quyết định, thực thi - quản lý và kiểm tra... Kỹ năng đối với công chức nói chung được hiểu là, khả năng vận dụng một cách thuần thục những kiến thức, kinh nghiệm thu nhận được trong một lĩnh vực (công vụ) nào đó vào thực tiễn nhằm tăng hiệu lực, hiệu qủa công việc.
       3. Phân tích tình huống
Có thể nói, tình huống trên có rất nhiều điều cần phải xem xét. Tám hộ gia đình tại thôn CK đã sinh sống ổn định trên mảnh đất của họ từ một thời gian dài. Mảnh đất của họ đang sinh sống theo quy định của pháp luật đã đủ điều kiện để được cấp giấy nhận quyền sử dụng đất chưa? Nếu những mảnh đất này có đủ điều kiện để được xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thì quyền lợi của các hộ gia đình sẽ được đảm bảo như thế nào?
Cùng với vấn đề trên là một thời gian dài UBND xã MT đã cho tám hộ gia đình thuê đất từ năm 1992 đến năm 2003. Việc UBND xã MT cho thuê đất có đúng thẩm quyền của chính quyền cấp xã trong quản lý nhà nước về đất đai cũng là một điều cần được làm rõ.
Việc UBND xã MT thông báo tám hộ gia đình không thuộc diện tái định cư có phải là một việc tùy tiện, thiếu cơ sở pháp luật hay không cũng cần được giải đáp.
Vấn đề cuối cùng là việc Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản thông báo ý kiến của chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương án giải quyết chỗ ở tái định cư cho họ. Điều này phải chăng là một sự bất hợp lý và cũng chẳng hợp tình.
Có thể nói tình huống trên đặt ra hàng loạt những câu hỏi cần có lời giải đáp:
a. Dịên tích đất tám hộ dân đang sinh sống tại thôn CK, xã MT, thành phố H có thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất hay không?
b. Ý kiến về việc uỷ ban nhân dân xã MT cho tám hộ dân thuộc thôn CK, xã MT thuê đất trong suốt quá trình từ năm 1992 đến hết năm 2003?
c. UBND xã MT thông báo cho tám hộ dân trên rằng họ không thuộc diện được tái định cư ở đây là đúng hay sai?
d. Có nhận xét gì về việc: Ngày 21/12/2006, Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản thông báo ý kiến của chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương án giải quyết chỗ ở tái định cư cho họ.
đ. Việc UBNF thành phố cho san ủi mặt bằng khi Công văn trả lời khiếu nại “chưa ráo mực”, người dân chưa kê khai hoa màu, cây cối có đúng quy định của pháp luật?
e. Việc UBND thành phố thu tiền sử dụng đất của các hộ có nhu cầu sử dụng đất đối với mảnh đất sắp được thu hồi có đúng quy định của pháp luật?
Từ những câu hỏi trên chúng ta cần tìm là biện pháp để giải quyết tình huống trên theo đúng quy định của pháp luật.
4. Giải quyết tình huống
a. Diện tích đất tám hộ dân đang sinh sống tại thôn CK, xã MT, thành phố H thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Vì, theo quy định tại khoản 6, điều 50 Luật Đất đai được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003 thì: "Hộ gia đình, cá nhân đang sử dụng đất không có các loại giấy tờ quy định tại khoản 1 Điều này nhưng đất đã được sử dụng từ ngày 15/10/1993 đến trước ngày Luật này có hiệu lực thi hành (tức trước ngày 01/7/2004), nay được UBND xã, phường, thị trấn xác nhận là đất không có tranh chấp, phù hợp với quy hoạch sử dụng đất đã được xét duyệt đối với nơi đã có quy hoạch sử dụng đất thì được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất theo quy định của Chính phủ". Như vậy, diện tích đất tám hộ dân trên đang sử dụng thuộc diện được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất và phải nộp tiền sử dụng đất. Trên thực tế, họ đã sinh sống ổn định tại điểm dân cư nông thôn này từ trước năm 2004, không có tranh chấp và hiện nay lại phù hợp với quy hoạch xây dựng khu tái định cư. Điều này cũng có nghĩa quyền lợi của người dân về đất đai ở đây phải được bảo đảm, tôn trọng.
b. Ý kiến về việc UBND xã MT cho tám hộ dân thuộc thôn CK, xã MT thuê đất trong suốt quá trình từ năm 1992 đến hết năm 2003.
Thứ nhất, theo quy định của luật đất đai năm 2003, tại khoản 3 Điều 37: "UBND xã, phường, thị trấn cho thuê đất thuộc quỹ đất nông nghiệp sử dụng vào mục đích công ích của xã". Tuy nhiên trong tình huống trên, đất mà tám hộ dân đang ở thuộc đất khu dân cư nông thôn chứ không phải là quỹ đất nông nghiệp vì vậy UBND xã MT không có thẩm quyền cho thuê loại đất này. Thẩm quyền cho thuê loại đất này (nếu được) thuộc về UBND huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (khoản 2, Điều 37, Luật Đất đai năm 2003).
Thứ hai, trong hơn mười năm (từ năm 1992 đến hết năm 2003), chính quyền xã MT đã thu từ hợp đồng cho thuê đất bao nhiêu tiền, hạch toán ra sao là điều phải làm rõ để xử lý những người vi phạm. Tại khoản 1, Điều 71 Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 16/12/2002 quy định: "Những khoản thu không đúng quy định của pháp luật phải được hoàn trả tổ chức, cá nhân đã nộp".
c. UBND xã MT thông báo cho tám hộ dân trên rằng họ không thuộc diện được tái định cư ở đây là trái với quy định tại khoản 2, Điều34, Nghị định 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi nhà nước thu hồi đất: "Ưu tiên tái định cư tại chỗ cho người bị thu hồi đất tại nơi có dự án tái định cư, ưu tiên vị trí thuận lợi cho các hộ sớm thực hiện giải phóng mặt bằng, hộ có vị trí thuận lợi tại nơi ở cũ, gia đình chính sách". Đối chiếu với tình huống đặt ra, tám hộ dân thôn CK xã MT thuộc diện người bị thu hồi đất tại nơi có dự án tái định cư. Mặt khác, họ lại là những người nghiêm chỉnh chấp hành quyết định thu hồi một phần đất của họ của UBND thành phố H khi có kế hoạch làm đường gom ven Quốc lộ 6. Do vậy, về nguyên tắc họ phải là những người được ưu tiên bố trí tái định cư. Việc UBND xã MT lại thông báo tám hộ dân này không thuộc diện tái định cư là hoàn toàn vô căn cứ.
d. Ngày 21/12/2006, Văn phòng UBND thành phố H ra văn bản thông báo ý kiến của Chủ tịch UBND thành phố H cho biết chính quyền sẽ áp dụng biện pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở của tám hộ dân trong khi chưa có phương án giải quyết chỗ ở tái định cư cho họ.
Văn bản thông báo ý kiến của chủ tịch UBND thành phố H như trên là trái quy định của pháp luật.   
Việc cưỡng chế thi hành quyết định thu hồi đất được quy đinh tại điều 47, Nghị định 197/2004/NĐ-CP (đã dẫn ở trên) chỉ được thực hiện khi chính quyền đã thực hiện đúng các quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư mà "người bị thu hồi đất cố tình không thực hiện quyết định thu hồi đất thì cơ quan quyết định thu hồi đất ra quyết định cưỡng chế và tổ chức thực hiện cưỡng chế theo quy định của pháp luật". Theo tình huống đặt ra, UBND tỉnh H chưa thực hiện đúng các quy định về bồi thường, hỗ trợ tái định cư mà đã có văn bản yêu cầu thực hiện biện pháp cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà của tám hộ dân xã MT. Đây là việc làm không hợp pháp và bất chấp chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ: "Từ nay, các địa phương không được cưỡng chế buộc tháo dỡ nhà ở khi người bị thu hồi đất chưa được giải quyết chỗ tái định cư’’ (Chỉ thị số 05/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/02/2006 về việc khắc phục yếu kém, sai phạm, tiếp tục đẩy mạnh tổ chức thi hành Luật Đất đai).
đ. Khi công dân đang khiếu nại hành vi Uỷ ban nhân dân huyện đã cho san ủi để xây dựng cơ sở hạ tầng và phân lô để cấp cho các gia đình có nhu cầu làm nhà ở đây là hành vi hành chính vừa không hợp pháp, hợp lý. Vì số đất tuy Uỷ ban nhân dân thành phố H đã có quyết định thu hồi nhưng còn đang tranh chấp giữa Uỷ ban nhân dân với các công dân. Quyết định giải quyết khiếu nại của Uỷ ban nhân dân thành phố H chưa phải là quyết định giải quyết cuối cùng theo quy định điều 23 Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 2/12/1998 . Vì vậy, Uỷ ban nhân dân chưa có quyền định đoạt về mặt pháp lý số phận đất đai nói trên.
Việc làm của UBND thành phố H là trái với quy đinh tại Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25-5-2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai. Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện (Điều 63). Khoản 1 quy định “Trong thời hạn không quá chín mươi ngày, kể từ ngày Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp huyện có quyết định hành chính, hành vi hành chính trong quản lý đất đai quy định tại Điều 162 Nghị định số 181/2004/NĐ-CP mà người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan không đồng ý với quyết định hành chính hoặc hành vi hành chính đó thì có quyền nộp đơn khiếu nại đến ủy ban nhân dân cấp huyện”.
Theo quy định này thời hiệu khiếu nại là 90 ngày (Điều 163 Nghị định 181/2004/NĐ-CP quy định là 30 ngày), quy định này mở rộng quyền của người khiếu nại và phù hợp với quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Trường hợp người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết của Chủ tịch UBND cấp huyện thì có quyền khởi kiện ra Toà án nhân dân hoặc khiếu nại đến ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Nếu khiếu nại đến ủy ban nhân dân cấp tỉnh thì Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm giải quyết khiếu nại theo thời hạn quy định của Luật Khiếu nại, tố cáo. Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh là quyết định giải quyết lần hai, phải được công bố công khai và gửi cho người khiếu nại, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan.
Việc giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính trong lĩnh vực đất đai không thuộc trường hợp quy định tại Điều 63 và Điều 64 Nghị định 84/2007/NĐ-CP. Trước đây nếu Nghị định 181/2004/NĐ-CP quy định chỉ có Chủ tịch UBND cấp huyện, Chủ tịch UBND cấp tỉnh giải quyết khiếu nại đối với cán bộ, công chức thuộc quyền quản lý của mình thì Điều 65, Nghị định quy định “Việc giải quyết khiếu nại đối với hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Ủy ban nhân dân xã, phường, thị trấn; hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Phòng Tài nguyên và Môi trường; hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Văn phòng ủy ban nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh; hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Sở Tài nguyên và Môi trường, hành vi hành chính của cán bộ, công chức thuộc Văn phòng ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; quyết định hành chính của Sở Tài nguyên và Môi trường và quyết định hành chính, hành vi hành chính về quản lý đất đai của Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp huyện, Chủ tịch ủy ban nhân dân cấp tỉnh không thuộc trường hợp quy định tại Điều 63 và Điều 64 Nghị định 84/2007/NĐ-CP được thực hiện theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo”.
Từ những phân tích, luận giải ở trên, chúng ta có thể đưa ra các phương án giải quyết cho tình huống trên:
1) Đối với các hộ gia đình có đất bị thu hồi
Thứ nhất, Đối với khoản tiền thu được từ việc cho thuê của UBND xã MT, Chủ tịch UBND thành phố chỉ đạo việc kiểm tra, xem xét và kết luận về thu và sử dụng các khoản thu này. Theo quy định của Luật Ngân sách Nhà nước "Những khoản thu không đúng quy định của pháp luật phải được hoàn trả tổ chức, cá nhân đã nộp". Vì vậy, Chủ tịch UBND thành phố cần chỉ đạo UBND xã MT có phương án hoàn trả tiền thuê đất cho các hộ gia đình.
Thứ hai, UBND thành phố phải ban hành Quyết định hủy bỏ Thông báo của Văn phòng UBND thành phố về việc cưỡng chế buộc tháo dỡ các công trình xây dựng của tám hộ gia đình.
Sau khi thực hiện các công tác trên, UBND thành phố có thể lựa chọn một trong các phương án sau đây:
- Phương án 1: Căn cứ vào hiện trạng đất của 8 hộ gia đình trên, Chủ tịch UBND thành H xem xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho họ và thu tiền sử dụng đất theo quy định của pháp luật. Căn cứ vào quy hoạch khu vực tái định cư của tỉnh để xác định diện tích của các hộ gia đình trong khu vực được nhận. Diện tích đất của các hộ nếu còn thừa ra thì thực hiện thu hồi song phải có đền bù theo quy định của pháp luật. Phương án này có ưu điểm là cuộc sống của tám hộ gia đình ít biến động. Tuy nhiên, việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có thu tiền cũng tùy thuộc vào khả năng kinh tế của các hộ. Hơn nữa, nếu thực hiện theo phương án này có thể ít nhiều ảnh hưởng đến quy hoạch tổng thể khu vực tái định cư.
- Phương án 2: Xây dựng phương án tái định cư cho tám hộ gia đình trong khu vực. Sau đó, thu hồi toàn bộ diện tích đất của các hộ gia đình có đền bù theo quy định của Chính phủ và Quyết định của UBND tỉnh. Phương án này giúp UBND thành phố chủ động thực hiện quy hoạch tái định cư. Người dân vẫn đảm bảo quyền lợi của mình đồng thời chính quyền có thể thực hiện được phương án quy hoạch đã được phê duyệt. Xét một cách tổng thể, phương án này nên được triển khai.
Từ phía người dân trong trường hợp UBND thành phố H không giải quyết quyền lợi của họ thì các hộ dân có thể có hai hướng để bảo vệ quyền lợi của mình.
Thứ nhất, các hộ gia đình khởi kiện quyết định của UBND thành phố H đến Tòa hành chính thành phố H.
Thứ hai, các hộ gia đình khiếu nại lên Chủ tịch UBND cấp tỉnh để Chủ tịch UBND tỉnh giải quyết.
2) Đối với các hộ gia đình đã nộp tiền để nhận được quyền sử dụng đất
Uỷ ban nhân dân thành phố H, tuy chưa có quyết định bằng văn bản cấp giấy chứng nhân quyền sử dụng đất cho các hộ đăng ký xin được cấp đất. Nhưng việc thông báo của Uỷ ban nhân dân thành phố H và việc đăng ký, nộp tiền đầy đủ của các hộ dân cư thực chất là đã ký kết "hợp đồng hành chính". Trong đó, những người xin cấp đất đã  thực hiện đầy đủ nghĩa vụ của mình đối với nhà nước. Vì vậy, Uỷ ban nhân dân thành phố H cũng phải thực hiện nghĩa vụ đối với dân cư. Nhưng trong hợp đồng này, cơ quan hành chính nhà nước có đặc quyền hành chính là thay đổi điều kiện "hợp đồng hành chính" ở những nội dung không căn bản. Từ vấn đề lý luận có tính nguyên tắc như vậy, phương án đặt ra để giải quyết sự kiện này là:
- Uỷ ban nhân dân thành phố H cần phải họp mặt các hộ gia đình đã nộp tiền sử dụng đất để thống nhất lại với họ về địa điểm, mặt bằng, ra quyết định cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho các hộ đã đăng ký và nộp tiền đầy đủ và rút bớt diện tích của từng lô đất xuống một cách hợp lý sao cho phù hợp quy hoạch;
- Hoàn trả lại cho các hộ đăng ký và đã nộp đủ tiền đất số tiền chênh lệch (nếu có) sau khi đã điều chỉnh lại diện tích sử dụng của họ.
Việc thực hiện phương án này chừng mực nhất định sẽ gây phản ứng của những người sẽ đăng ký và đã nộp tiền sử dụng đất. Để thực hiện phương án này Uỷ ban nhân dân thành phố H chỉ còn mỗi biện pháp dựa vào công tác vận động, thuyết phục, không thể dùng mệnh lệnh hành chính. Điều quan trọng hơn cả là nhận khuyết điểm trước nhân dân về những quyết định sai trái của mình, kiểm điểm và thông báo cho đân biết kết quả xử lý những người trực tiếp có khuyết điểm dẫn đến quyết định sai trái của Uỷ ban nhân dân thành phố H. Với cách làm như vậy sẽ giải quyết được tình huống một cách hợp lý, hợp pháp, có tính khả thi.
III) Kiến nghị
       Trong số những yếu tố chủ quan làm suy giảm pháp chế phải kể đến sự kém hiểu biết về pháp luật của cán bộ, công chức nhà nước trong các cơ quan nhà nước, tính quan liêu còn tồn tại trong các bộ máy nhà nước, sự lạm dụng quyền lực nhà nước của những người có chức, có quyền, lạm quyền dẫn đến sự phá hoại pháp chế. Những sự vi phạm như trên dẫn đến sự rệu rã bộ máy nhà nước, làm giảm sự tôn trọng pháp luật, làm suy yếu tính quyền lực của nhà nước, làm giảm tính đấu tranh của cán bộ, nhân viên trong việc xây dựng bộ máy nhà nước. Có thể nói đó là một trong những khâu quan trọng nhất trong việc phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa và mở rộng quyền dân chủ trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa.
Tình huống trên một lần nữa cho thấy những sai phạm trong quản lý nhà nước về đất đai ở địa phương. Sai phạm trong quản lý nhà nước về đất đai không chỉ ở cấp chính quyền cơ sở mà ở cấp chính quyền cao hơn cũng có những sai phạm. Những sai phạm này bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân song một nguyên nhân căn bản là cán bộ chính quyền không nắm vững các quy định của pháp luật, chính sách quản lý của nhà nước. Từ đó dẫn đến tình trạng ban hành các quyết định hành chính trái pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân.
Những sai phạm của chính quyền xã MT và thành phố H thực sự là một bài học đối với những người làm công tác quản lý nhà nước về đất đai. Thiết nghĩ để đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, UBND tỉnh cần phải xem xét và những quyết định xử lý đúng người, đúng pháp luật trong các sai phạm nói trên. Việc xử lý nghiêm minh sẽ giúp cho các cán bộ, công chức ngày càng ý thức đầy đủ hơn về trách nhiệm của mình trong quản lý, nâng cao trách nhiệm của cá nhân, tổ chức đối với các quyết định hành chính, hành vi hành chính.
Cùng với việc áp dụng các biện pháp xử lý kỷ luật đối với cán bộ, công chức có sai phạm, một điều cũng cần được chú ý ở đây là cần phải nâng cao năng lực quản lý của chính quyền các cấp bằng việc tạo điều kiện cho cán bộ, công chức học tập, nâng cao trình độ, cập nhật các quy định của pháp luật, chính sách của Nhà nước tránh những sai phạm do thiếu hiểu biết về chính sách pháp luật. Những sai phạm tiếp nối sai phạm sẽ ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân đối với chính quyền.
KẾT LUẬN
Với tất cả những nguyên nhân nói trên từ quyết định, hành vi không hợp pháp và hợp lý của Uỷ ban nhân dân thành phố H đã dẫn tới tình trạng khiếu kiện của dân, và đặt Uỷ ban nhân dân thành phố H phải giải quyết tình huống do chính mình gây nên. Đây là bài học cần rút kinh nghiệm cho các cấp quản lý.
Để sửa chữa những sai phạm của mình, Chủ tịch UBND thành phố H cần sớm triển khai phương án giải quyết về quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân. Biết nhận ra sai lầm và sửa chữa với sự công tâm, tinh thần trách nhiệm, tinh thần cầu thị sẽ giúp chính quyền thành phố H nhận được sự tin cậy của nhân dân. Chính quyền quản lý tốt tất yếu sẽ có được uy tín, lòng tin của nhân dân.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1- Luật Đất đai được Quốc hội thông qua ngày 26/11/2003
2- Luật Ngân sách Nhà nước được Quốc hội thông qua ngày 16/12/2002
3- Luật Khiếu nại, tố cáo ngày 2/12/1998
3- Nghị định số 84/2007/NĐ-CP ngày 25-5-2007 của Chính phủ quy định bổ sung về việc cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, thu hồi đất, thực hiện quyền sử dụng đất, trình tự, thủ tục bồi thường, hỗ trợ, tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất và giải quyết khiếu nại về đất đai
4- Nghị định 197/2004/NĐ-CP của Chính phủ ngày 03/12/2004 về bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất.
5-Nghị định số 17/2006/NĐ-CP ngày 27/01/2006 của Chính phủ về sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định 197,...
6- Chỉ thị số 05/2006/CT-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 22/02/2006 về việc khắc phục yếu kém, sai phạm, tiếp tục đẩy mạnh tổ chức thi hành Luật Đất đai.
7-Báo điện tử Việt Nam nét.